Thẩm quyển sửa bản án hình sự sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm và hình phạt tiền

Câu hỏi:

Một bạn đọc đề nghị ẩn danh có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tháng 11-2019, TAND quận 7, TP.HCM đã xử sơ thẩm, phạt anh H một năm ba tháng tù và phạt bổ sung số tiền 20 triệu đồng về tội tổ chức đánh bạc. Sau đó H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Tháng 2-2020, TAND TP.HCM xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm, chuyển phần hình phạt tù thành phạt tiền là 50 triệu đồng.

Tôi xin hỏi, bản án phúc thẩm trên của TAND TP.HCM có đúng không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

  1. I. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13;

– Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung bới Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14;

  1. Nội dung

Bản án hình sự phúc thẩm trên của TAND TP.HCM là không đúng quy định của pháp luật

  1. Hình phạt là gì?

Về khái niệm hình phạt thì tại Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 tại Điều 30 có quy định:

“Điều 30. Khái niệm hình phạt

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.”

  1. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì:

“Điều 355. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm

  1. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền:
  2. a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
  3. b) Sửa bản án sơ thẩm;
  4. c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
  5. d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án;

đ) Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm…”

Như vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm.

Trong trường hợp này, anh H đã có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên theo khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì thẩm quyền của Hội đồng xét xử khi sửa bản án là:

“Điều 357. Sửa bản án sơ thẩm

  1. Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
  2. a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp;
  3. b) Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
  4. c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
  5. d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;

đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn;

  1. e) Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo…”

Như vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm và chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn.

  1. Quy định về hình phạt tiền

Ở bản án hình sự phúc thẩm thì cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung đều là phạt tiền.

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 và điểm e khoản 2 Điều 32 Bộ luật Hình sự thì:

“Điều 32. Các hình phạt đối với người phạm tội

  1. Hình phạt chính bao gồm:

  1. b) Phạt tiền;

  1. Hình phạt bổ sung bao gồm:

  1. e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;…”

Như vậy, hình phạt tiền không thể đồng thời là hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Vậy,  Hội đồng xét xử phúc thẩm có thẩm quyền sửa bản án hình sự sơ thẩm, chuyển hình phạt do Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên sang hình phạt khác nhẹ hơn. Nhưng do không thể đồng thời là hình phạt chính và hình phạt bổ sung là phạt tiền nên do đó TAND TP.HCM đã vi phạm quy định pháp luật.

Trên đây là nội dung quy định về  thẩm quyển sửa bản án hình sự sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm và hình phạt tiền. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

 

Thủ tục yêu cầu tuyên bố một người là đã chết

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13;

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

  1. Nội dung
  2. Thời điểm yêu cầu

Thời điểm có thể yêu cầu Toà án tuyên bố một người là đã chết được quy định tại khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 71. Tuyên bố chết

  1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
  2. a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
  3. b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
  4. c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
  5. d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này…”

Như vậy, thời điểm có thể yêu cầu Toà án tuyên bố một người là đã chết được quy định như sau:

– Kể từ ngày có quyết định tuyên bố một người mất tích của Toá án sau 03 năm có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.

– Biệt tích sau chiến tranh sau 05 năm, từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức còn sống.

– Bị tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai sau 02 năm, kể từ ngày xảy ra tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức còn sống.

– Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có bất kỳ thông tin xã thực là còn sống.

  1. Thủ tục tuyên bố một người là đã chết
  2. a) Hồ sơ, giấy tờ cần chuẩn bị

– Đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự (Mẫu đơn 01 Nghị quyết 04/2018/NQ-HĐTP)

– Bản sao CMND/CCCD/Hộ chiếu của người nộp hồ sơ và người được yêu cầu tuyên bố

– Các chứng cứ chứng minh người bị yêu cầu đã thoả mãn điều kiện.

  1. b) Thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết

Khi nhận đủ các tài liệu, chứng cứ cần thiết, Toà án ra quyết định thông báo tìm kiếm thông tin người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết.

Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố đã chết là 04 tháng, kể từ ngày đăng thông báo đầu tiên.

  1. c) Quyết định tuyên bố một người là đã chết

Sau thời hạn thông báo tìm kiếm thông tin của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết mà không có thông tin nào thì Toà án sẽ ra quyết định tuyên bố người đó là đã chết theo quy định tại Điều 393 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

“Điều 393. Quyết định tuyên bố một người là đã chết

Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết; trong quyết định này, Tòa án phải xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự.”

Trên đây là nội dung quy định về thủ tục yêu cầu tuyên bố một người là đã chết  . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Hiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ

Câu hỏi:

Bà T.M.H ở Hà Nội có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Ngày 07-6-2011, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A (gọi tắt là Bên mua, Công ty A) và Công ty B (gọi tắt là Bên bán) có ký hợp đồng mua bán hàng hóa số INCOTER/RCN/IVC/036/2020 ngày 07-6-2020 (gọi tắt là Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2020). Theo nội dung Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2020, Bên mua mua hạt tiêu thô nguồn gốc Tây Nguyên, số lượng là 1000 tấn x 32.545.500đ/tấn theo phương thức thanh toán 98% L/C trả chậm trong vòng 90 ngày kể từ ngày giao hàng dựa trên vận tải đơn (B/L) theo tiêu chuẩn chất lượng như sau:

– Hạt: số hạt tối đa là 305/kg. Từ chối là 320 hạt/kg;

– Độ ẩm tối đa là 10%. Từ chối độ ẩm là trên 12%.

Hàng hóa sẽ được Vinacontrol giám định chất lượng và khối lượng tại thời điểm giao hàng tại Cảng đến là Cảng Hải An.

Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C), 2 bên thỏa thuận áp dụng quy định tại UCP 600, thư L/C trả chậm trong vòng 90 ngày, nên ngày 07-7-2020, Bên mua đã yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ mở L/C trả chậm số 1801ILUEIB10**2 (sau đây gọi tắt là L/C số 1801) để Bên mua hoàn thiện thủ tục mua lô hàng từ Bên bán.

Sau khi nhận hàng, theo Điều 8 của Hợp đồng, Bên mua đã kiểm tra lại chất lượng và khối lượng lô hàng tại Cảng dỡ hàng là Cảng Hải An tỉnh Hải Phòng với sự giám sát của Vinacontrol thì phát hiện hàng hóa của Bên bán không đảm bảo chất lượng. Cụ thể theo hai chứng thư của Vinacontrol số 11G04HN05957-01 và số 11G04HN05939-01 ngày 31-8-2020 giám định về khối lượng, phẩm chất và tình trạng hàng hóa thì kết quả giám định thể hiện hàng hóa đều không đạt tiêu chuẩn. Trước sự việc gian lận thương mại đó, Bên mua đã nhiều lần cố gắng liên lạc với Bên bán để giải quyết vấn đề phát sinh về chất lượng lô hàng hạt điều nhập khẩu nhưng không nhận được bất cứ phản hồi nào từ phía Bên bán.

Do đó, ngày 15-9-2020 Bên mua nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Hải Phòng yêu cầu Tòa án buộc Bên bán nhận lại lô hàng 1.000 tấn vì chất lượng nằm trong điều kiện từ chối nhận hàng của Hợp đồng, không đồng ý thanh toán tiền mua hàng, đồng thời yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E tạm ngưng thanh toán cho Bên bán số tiền 32.547.500.000đ của L/C số 1801 theo cam kết thanh toán của Bên mua cho đến khi có quyết định khác của Tòa án.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 356/2020/KDTM-ST ngày 27/12/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Phòng quyết định:

“1. Hủy bỏ Hợp đồng mua bán số INCOTER/RCN/IVC/036/2020 ngày 07-6-2020 giữa Bên bán là Công ty B và Bên mua là Công ty TNHH một thành viên A…”

Tôi xin hỏi, L/C số 1801 còn hiệu lực thanh toán không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý
  • Luật Các tổ chức tín dụng năm số 47/2010/QH12;
  • Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13;

– Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ;

– Án lệ số 13/2017/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

  1. Nội dung

Thư tín dụng chứng từ trả chậm số 1801ILUEIB10**2 vẫn còn nguyên giá trị hiệu lực.

  1. Nội dung cơ bản của Án lệ số 13/2017/AL về hiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ

Án lệ số 13/2017/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nội dung cơ bản của Án lệ số 13/2017/AL :

Như vậy, theo đơn đề nghị mở L/C của Bên mua và nội dung L/C đã phát hành thì L/C số 1801 là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; được chi phối và áp dụng theo UCP 600. Theo quy định của UCP 600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát hành phải thanh toán khi xác định bộ chứng từ xuất trình là phù hợp tại Ngân hàng…

Tòa án cấp sơ thẩm lại cho rằng phương thức thanh toán bằng L/C số 1801 là một phần không thể tách rời của Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; do vậy, khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; từ đó quyết định L/C số 1801 không còn hiệu lực thanh toán và Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N theo L/C nêu trên; đồng thời buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phải trả cho bên mua số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD là chưa đủ cơ sở và chưa đúng với các quy định tại UCP 600″.”

Trường hợp này, phải xác định rằng phương thức thanh toán bằng L/C số 1801 là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa.

Căn cứ vào Án lệ nêu trên, đối với những trường hợp đáp ứng đủ các tình tiết dưới đây thì phải xác định rằng phương thức thanh toán bằng L/C số 1801 là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa.

Tình tiết cơ bản của Án lệ 13:

– Các bên thỏa thuận áp dụng tập quán UCP 600;

– Ngân hàng và các bên đã có giao dịch L/C phù hợp theo quy định;

– Hợp đồng bị hủy bỏ không do lỗi của ngân hàng;

  1. 2. Bản chất của thư tín dụng

Theo quy định pháp luật Việt Nam về thanh toán chứng từ, thì:

Tại khoản 4 Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, quy định: “Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, bao gồm: Tập quán thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế ban hành; tập quán thương mại khác không trái với pháp luật Việt Nam”.

Tại khoản 1 Điều 16 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26-3-2002 của Ngân hàng Nhà nước về “Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán” quy định: “Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được Ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng) để:

Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng; hoặc chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng”.

Theo Bản sửa đổi về quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 của Phòng Thương mại Quốc tế (UCP 600) thì:

“Điều 2:

…Tín dụng thư là một sự thỏa thuận, dù cho được mô tả hoặc đặt tên thế nào, là không thể hủy bỏ và theo đó là một sự cam kết chắc chắn của Ngân hàng phát hành để thanh toán khi xuất trình chứng từ phù hợp…”

“Điều 4:

…Về bản chất, tín dụng là một giao dịch riêng biệt với Hợp đồng mua bán và các hợp đồng khác là cơ sở của tín dụng. Các Ngân hàng không liên quan đến hoặc ràng buộc bởi các hợp đồng như thế, thậm chí ngay cả khi tín dụng có dẫn chiếu đến các hợp đồng như thế. Vì vậy, sự cam kết của một Ngân hàng để thanh toán hoặc thương lượng thanh toán,… không phụ thuộc vào khiếu nại hoặc biện hộ của người yêu cầu phát hành tín dụng phát sinh từ các quan hệ của họ với Ngân hàng phát hành hoặc người thụ hưởng…”

“Điều 5:

…Ngân hàng giao dịch với chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác mà các chứng từ có liên quan…”

 “Điều 7:

…Ngân hàng phát hành bị ràng buộc không thể hủy bỏ đối với việc thanh toán từ thời điểm Ngân hàng phát hành L/C…”

“Điều 15a:

…Khi ngân hàng phát hành xác định việc xuất trình là phù hợp, thì nó phải thanh toán…”

Như vậy, theo đơn đề nghị mở L/C (thư L/C) của Bên mua và nội dung L/C đã phát hành thì L/C số 1801 là một giao dịch hoàn toàn hợp lệ; được chi phối và áp dụng theo UCP 600 mà các bên đã thỏa thuận.Việc hợp đồng bị hủy bỏ là do lỗi của bên bán hàng.

  1. Việc áp dụng án lệ trong xét xử

Việc áp dụng án lệ trong xét xử phải tuân thủ theo những nguyên tắc quy định tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ:

“Điều 8. Áp dụng án lệ trong xét xử

Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.

Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.”

Như vậy, để được áp dụng án lệ vào vụ án này thì nội dung vụ án phải có tình huống tương tự án lệ.

Trong câu hỏi anh gửi đến Công ty luật thì thư tín dụng chứng từ trả chậm số 1801ILUEIB10**2 vẫn còn nguyên giá trị hiệu lực.

Vậy, trường hợp các bên thỏa thuận áp dụng UCP 600, giao dịch qua thư L/C hợp lệ và hợp đồng bị hủy không do lỗi ngân hàng thì xác định thư tín dụng chứng từ trả chậm là giao dịch độc lập với hợp đồng.

Trên đây là nội dung quy định về hiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự         

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

  1. Nội dung
  2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo quy định tại Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì có các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:

“Điều 114. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

  1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
  2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
  3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
  4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
  5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.
  6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
  7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
  8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
  9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác.
  10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.
  11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
  12. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.
  13. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.
  14. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.
  15. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.
  16. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
  17. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.”
  18. Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Căn cứ theo khoản 10 Điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, chuyển dịch tài sản.

tim viec lam, tim viec lam them, tim viec nhanh va hieu qua

Theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì:

“Điều 112. Thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

  1. Trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán xem xét, quyết định.
  2. Tại phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.”

Việc đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không loại trừ quyền khởi kiện của các bên. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó.

  1. Trường hợp Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:

“Điều 135. Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 114 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.”

Như vậy, theo Điều 135 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì òa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:

  1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
  2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
  3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
  4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
  5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.

Trên đây là nội dung quy định về   các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện     

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

– Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 do Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành hướng dẫn Quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ Luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi Bộ Luật tố tụng dân sự;

  1. Nội dung

Trả lại đơn khởi kiện là một hành vi pháp lý của Tòa án đối với đơn khởi kiện của nguyên đơn. Để làm rõ các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện thì ta cần làm rõ khái niệm trả lại đơn khởi kiện.

  1. Khái niệm trả lại đơn khởi kiện

Trả lại đơn khởi kiện là việc Tòa án sau khi xem xét thụ lý vụ án, đã trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo cho người khởi kiện bởi thấy việc khởi kiện chưa đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện nên không thể thụ lý vụ án.

  1. Những trường hợp trả lại đơn khởi kiện

Trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Đây là trường hợp  người khởi kiện không thuộc trường hợp quy định tại Điều 161, 162 Bộ Luật Tố tụng Dân sự hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng. Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự là người không có khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 57 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự.

Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện; Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP đã hướng dẫn về việc “Chưa có đủ điều kiện khởi kiện” là trường hợp các đương sự có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định về hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.”

Sau khi hết thời hạn được thông báo tạm ứng án phí quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ Luật Tố tụng Dân sự, cụ thể là 15 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện. Đối với trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng thì tòa án sẽ không thể lấy căn cứ này để trả lại đơn khởi kiện.

Trường hợp chưa có đủ điều kiện khởi kiện thì tòa án trả lại đơn khởi kiện. Đây là trường hợp các đương sự có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định về hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các điều kiện đó. Ví dụ theo quy định của Luật Đất đai thì đối với các tranh chấp liên quan đến đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án thì trước khi khởi kiện ra tòa án, vụ việc phải được hòa giải tại cơ sở. Hoặc trường hợp người chồng khởi kiện vụ án ly hôn khi người vợ đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

Khi đối tượng khởi kiện là quyền sử dụng đất thì cần lưu ý một số điều kiện khởi kiện được pháp luật quy định tại Khoản 3, Điều 8 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP như sau:

“a) Đối với tranh chấp ai có quyền sử dụng đất thì phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 135 của Luật Đất đai.

  1. b) Đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì không phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp nhưng vẫn phải thực hiện thủ tục hoà giải theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.”

Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án là trường hợp không thuộc một trong các tranh chấp quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Khi có căn cứ này, tòa án tiến hành thủ tục trả lại đơn khởi kiện cho tòa án. Cần lưu ý rằng đây là trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền theo vụ việc của tòa án chứ không phải trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của tòa án.

Người khởi kiện không bổ sung đơn khởi kiện trong thời hạn theo quy định của pháp luật Đây là quy định hoàn toàn mới có ý nghĩa buộc người khởi kiện phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chứng minh ngay từ những bước đầu tiên của quá trình tố tụng tại tòa án bởi các quy định của pháp luật hiện nay đang hướng đến việc đề cao vai trò, nghĩa vụ chứng minh của đương sự, việc thu thập chứng cứ của tòa án là hạn chế và không phải trường hợp nào tòa án cũng tiến hành thu thập chứng cứ.

Trên đây là nội dung quy định về   các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Đối tượng chứng minh và việc xác định sự thật vụ án                         

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

  1. Nội dung
  2. Các nội dung phải chứng minh

Từ thời La Mã, câu châm ngôn “hãy cho tôi sự thật rồi tôi – tòa án, sẽ cho anh công lý” đã được hình thành. Điều đó nghĩa là chứng tỏ những gì mình phàn nàn hay cáo buộc là có thật. Bởi vậy, bản chất của hoạt động của các đương sự không phải là việc xác định sự thật mà việc thuyết phục một sự tin cậy của quan toà đối với các đòi hỏi, cáo buộc của mình bằng các chứng cứ, những lập luận kèm theo. Đối tượng của chứng minh, vì thế là những giả thuyết mà tự họ đặt ra trong đơn kiện hoặc yêu cầu phản tố.

Để chứng minh một giả thuyết trong hoạt động áp dụng pháp luật, người ta thường phải chứng minh các nội dung cụ thể sau:

–          Chủ thể cáo buộc là người có quyền;

–          Chủ thể cáo buộc bị thiệt hại hoặc tranh chấp về quyền;

–          Chủ thể bị cáo buộc đã thực hiện hành vi trái luật;

–          Tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của chủ thể bị cáo buộc với thiệt hại của chủ thể cáo buộc. Nói cách khác, thiệt hại của nguyên cáo là do bên bị cáo buộc gây ra.

Như vậy, bên nguyên sẽ phải chứng minh tất cả các nội dung trên để khẳng định mình thực sự bị vi phạm và gây thiệt hại do hành vi của phía bên kia. Tùy từng trường hợp và ở tùy từng nước, nghĩa vụ chứng minh này có thể sẽ được giảm nhẹ hoặc đảo ngược như là những ngoại lệ của nghĩa vụ chứng minh.

Khác với các bên trong vụ án, tòa án là chủ thể trung lập, họ nhận định sự việc và đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ án. Những đòi hỏi của pháp chế buộc tòa án phải có trách nhiệm đưa ra bản án phù hợp với thực tế khách quan và đúng pháp luật. Để bản án của mình phù hợp với thực tế khách quan, tòa án luôn bị đặt lên vai một nghĩa vụ là xác định sự thật hay theo cách gọi của khoản 1, Điều 225 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là “xác định các tình tiết của vụ án”.

  1. Nghĩa vụ chứng minh

Quy định về nghĩa vụ chứng munh đối với các đương sự là một trong những nội dung quan trọng của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhằm làm cơ sở cho các đương sự xác định những nghĩa vụ của mình khi đưa ra yêu cầu, thực hiện tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Nếu đương sự không cung cấp được tài liệu chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và Tòa án không thể thu thập chứng cứ được thì có khả năng đương sự sẽ bị Tòa án tuyên bác yêu cầu. Đồng thời trong quá trình giải quyết phải đảm bảo cho người yếu thế không thể cung cấp được tài liệu chứng cứ vẫn có điều kiện thực hiện việc tranh tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên có một số trường hợp cụ thể nghĩa vụ chứng minh phải thuộc về người bị yêu cầu (bị đơn). Vì vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

  1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người bị yêu cầu:
  • Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
  • Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lí do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lí, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
  • Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp động lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp động lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động.
  • Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
  1. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
  2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

  1. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án sẽ giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.

Trên đây là nội dung quy định về đối tượng chứng minh và việc xác định sự thật vụ án  . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Nghĩa vụ chịu án phí khi người khởi kiện có 1 người là người cao tuổi 

 

Câu hỏi:

Ông N.T.T và bà T.H.H cùng khởi kiện anh L.Q.T yêu cầu anh L.Q.T trả lại tài sản đã vay. Toàn bộ yêu cầu của ông N.T.T và bà T.H.H không được Tòa án sơ thẩm chấp nhận. Khi khởi kiện ông N.T.T đã 72 tuổi và T.H.H đã 56 tuổi.

Tôi xin hỏi, ông bà N.T.T và bà T.H.H có nghĩa vụ đóng án phí sơ thẩm không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

  1. I. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

  1. Nội dung
  2. Trách nhiệm chịu án phí của nguyên đơn

Theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành:

“Điều 26. Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm

  1. Nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận…”

Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:

“Điều 68. Đương sự trong vụ việc dân sự

  1. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm…”

Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2016:

“Điều 186. Quyền khởi kiện vụ án

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”

Như vậy, ông  N.T.T và bà T.H.H có nghĩa vụ chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

  1. Khái niệm người cao tuổi

Theo quy định Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009:

“Điều 2. Người cao tuổi

Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.”

Như vậy, ông N.T.T được xác định là người cao tuổi và bà T.H.H không được xác định là người cao tuổi.

  1. Nghĩa vụ án phí của người cao tuổi

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì các đối tượng sau được miễn nộp án phí:

“Điều 12. Miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án

  1. Những trường hợp sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:

đ) Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ…”

Như vậy, ông N.T.T là người cao tuổi và thuộc trường hợp được miễn án phí.

  1. Nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm trong vụ án có người được miễn án phí

Theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14:

“Điều 26. Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm

  1. Trong vụ án có người không phải chịu án phí hoặc được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm thì những người khác vẫn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều này…”

Như vậy, ông N.T.T được miễn án phí nhưng bà T.H.H không được miễn án phí.

  1. Phần án phí sơ thẩm mà bà T.H.H phải nộp

Theo quy định tại khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì:

“Điều 26. Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm

  1. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận…”

Vậy, bà T.H.H phải chịu án phí sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của bà không được Tòa án chấp nhận.

Trên đây là nội dung quy định về nghĩa vụ chịu án phí khi người khởi kiện có 1 người là người cao tuổi. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm phải được gửi đến Tòa nào   

sCâu hỏi:

Anh H.A.V ở Quảng Ninh có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Gia đình tôi làm đơn kháng cáo bản án của Tòa án sơ thẩm.

Tôi xin hỏi, đơn này chúng tôi sẽ nộp ở Tòa phúc thẩm hay Tòa sơ thẩm?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

  1. I. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

  1. Nội dung

Gia đình bạn có thể gửi đơn kháng cáo cho Tòa sơ thẩm hoặc Tòa phúc thẩm.

  1. Quyền kháng cáo

Theo quy định tại Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì có thể kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm:

“Điều 271. Người có quyền kháng cáo

Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.”

Theo quy định tại khoản 7 Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo:

“Điều 272. Đơn kháng cáo

  1. Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo …”

Như vậy, về đúng thủ tục tại Bộ luật Tố tụng dân sự thì đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm phải nộp đến Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo.

  1. Chuyển đơn kháng cáo

Tại khoản 7 Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì trường hợp, nếu người có quyền kháng cáo nộp Đơn kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định:

“Điều 272. Đơn kháng cáo

7… Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật này.

…”

Vậy, theo quy định trên thì gia đình bạn có thể gửi đơn kháng cáo cho Tòa sơ thẩm hoặc Tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, để đơn giản về thủ tục, gia đình bạn cần làm đơn kháng cáo gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định.

Trên đây là nội dung quy định về Tòa án có thẩm quyền giải quyết đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các  biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và trường hợp Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

  1. Nội dung
  2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo quy định tại Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì có các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:

“Điều 114. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

  1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
  2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
  3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
  4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
  5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.
  6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
  7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
  8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
  9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác.
  10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.
  11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
  12. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.
  13. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.
  14. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.
  15. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.
  16. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
  17. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.”
  18. Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Căn cứ theo khoản 10 Điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, chuyển dịch tài sản.

Theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì:

“Điều 112. Thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

  1. Trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán xem xét, quyết định.
  2. Tại phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.”

Việc đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không loại trừ quyền khởi kiện của các bên. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó.

  1. Trường hợp Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:

“Điều 135. Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 114 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.”

Như vậy, theo Điều 135 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì òa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:

  1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
  2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
  3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
  4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
  5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.

Trên đây là nội dung quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và trường hợp Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trường hợp vụ án bị đình chỉ do nguyên đơn vắng mặt hai lần khi được Tòa án triệu tập thì có quyền khởi kiện lại không ?

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

  1. Nội dung
  2. Trường hợp Tòa án đình chỉ vụ án do nguyên đơn vắng mặt 2 lần khi được Tòa án triệu tập hợp lệ

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về việc đình chỉ vụ án dân sự:

“Điều 217. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

  1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
  2. a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;
  3. b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
  4. c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;…”
  5. Quyền khởi kiện lại vụ án bị đình chỉ do nguyên đơn vắng mặt sau khi được Tòa án triệu tập hợp lệ 2 lần

Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được quy định tại Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 như sau:

“Điều 218. Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

  1. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật…”

Theo quy định pháp luật được trích dẫn nêu trên, trường hợp vụ án dân sự bị đình chỉ vì lý do nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thuộc trường hợp quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, nguyên đơn hoàn toàn có thể khởi kiện lại vụ án trên theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung quy định về quyền khởi kiện lại trong trường hợp vụ án bị đình chỉ do nguyên đơn vắng mặt hai lần khi được Tòa án triệu tập hợp lệ . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thành phần của sự kiện bất khả kháng

Câu hỏi:

Anh V.N.P ở thành phố Huế có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tôi là một cư dân của một tòa chung cư trên địa bàn thành phố Huế. Tôi có gửi xe hơi cá nhân tại hầm gửi xe của tòa chung cư. Đợt mưa lũ vừa rồi vào đêm 8/10, cả hầm gửi xe của chung cư đã bị ngập nước và làm hư hỏng toàn bộ động cơ của các xe ở trong, bao gồm cả xe của tôi. Tìm hiểu kỹ thì hầm bị ngập nước là do hệ thống cống thoát nước của tầng hầm do lâu ngày không được bảo dưỡng nên đã bị tắc nghẽn, thực tế là vùng xung quanh chung cư không bị ngập. Tổng chi phí để sửa chữa lại xe tôi là ít nhất 300.000.000 đồng. Khi tôi yêu cầu đền bù thì người có trách nhiệm với hầm giữ xe đã trả lời là đợt mưa lũ vừa rồi là sự kiện bất khả kháng nên được miễn trách nhiệm đền bù.

Tôi xin hỏi, vụ việc của tôi kể trên có được coi là sự kiện bất khả kháng không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

  1. I. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13;

  1. Nội dung
  2. Khái niệm sự kiện bất khả kháng

Trên thực tế, có những biến cố xảy ra khiến hợp đồng dân sự không được thực hiện một cách suôn sẻ, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các thỏa thuận trong hợp đồng. Trong đó có những sự cố nằm ngoài khả năng dự đoán, kiểm soát của các bên và xảy ra không phải do lỗi của các bên.

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nội dung này tại Điều 156:

“Điều 156. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự

  1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép…”

  1. Điều kiện của sự kiện bất khả kháng

Điều kiện để một sự kiến coi là bất khả kháng

Theo quy định này, một sự kiện chỉ được coi là bất khả kháng khi hội tụ đủ ba yếu tố:

  • Xảy ra một cách khách quan: Sự kiện đó nằm ngoài phạm vi kiểm soát của các bên có hành vi vi phạm hợp đồng.
  • Không lường trước được: Hậu quả xảy ra không thể lường trước được tại thời điểm giao kết hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng cho đến trước thời điểm xảy ra hành vi vi phạm
  • Hậu quả xảy ra không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng các như tắc biên, mất điện, lỗi mạng, …là trường hợp ngoại lệ để miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Như vậy, trong quan hệ dân sự, bên có hành gây ra thiệt không phải bồi thường thiệt hại trong mọi trường hợp. Đối với những hành vi vi phạm do sự kiện bất khả kháng xảy ra, bên có lỗi sẽ được miễn trách nhiệm hình sự.

  1. Sự kiện của bạn có được coi là sự kiện bất khả kháng không?
  • Hiện tượng mưa lũ xảy ra là hoàn toàn khách quan. Nằm ngoài phạm vi kiểm soát của các bên trong hợp đồng;
  • Sự kiện này có thể lường trước được, do khí hậu tại Huế có biến trình mưa đạt cực đại chính (mưa lũ) vào tháng 10 hàng năm với lượng mưa lên tới 1.041mm. Đợt mưa lũ vừa rồi tổng lượng mưa tính đến ngày 10/10 là khoảng 600mm. Do đó sự kiện này vẫn có thể lường trước được.
  • Hậu quả đã xảy ra là do bên có trách nhiệm với hầm gửi xe đã tắc trách. Khi mưa lớn xảy ra thì không thể áp dụng các biện pháp nữa.

Do đó, có cơ sở để cho rằng trường hợp của bạn không được coi là sự kiện bất khả kháng.

Trên đây là nội dung quy định về thành phần của sự kiện bất khả kháng. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng cám ơn!

Vậy, có cơ sở để cho rằng trường hợp của bạn không được coi là sự kiện bất khả kháng.

Trên đây là nội dung quy định về thành phần của sự kiện bất khả kháng. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com