Giải mã Trái chủ KS Group thế chấp trái phiếu của Sunshine Group tại Kienlongbank

Sunshine Group phát hành trái phiếu với tài sản đảm bảo là cổ phiếu ưu đã cổ tức tại KS Group hình thành trong tương lai, KS Group mua trái phiếu của Sunshine Group sau đó thế chấp tại Ngân hàng TMCP Kiên Long (Kienglongbank).

Lấy một khoản cho vay này làm tài sản bảo đảm cho một khoản vay khác

Theo thông tin từ HNX, Sunshine Group hiện còn hai lô trái phiếu đang lưu hành là SSGCH2126003 và SSGCH2127004 với tổng giá trị là 3.000 tỷ đồng, đáo hạn vào năm 2026 và 2027. Cả 2 lô trái phiếu đều có lãi suất kỳ đầu tiên ở mức 11%/năm, các kỳ tiếp theo là lãi suất thả nổi.

Trong đó, lô trái phiếu  SSGCH2126003 được phát hành vào ngày 1/11/2021với kỳ hạn 5 năm. Lãi suất cho kỳ tính lãi đầu tiên là 11%/năm, các kỳ tiếp theo sẽ là lãi suất tiết kiệm cao nhất của 4 ngân hàng quốc doanh cộng thêm 4,5%/năm. Mỗi 12 tháng tập đoàn này sẽ thanh toán lãi một lần.  Tài sản đảm bảo của lô trái phiếu trên kể từ ngày phát hành là 100 triệu cổ phiếu ưu đãi cổ tức của Sunshine Group tại KSGroup hình thành trong tương lai.

Còn lô trái phiếu SSGCH2127004 được phát hành vào ngày 31/12/2021 với kỳ hạn 6 năm. Các thông tin còn lại liên quan đến lô trái phiếu không được công bố.

Nhưng theo dữ liệu cho thấy, Công ty Cổ phần KS Group đang là trái chủ 2 lô trái phiếu trên do CTCP Tập đoàn Sunshine phát hành. Mới đây, KS Group đã mang thế chấp lô trái phiếu này tại Kienlongbank, cụ thể:

Hợp đồng số 360/23/HĐCC-CK ký ngày14/09/2023 tại Kienlongbank, chi nhánh Tiền Giang. Tài sản bảo đảm cho khoản vay này là 4.422.000 Trái phiếu Công ty Cổ phần Tập Đoàn Sunshine (Mã SSGCH2126003, số lượng: 2,750,000 và mã SSGCH2127004, số lượng: 1,672,000)

Hợp đồng số 345/23/HĐCC-CK  ký ngày13/09/2023 tại Kienlongbank, chi nhánh Tiền Giang Tài sản bảo đảm cho khoản vay này là 5,000,000 Trái phiếu Công ty Cổ phần Tập Đoàn Sunshine (Mã SSGCH2126003)a

Như vậy, qua 2 hợp đồng tín dụng này, KS Group đã thế chấp 7,750,000 trái phiếu mã SSGCH2126003, tương đương 775 tỷ đồng và thế chấp 1,672,000 trái phiếu mã SSGCH2127004, tương đương hơn 167,2 tỷ đồng.

Từ dữ kiện trên cho thấy, đầu tiên là Sunshine Group phát hành trái phiếu để mua cổ phần ưu đãi biểu quyết tại KS Group được hình thành trong tương lại, bước tiếp theo là KS Group mua đúng lô trái phiếu do Sunshine Group phát hành để mua cổ phiếu ưu đãi của KS Group, sau khi được Công ty chứng khoán KS xác nhận sở hữu trái phiếu, KS Group mang lô trái phiếu này đi thế chấp tại ngân hàng Kienlongbank.

Liên quan đến việc thế chấp trái phiếu doanh nghiệp của KS Group, theo dữ liệu, trong vòng 2 tuần (từ ngày 12 đến 26 /9/2023), KS Group, với vai trò là trái chủ, đã ký 18 hợp đồng tín dụng với Kienlongbank, các hợp đồng này được tiến hành gần như đồng thời tại nhiều chi nhánh của Kienlongbank (Hà Nội, Sài Gòn, Kiên Giang, Tiền Giang, Hải Phòng) và được sự ủng hộ rất tốt của Công ty cổ phần chứng khoán KS (KSS) thể hiện ở việc ban hành giấy xác nhận sở hữu trái phiếu, có những hợp đồng được tiến hành cùng ngày với ngày ban hành giấy xác nhận sở hữu trái phiếu. Tổng tài sản KS Group đã thế chấp là 59,160,568 trái phiếu (của 6 doanh nghiệp) với tổng giá trị tài sản thế chấp lên tới hơn 5,900 tỷ đồng trái phiếu, gấp hơn 3,9 lần vốn chủ sở hữu của KS Group.

Như vậy đây như một hình thức lấy một khoản cho vay này làm tài sản bảo đảm cho một khoản vay khác.

Theo các chuyên gia phân tích, về lý thuyết, trái phiếu doanh nghiệp hay cổ phiếu đều là tài sản. Việc cho phép sử dụng trái phiếu làm tài sản cầm cố hay không tùy thuộc vào quyết định của Ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại. Trên thế giới, một số quốc gia cho phép ngân hàng thương mại sử dụng trái phiếu làm tài sản đảm bảo bổ sung cho các khoản vay.  Tuy vậy, ngay cả khi Ngân hàng trung ương cho phép, song nếu thấy đây là tài sản rủi ro, các ngân hàng thương mại có thể từ chối nhận làm tài sản cầm cố.

Công ty KS Group, tiền thân là Công ty cổ phần đầu từ SIPT, được thành lập vào năm 2020, với vốn điều lệ lúc đầu là 45 tỷ, trụ sở chính tại Tòa nhà Sunshine Center, Số 16 Phạm Hùng, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. KS Group là một công ty chuyên về lĩnh vực kinh doanh bất động sản, quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu, chủ sử dụng hoặc đi thuê.

Đến tháng 1/2022, KS Group tăng vốn từ 45 tỷ lên 1.450 tỷ (gấp 32 lần), cổ đông sáng lập của KS Group, gồm: Công ty cổ phần Tâp đoàn Sunshine sở hữu 51%, bà Trần Thị Thu Hằng sở hữu 33%, ông Trần Ngọc Minh sở hữu 8%, bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh sở hữu 8%.

Được biết, bà Trần Thị Thu Hằng hiện đang là Chủ tịch HĐQT Kienlongbank từ tháng 5/2021 đến nay, hiện bà Hằng nắm giữ hơn 17,2 triệu cổ phiếu KLB của Kienglongbank, chiếm 4,77% vốn điều lệ ngân hàng, ngoài ra bà Hằng còn từng là Chủ tịch HĐQT công ty chứng khoán KS. Trong khi đó, ông Đỗ Anh Tuấn là Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Sunshine sở hữu 4.972% Kienlongbank.

Ông Trần Ngọc Minh cổ đông sáng lập sở hữu 8% ở KS Group nhưng ông Minh hiện đang là Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Kienlongbank.

Sử dụng trái phiếu doanh nghiệp để thế chấp cho vay có phù hợp?

Tháng 12/2022, Hiệp hội bất động sản Tp.HCM (HoREA) đề nghị NHNN xem xét trình Thủ tướng cho phép tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay khoản tín dụng mới có tài sản bảo đảm là trái phiếu doanh nghiệp được trị giá tối đa bằng 70% giá trị trái phiếu doanh nghiệp, với điều kiện doanh nghiệp cam kết thực hiện giao dịch qua tổ chức tín dụng cho vay.

“Nếu có được khoản vay mới và được phép thế chấp bằng trái phiếu doanh nghiệp thì đây là nguồn vốn vay quý giá, có tính chất là “vốn mồi” để doanh nghiệp có thể triển khai hoạt động đầu tư kinh doanh, tạo được dòng tiền và thanh khoản thì hoàn toàn có thể hoàn trả khoản vay mới và các khoản vay cũ, có lợi cho cả doanh nghiệp và tổ chức tín dụng cùng “dìu” nhau vượt qua khó khăn”, hiệp hội cho hay.

Liên quan đến vấn đề dùng trái phiếu làm tài sản đảm bảo cho vay, trao đổi với phóng viên Một Thế Giới, PGS-TS Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính), cho rằng không thể lấy một khoản vay này làm tài sản bảo đảm cho một khoản vay khác.

“Doanh nghiệp phát hành trái phiếu để lấy tiền, tức là một khoản vay nợ, nhưng hiện nay họ lại muốn dùng khoản vay nợ này để làm tài sản bảo đảm để vay vốn ngân hàng thì rất khó được chấp nhận”, ông Thịnh nói.

 GS-TS Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính). Ảnh: Internet

Theo ông Thịnh, việc cho vay của ngân hàng phải tuân thủ nhiều quy định như doanh nghiệp vay không có nợ xấu, dự án khả thi và các quy định về tài sản bảo đảm, để trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ thì tài sản đó được ngân hàng phát mãi để thu hồi vốn cho vay. Do đó, tài sản bảo đảm phải có cơ sở, còn nếu không đáp ứng quy định thì ngân hàng sẽ gánh rủi ro lớn. Thậm chí, nếu ngân hàng chấp nhận những tài sản thế chấp không nằm trong danh mục còn vi phạm pháp luật.

Ông Thịnh chia sẻ rằng ngân hàng có thể lấy cổ phiếu doanh nghiệp làm tài sản thế chấp, nhưng lấy trái phiếu để làm tài sản bảo đảm cho một khoản vay khác là rất rủi ro.

TS Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn Thị trường tài chính, Trường đại học Kinh tế TP.HCM, cũng cho rằng đa số trái phiếu đã được doanh nghiệp mua lại từ các đợt phát hành trước là trái phiếu không có tài sản đảm bảo nên việc yêu cầu ngân hàng cho vay đến 70% thì có vẻ là sẽ khó khả thi. Do đó, không nên đề xuất một mức cụ thể như vậy. Tùy thuộc vào tính chất rủi ro của từng loại trái phiếu mà ngân hàng có thể xem xét và đưa ra tỷ lệ cho vay hợp lý trên mệnh giá.

Đối với các trái phiếu có đầy đủ các điều kiện như đầy đủ tài sản đảm bảo, thẩm định được dòng tiền và khả năng trả nợ thì ngân hàng hoàn toàn có thể cho vay trên 70%, nhưng nếu như thiếu một trong những điều kiện trên thì căn cứ dựa trên thực tế thẩm định mà ngân hàng sẽ đưa ra mức cho vay phù hợp.

“Theo tôi đề xuất này sẽ không thể đưa vào thực thi được vì nó làm trái các quy định an toàn của ngân hàng”, ông Huân nêu và cho rằng Ngân hàng Nhà nước cũng như ngân hàng thương mại chắc chắn sẽ không đồng ý.

“Nếu như đề xuất này đưa vào thực tế thì rủi ro đối với các khoản vay này rất lớn, nhất là đối với các trái phiếu không có tài sản đảm bảo và trong bối cảnh thị trường bất động sản đang đóng băng hiện nay”, ông Huân nêu.

Chia sẻ quan điểm tại họp báo triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2023 tổ chức ngày 27/12/2022, ông Đào Minh Tú, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cho rằng việc tổ chức tín dụng cấp tín dụng sử dụng trái phiếu làm tài sản đảm bảo để cấp tín dụng cho doanh nghiệp là không phù hợp với các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước.

“Hiệp hội Bất động sản TP.HCM thời gian qua đề xuất rất nhiều. Nhưng có những đề xuất có thể xem xét được, cũng có những đề xuất thuộc về lĩnh vực quy định của pháp luật, nằm trong khuôn khổ pháp lý rồi nên không thể tự ý thực hiện được”, ông Tú giải thích.

Theo: https://hoanhap.vn

Đẩy mạnh gỡ vướng cho condotel

Theo đó, việc cấp sổ hồng được chia thành 2 quy trình. Quy trình số 1 dành cho chủ đầu tư dự án, gồm 5 bước, thời gian giải quyết trong 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Quy trình số 2 dành cho khách hàng, gồm 9 bước, giải quyết trong 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Sau khi tiếp nhận hồ sơ, Sở TN-MT phối hợp với các sở Tài chính, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra, thực hiện các bước cấp sổ hồng.

Dù đã có quy trình nhưng theo tìm hiểu của phóng viên, nhiều dự án vẫn chưa có khách hàng được cấp sổ hồng. Lãnh đạo Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Khánh Hòa cho biết hiện nay chỉ có duy nhất dự án Vega City Nha Trang (nay là Libera Nha Trang) đã được cấp sổ hồng. “Để được cấp sổ hồng, dự án phải qua nhiều bước thẩm định. Nhiều dự án có thể đang gặp vướng mắc nên chưa đủ đủ điều kiện cấp sổ” – lãnh đạo văn phòng này giải thích.

Tại Diễn đàn “Khơi thông dòng chảy BĐS du lịch nghỉ dưỡng” mới diễn ra, Hiệp hội Môi giới BĐS Việt Nam thông tin toàn thị trường có 726 sản phẩm BĐS du lịch, nghỉ dưỡng được giao dịch thành công trong năm 2023. Lượng giao dịch chưa phục hồi như kỳ vọng do một số dự án gặp vướng mắc về pháp lý.

Tỉnh Khánh Hòa đang phát triển mạnh loại hình bất động sản nghỉ dưỡng

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh cho rằng BĐS nói chung và officetel, condotel nói riêng gặp khó khăn bởi vướng mắc về pháp lý, việc định giá đất, giải phóng mặt bằng, cấp sổ hồng… Bên cạnh đó, việc điều chỉnh quy hoạch để bảo đảm đồng bộ giữa các cấp quy hoạch còn mất nhiều thời gian.

Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Sinh, Thủ tướng đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm trong việc tháo gỡ vướng mắc về thực hiện các dự án BĐS tại nhiều địa phương, góp phần tăng nguồn cung cho thị trường. Việc Chính phủ trình Quốc hội thông qua sửa đổi các dự án luật rất quan trọng liên quan BĐS cũng giúp thị trường được gỡ vướng.

Mới đây, Chính phủ cũng giao Bộ Tư pháp thừa ủy quyền, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa dự án Luật Nhà ở năm 2023, Luật Kinh doanh BĐS năm 2023 và Luật Đất đai năm 2024 vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2024, để thực thi từ tháng 7-2024, sớm hơn dự kiến 6 tháng.

Vụ ‘thổi giá’ đất lên 30 tỉ đồng/m² ở Hà Nội: Phá đấu giá để giữ đất, ‘làm một vụ chấn động địa cầu’

Nhóm bị cáo biết khu đất đấu giá sẽ có tiềm năng tăng giá nên mong muốn mua 1 – 2 thửa để ở hoặc đầu tư kiếm lời. Tuy vậy, do không đủ khả năng tài chính nên bàn nhau ‘phá’ cuộc đấu giá để giữ đất và muốn làm một vụ ‘chấn động địa cầu’.

Ngày 6-3, TAND Hà Nội đã mở phiên tòa lưu động, xét xử sáu bị cáo trong vụ ‘thổi giá’ đất lên 30 tỉ đồng/m² khi tham gia đấu giá tại huyện Sóc Sơn (Hà Nội) từ ngày 26 đến 29-11-2024.

Sáu bị cáo hầu tòa cùng về tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản gồm: Nguyễn Đức Thành (33 tuổi, trú tại Bắc Ninh), Phạm Ngọc Tuấn (34 tuổi), Ngô Văn Dương (31 tuổi), Nguyễn Thị Quỳnh Liên (44 tuổi), Nguyễn Thế Trung (31 tuổi), Nguyễn Thế Quân (31 tuổi, cùng trú tại Đông Anh, Hà Nội).

‘Thổi giá’ đất ngoại thành lên 30 tỉ đồng/m²

Theo cáo trạng, tháng 11-2024 khi biết Công ty đấu giá hợp danh Thanh Xuân chuẩn bị đấu giá đất tại thôn Đông Lai (xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn) các bị cáo đã bàn bạc, trao đổi góp tiền mua hồ sơ, nộp tiền đặt cọc đăng ký tham gia đấu giá 58 thửa đất.

  • Vụ 'thổi giá' đất lên 30 tỉ đồng/m² ở Hà Nội: Phá đấu giá để giữ đất, 'làm một vụ chấn động địa cầu' - Ảnh 2.

Cả nhóm thống nhất từ vòng thứ nhất đến vòng thứ tư sẽ đấu giá theo trình tự, trả giá dưới mức giá mà Tuấn ấn định từ trước. Kết quả đấu giá ở vòng thứ tư nếu thấy những người tham gia đấu giá khác trả giá vượt mức tối đa mà Tuấn đã ấn định, đến vòng thứ năm các bị cáo sẽ trả giá cao bất thường. Sau đó tới vòng thứ sáu nhóm không trả giá nhằm mục đích để phiên đấu giá không thành công, buộc phải tổ chức đấu giá lại.

Kết quả điều tra xác định có 36/58 thửa đất bị nhóm Tuấn, Dương, Thành, Trung, Liên và Quân thông đồng cố ý nâng giá ở vòng thứ năm với giá cao bất thường từ hơn 59 triệu đồng/m2 đến hơn 30 tỉ đồng/m2. Đến vòng thứ sáu thì tất cả sáu người trên đều không bỏ giá.

Sau khi đấu giá viên công bố kết quả đấu giá ở vòng thứ năm, do nhóm của Tuấn bỏ giá cao bất thường nên nhiều khách hàng chửi bới, gây mất an ninh trật tự tại khu vực đấu giá. Và đúng như “kịch bản” sáu người này không trả giá tại vòng thứ sáu, phiên đấu giá không thành công.

Cáo trạng xác định hành vi nâng giá của nhóm này đã vi phạm Luật Đấu giá tài sản, hậu quả gây thiệt hại tổng gần 420 triệu đồng. Trong đó, gây thiệt hại cho Công ty đấu giá hợp danh Thanh Xuân hơn

252 triệu đồng và 230 người mua hồ sơ tham gia đấu giá hơn 165 triệu đồng.

“Phải làm một vụ chấn động địa cầu”

  • Vụ 'thổi giá' đất lên 30 tỉ đồng/m² ở Hà Nội: Phá đấu giá để giữ đất, 'làm một vụ chấn động địa cầu' - Ảnh 3.

Tại tòa, bị cáo Phạm Ngọc Tuấn thừa nhận hành vi phạm tội và khai khi nắm được tin về việc tổ chức đấu giá đất, biết khu đất này gần Khu công nghiệp Nội Bài, có tiềm năng tăng giá nên mong muốn mua được 1 – 2 thửa để ở hoặc đầu tư kiếm lời.

Để tham gia đấu giá, Tuấn cùng năm người thống nhất mua 58 bộ hồ sơ của 58 thửa đất. Cả nhóm hẹn nhau ở quán cà phê để xem xét hồ sơ, vị trí các thửa đất cũng như mức giá sẽ đưa ra cho từng thửa.

Tuấn sau đó gọi điện tới Công ty đấu giá hợp danh Thanh Xuân (đơn vị tổ chức đấu giá các thửa đất) và được tư vấn có thể bỏ giá tùy theo ý chí cá nhân, không hạn chế mức tiền. Nhóm sau đó lên kế hoạch nếu không đủ khả năng tài chính thì sẽ “phá” cuộc đấu giá.

Hội đồng xét xử hỏi theo hiểu biết cá nhân thì giá 1m2 đất tại khu đấu giá là khoảng bao nhiêu, Tuấn nói tối đa là 40 triệu đồng/m2.

Chủ tọa truy vấn: “Vậy tại sao bị cáo lại trả tới 30 tỉ đồng/m2, một mức giá không tưởng?”. Tuấn nói rằng mục đích của hành vi này là để giữ lại những thửa đất mà mình thích cho phiên đấu giá sau.

Đáng chú ý, khai báo ngay sau đó, bị cáo Ngô Văn Dương thừa nhận sau khi thực hiện phi vụ này, dư luận, báo chí đưa thông tin nên bắt đầu lo lắng, hỏi Tuấn: “Liệu có làm sao không?” và được Tuấn đáp: “Không làm sao hết”.

“Tuấn dặn nếu nhà báo hay ai hỏi, phải nói mình là người có tiền, là giới siêu giàu, phải làm một vụ chấn động địa cầu…”, Dương khai.

Tuy nhiên nhận thấy hành vi của bản thân “chắc chắn là phạm tội”, sợ bị xử lý, Dương cùng một số bị cáo đã ra đầu thú.

Gây rối loạn thị trường bất động sản

Sau nửa ngày xét xử, tòa tuyên phạt bị cáo Phạm Ngọc Tuấn 3 năm tù; Ngô Văn Dương 30 tháng tù; Nguyễn Đức Thành 24 tháng tù; Nguyễn Thị Quỳnh Liên, Nguyễn Thế Trung, Nguyễn Thế Quân từ 12 – 18 tháng tù cho hưởng án treo.

Tòa đánh giá các bị cáo đều có nhận thức, hiểu biết pháp luật song sai phạm vì động cơ vụ lợi, gây hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh hưởng uy tín cơ quan tổ chức liên quan, gây rối loạn thị trường bất động sản, gây bức xúc bất bình trong xã hội.

Theo: https://tuoitre.vn

Tranh chấp nào thường phát sinh trong giao dịch bất động sản nghỉ dưỡng?

Luật Kinh doanh bất động sản 2023 ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho các giao dịch của loại hình bất động sản nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, người mua vẫn phải lưu ý đến điều kiện giao dịch, tiến độ thanh toán, điều kiện bàn giao, chất lượng bất động sản… để hạn chế rủi ro trong quá trình giao dịch.

Một dự án bất động sản nghỉ dưỡng tại Đà Nẵng. Ảnh minh họa: Nhân Tâm

Để hạn chế những tranh chấp phát sinh từ các giao dịch mua bán đối với loại hình bất động sản nghỉ dưỡng như condotel, resort villa…, người mua phải kiểm soát nội dung thoả thuận ban đầu giữa các bên trong hợp đồng mua bán và có những sự chuẩn bị chu đáo về mặt pháp lý để sẵn sàng cho mọi sự cố có thể xảy ra trong giao dịch.

Những tranh chấp phổ biến trong các giao dịch này thường là tranh chấp về điều kiện giao dịch của bất động sản, tranh chấp về tiến độ thanh toán, thời hạn và điều kiện bàn giao, chất lượng bất động sản được bàn giao…

Tranh chấp về điều kiện giao dịch

Điều người mua cần phải kiểm tra đầu tiên là đối tượng của hợp đồng như condotel, resort villa… (bất động sản) được chào bán có đảm bảo pháp lý để được đưa vào kinh doanh hay không. Luật Kinh doanh bất động sản 2014 (sửa đổi) không quy định về điều kiện giao dịch đối với loại hình bất động sản căn hộ du lịch, dẫn đến đã có nhiều tranh chấp phát sinh liên quan đến điều kiện đưa vào giao dịch đối với loại hình bất động sản này.

Vụ việc thực tế thể hiện tại Bản án số 11/2022/DS-ST ngày 2-6-2022 của Toà án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà về việc tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ giữa nguyên đơn và chủ đầu tư là Công ty cổ phần T. cho thấy toà án theo quan điểm không tuyên hợp đồng mua bán căn hộ du lịch vô hiệu.

Theo tòa án, thời điểm hiện tại dự án đã có giấy phép xây dựng, điều kiện về giấy phép xây dựng đã được khắc phục và toà nhà có căn hộ đã được phép đưa vào sử dụng dù cho tại thời điểm ký kết hợp đồng dự án chưa được cấp giấy phép xây dựng. Toà án nhận định rằng mục đích và nội dung của hợp đồng mà các bên hướng tới đã đạt được, không thay đổi về bản chất nên yêu cầu tuyên hợp đồng mua bán căn hộ vô hiệu của người mua là không có căn cứ.

Để khắc phục tình trạng này, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 (Luật KDBĐS 2023) tại khoản 1 Điều 8 đã quy định nghiêm cấm hành vi kinh doanh bất động sản không đủ điều kiện theo quy định.

Quy định về điều kiện đối với công trình xây dựng hình thành trong tương lai (trong đó có loại hình bất động sản nghỉ dưỡng) được đưa vào kinh doanh theo Điều 24 của Luật KDBĐS 2023 như sau: Công trình xây dựng đã được khởi công xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng; có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất; có giấy phép xây dựng công trình xây dựng và hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng… đã được công khai thông tin về bất động sản, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh theo quy định tại Điều 6 của Luật KDBĐS 2023.

Một khi người mua thẩm định được tính pháp lý của căn hộ đã đủ điều kiện kinh doanh thì sẽ tránh được rủi ro bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nguy cơ hợp đồng vô hiệu. Cần lưu ý thêm để người mua yêu cầu giải quyết hệ quả của hợp đồng vô hiệu, nhận lại số tiền đã thanh toán cũng chưa hẳn là điều dễ thực hiện.

Tranh chấp về tiến độ thanh toán giá bán bất động sản

Hiện nay, Điều 25 Luật KDBĐS 2023 quy định việc thanh toán trong mua bán công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng hình thành trong tương lai được thực hiện nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng bao gồm cả tiền đặt cọc.

Những lần thanh toán tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng cho bên mua; trường hợp bên bán là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng.

Trong thực tế, vấn đề người mua nhận bàn giao căn hộ đạt đúng quy chuẩn đã thoả thuận sau đó thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ hay thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ thoả thuận trước, sau đó mới nhận bàn giao vẫn là nội dung các bên thường tranh chấp.

Điều này dẫn đến hệ quả khi xảy ra sự việc căn hộ bàn giao không đúng chất lượng, quy chuẩn đã thoả thuận và người mua không đồng ý thanh toán theo tiến độ khi chất lượng căn hộ chưa đạt yêu cầu.

Vì vậy, hợp đồng nên quy định rõ bên nào phải là bên thực hiện nghĩa vụ trước hoặc việc một bên vi phạm chất lượng bàn giao là điều kiện để bên kia được hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ. Tránh trường hợp hợp đồng chỉ quy định chung chung, không xác định rõ bên nào phải thực hiện nghĩa vụ trước dẫn đến những tranh chấp sau này.

Một số hợp đồng mua bán trong thực tế cho thấy các bên thường thoả thuận tại phụ lục hợp đồng về tiến độ thanh toán giá trị căn hộ có nội dung bên mua sẽ thanh toán đạt 70% (hoặc 50%) giá trị hợp đồng tại thời điểm có thông báo bàn giao căn hộ.

Nội dung thỏa thuận này có thể được hiểu rằng, ngay khi có thông báo nhận bàn giao, bên mua phải tiến hành thanh toán dù rằng bên mua chưa được kiểm tra chất lượng căn hộ, chưa được nhận bàn giao nhưng đã phải thanh toán giá trị căn hộ đến tiến độ khi đã nhận bàn giao theo luật. Điều này là không phù hợp với tinh thần của Luật Kinh doanh bất động sản và gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của bên mua.

Do đó, cần ràng buộc điều kiện được xem như là các bên đã bàn giao hoàn tất khi người mua đồng ý ký vào biên bản nhận bàn giao căn hộ. Thời điểm này mới được xem là người mua đã hoàn tất việc nhận bàn giao và sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán đạt đến 70% (hoặc 50%) giá trị căn hộ.

Thiết nghĩ, hợp đồng mẫu (hợp đồng mua bán công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích du lịch, lưu trú) do Chính phủ quy định (1)nên theo hướng việc mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo phương thức thanh toán nhiều lần thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 25 của Luật KDBĐS 2023.

Việc thanh toán sẽ không được quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao căn hộ cho khách hàng (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng).

Người mua cũng phải lưu ý những thoả thuận mang tính chất không bảo đảm công bằng trong giao dịch cho người mua. Đơn cử như trong trường hợp người mua vi phạm thời hạn thanh toán của bất kỳ đợt thanh toán theo tiến độ nào cũng sẽ bị mất quyền được yêu cầu chủ đầu tư thực hiện nghĩa vụ chịu phạt khi vi phạm thời hạn bàn giao căn hộ, vi phạm thời hạn nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận.

Trong khi đó, ở chiều hướng ngược lại, dù chủ đầu tư vi phạm nghĩa vụ bàn giao căn hộ, nghĩa vụ nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận nhưng vẫn có quyền phạt vi phạm khi người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ ngoài khoản tiền chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo luật.

Tranh chấp về thời hạn, điều kiện bàn giao và vận hành khai thác

Tranh chấp về thời hạn bàn giao căn hộ là tranh chấp phổ biến giữa các bên. Trong thực tiễn, để đảm bảo quyền lợi của khách hàng, tới thời điểm bàn giao, tuy chưa thể thực tế hoàn thiện dự án để đưa vào vận hành, khai thác (vì nguyên nhân chủ quan từ phía chủ đầu tư) nhưng một số chủ đầu tư có thiện chí sẽ vẫn ký thoả thuận nhận bàn giao và chi trả phí như khi đưa vào vận hành, khai thác thực tế cho khách hàng.

Người mua cần lưu ý thoả thuận liên quan đến cam kết về tiến độ (khoảng thời hạn gia hạn bàn giao), những sự kiện pháp lý được xem là sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan để chủ đầu tư được miễn trừ các trách nhiệm dân sự khi vi phạm thời hạn bàn giao. Bên cạnh đó là tìm phương án giải quyết khi đến thời điểm bàn giao, đưa vào vận hành khai thác (sau khi hết thời hạn gia hạn, khoảng thời hạn diễn ra sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan) nhưng chủ đầu tư không thể đáp ứng được tiến độ.

Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử, có toà án đã nhận định rằng đối với việc bàn giao căn hộ khi chưa hoàn thành phần sử dụng chung, phần sở hữu chung, phần sở hữu riêng của bên bán… chưa hoàn thiện hệ thống xử lý chất thải không ảnh hưởng đến các điều kiện bàn giao căn hộ theo quy định tại Điều 27 Nghị định 06/2021/NĐ-CP.

Vì vậy, ngoài chất lượng của căn hộ bàn giao, để đảm bảo đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng, người mua cần lưu ý thoả thuận về việc căn hộ được bàn giao phải đáp ứng được điều kiện để đưa vào vận hành, khai thác kinh doanh dịch vụ phục vụ du lịch.

Hiện tại, Điều 27 của Luật KDBĐS 2023 quy định chủ đầu tư dự án bất động sản bàn giao công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng cho bên mua theo đúng hợp đồng đã ký kết và bảo đảm các nguyên tắc công trình xây dựng đã được nghiệm thu, kiểm tra công tác nghiệm thu đưa vào khai thác, sử dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng.

Tuy nhiên, Nghị định 35/2023/NĐ-CP về quản lý chất lượng, thi công xây dựng và bảo trì công trình xây dựng quy định căn cứ vào điều kiện cụ thể, công trình, từng phần công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành và được nghiệm thu theo quy định được bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng theo yêu cầu của chủ đầu tư hoặc đơn vị khai thác, sử dụng.

Dù vậy, để người mua đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng khi nhận bàn giao căn hộ thì cần lưu ý đến những cam kết của chủ đầu tư đối với tiến độ những hạng mục khác của dự án để đảm bảo căn hộ có thể được đưa vào khai thác, sử dụng.

Bình Định là địa phương đang được nhiều nhà đầu tư bất động sản nghỉ dưỡng quan tâm. Ảnh minh họa: Hiếu Trương

Tranh chấp về chất lượng bất động sản được bàn giao

Thông thường, các hợp đồng mua bán căn hộ du lịch tại phụ lục thoả thuận về danh mục trang thiết bị, vật liệu gắn liền với căn hộ thường có thoả thuận cho phép chủ đầu tư được tuỳ nghi lựa chọn vật liệu, trang thiết bị thay thế từ các nhà cung cấp như “chất lượng tương đương”, “tuỳ theo thiết kế của chủ đầu tư”…

Không ít trường hợp khách hàng mua căn hộ khi nhận bàn giao thì phát hiện căn hộ được bàn giao không đúng với thiết kế ban đầu và/hoặc nội thất, chất lượng căn hộ không đúng với bản mô tả ban đầu tại hợp đồng đã ký kết hoặc không phù hợp với khái niệm “tương đương” đã thoả thuận.

Để hạn chế các tranh chấp liên quan đến trường hợp này, người mua cần yêu cầu chủ đầu tư cung cấp các văn bản về nghiệm thu chất lượng công trình, các văn bản thể hiện nguồn gốc, xuất xứ nguyên vật liệu… Ngoài ra, khi giao kết hợp đồng mua bán căn hộ du lịch thì người mua cần yêu cầu chủ đầu tư làm rõ các khái niệm như “vật liệu tương đương”, “chất lượng tương đương”…, đây là các khái niệm có nội hàm rộng, dễ đánh tráo nhưng lại khó chứng minh.

Trường hợp xác định rõ chủ đầu tư có vi phạm thì người mua có quyền yêu cầu chủ đầu tư khắc phục trong thời hạn nhất định theo thoả thuận tại hợp đồng trước khi ký biên bản nhận bàn giao căn hộ. Trường hợp trong hợp đồng mua bán quy định chế tài do vi phạm thì người mua cũng nên xem xét áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Vì vậy, hợp đồng cần ghi nhận rõ những quyền này của người mua căn hộ.

Ngoài ra, nếu người mua có ý định theo đuổi một tiến trình tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình khi chủ đầu tư bàn giao căn hộ không đúng chất lượng đã thoả thuận (khi các bên không thể thống nhất được qua quá trình tự thương lượng, hoà giải) thì phải cân nhắc đến việc thu thập chứng cứ chứng minh cho lập luận này.

Như vậy, Luật KDBĐS 2023 ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho các giao dịch của loại hình bất động sản nghỉ dưỡng, bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người mua. Tuy nhiên, người mua cũng cần phải lưu ý đến những nội dung như bài viết đã đề cập để hạn chế rủi ro liên quan đến những vấn đề này trong quá trình giao dịch.

Theo: https://thesaigontimes.vn

Lận đận danh phận condotel

Không như kỳ vọng, các chuyên gia cho biết số lượng condotel hiện nay đang rất lớn, song tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và Luật Đất đai năm 2024, danh phận của condotel vẫn rất mờ nhạt.

Từng là “gà đẻ trứng vàng”, phát triển ồ ạt trong giai đoạn 2015 – 2018, thế nhưng sau ồn ào từ việc thiếu hành lang pháp lý rõ ràng, khó khăn trong cấp sổ hồng, đến vụ vỡ trận cam kết lợi nhuận Cocobay, phân khúc condotel rơi vào trầm lắng và chưa tìm thấy lối ra.

 Nguồn cung và lượng tiêu thụ condotel trong tháng 5/2024. Nguồn: DKRA

Nguồn cung và lượng tiêu thụ condotel trong tháng 5/2024. Nguồn: DKRA

Condotel “dò đáy”

Thực tế, theo báo cáo của Hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), condotel xuất hiện ở nước ta từ năm 2014 và phát triển bùng nổ ở giai đoạn 2015 – 2018, hàng chục nghìn sản phẩm condotel với tổng giá trị khoảng 297.128 tỷ đồng được tung ra thị trường tại nhiều địa bàn có lợi thế du lịch như Nha Trang (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang), Đà Nẵng…

Thế nhưng bắt đầu từ năm 2019, sau những “cú đấm bồi” từ pháp lý đến cam kết lợi nhuận, dịch bệnh… loại hình sản phẩm này mất điểm trong mắt các nhà đầu tư, rơi vào trầm lắng.

Đã có nhiều kỳ vọng rằng khi các “luật đinh” của thị trường bất động sản được sửa đổi, bổ sung, condotel sẽ có “danh phận”, sớm phục hồi và ổn định.

Song, báo cáo phân tích mới đây của DKRA cho thấy sức cầu condotel hồi quý I/2024 đã xuống mức thấp nhất trong 5 năm qua, lượng tiêu thụ chỉ bằng 35% so với cùng kỳ, 90% dự án không ghi nhận phát sinh giao dịch trong quý. Trong khi đó, 2 tháng đầu của quý II, thị trường cũng chỉ ghi nhận 1 dự án ở giai đoạn tiếp theo và tiêu thụ được 1 căn.

Theo ông Nguyễn Văn Đính – Chủ tịch VARS, lượng giao dịch kém do nguồn cung yếu, hàng tồn kho chủ yếu là sản phẩm giá trị cao, phải cạnh tranh trực tiếp với các sản phẩm đã cắt lỗ từ trước của các chủ đầu tư. Trong khi, niềm tin nhà đầu tư chưa được phục hồi do hành lang pháp lý chưa rõ ràng, chủ đầu tư không thực hiện đúng cam kết, thanh khoản kém.

“Một số dự án condotel vẫn “đóng” giỏ hàng, không phát sinh giao dịch do vướng mắc pháp lý. Để “hồi sinh” loại hình condotel, Nhà nước cần sớm “lấp đầy” khoảng trống pháp lý cho người mua, quy định ràng buộc quyền lợi, trách nhiệm rõ ràng của chủ đầu tư, khách mua, đơn vị quản lý…”, ông Đính chia sẻ.

Mờ nhạt danh phận condotel

Cũng theo đánh giá của nhiều chuyên gia “mùa đông condotel” sẽ tiếp tục kéo dài. Sức cầu chung tiếp tục giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi trong ngắn hạn.

Bởi lẽ, dù đã được nhắc đến tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và Luật Đất đai 2024 nhưng nội dung của 2 bộ luật quan trọng trên cho thấy, bóng dáng của loại hình condotel vẫn còn khá mờ nhạt.

Cụ thể, tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có 6 lần cụm từ “du lịch” được nhắc đến, tuy nhiên cụ thể loại hình căn hộ du lịch (condotel) là gì, định nghĩa, chức năng, quyền sở hữu,…. dường như vẫn chưa được thể hiện một cách rõ ràng.

Hay tại Luật Đất đai 2024 nội dung liên quan đến đất đai gắn với loại hình căn hộ du lịch, nghỉ dưỡng cũng chưa thật sự xuất hiện một cách rõ ràng, tường minh.

Tại điều 9 quy định về phân loại đất hiện không xuất hiện cụm từ “du lịch, nghỉ dưỡng” nào và loại hình condotel được cho là nằm trong phạm trù điều chỉnh của khoản đ, điểm 2 điều 9 “ Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, gồm đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp; đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản”.

Tại điều 143 quy định về Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với đất xây dựng khu đô thị, khu dân cư nông thôn, dự án sản xuất kinh doanh có nhiều mục đích sử dụng đất khác nhau, loại hình condotel có thể nằm trong phạm trù của khoản C, điểm 1.

Song, khái niệm về căn hộ du lịch, nghỉ dưỡng (condotel) liên quan đến xác định mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,… vẫn chưa được tách bạch một cách rõ ràng, tường minh.

Trao đổi riêng với DĐDN, ông Đỗ Viết Chiến – Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (VNREA) cho rằng condotel là loại sản phẩm mới so, thiếu hành lang pháp lý rõ ràng, thế nhưng nhiều địa phương lại cấp phép cho phát triển ồ ạt, số lượng condotel trên cả nước hiện nay là rất lớn và khó để “xử lý”.

Việc định danh cho phân khúc này đã được tính toán nhiều lần, thế nhưng rất khó. Bởi xét trên khía cạnh quy hoạch, xác định đơn vị ở sẽ làm gia tăng dân số, và đặt ra những yêu cầu nhiều hơn về hạ tầng xã hội như y tế, trường học…Cũng từ đó, để xác định loại đất thực hiện dự án là gì cũng khó khăn.

Theo ông Chiến, khung pháp lý vẫn tiếp tục là trở ngại lớn cho condotel, ngay cả Luật Đất đai 2024 hay trước đó là Nghị định 10/2023/NĐ-CP cũng khó cởi trói vấn đề cấp sổ hồng. Muốn giải phóng hàng tồn kho lớn không phải là câu chuyện một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có thời gian triển khai dài và có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bên, từ Chính phủ, các ban ngành cho đến các chủ đầu tư và nhà đầu tư.

Theo: https://cafef.vn

Doanh nghiệp bất động sản nỗ lực gia hạn nợ trái phiếu

Trước áp lực đáo hạn ngày càng lớn, nhiều doanh nghiệp bất động sản buộc phải tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính nhằm duy trì hoạt động và đảm bảo dòng tiền.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục chứng kiến làn sóng gia hạn nợ, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản. Trước áp lực đáo hạn lớn, nhiều doanh nghiệp buộc phải tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính để duy trì hoạt động.

Một trong những trường hợp điển hình là CTCP Đầu tư và Phát triển Bất động sản Thế Kỷ (Cen Invest). Trái phiếu mã CIVCB2124001, phát hành tháng 10/2021 với lãi suất cố định 10,5%/năm, ban đầu có kỳ hạn 3 năm và dự kiến đáo hạn vào ngày 13/10/2024. Tuy nhiên, sau lần thỏa thuận thứ hai với trái chủ vào cuối tháng 10/2024, Cen Invest đã kéo dài thời gian tất toán đến ngày 13/10/2025.

Trước đó, trái phiếu này được đảm bảo bằng 50 triệu cổ phiếu CTCP Bất động sản Thế Kỷ (Cen Land, HoSE: CRE) của Cen Group cùng quyền tài sản từ hợp đồng hợp tác giữa Galaxy Land và CRE tại dự án khu đô thị Hoàng Văn Thụ (Hoàng Mai, Hà Nội). Tuy nhiên, với việc giá cổ phiếu CRE lao dốc từ mức hơn 25.000 đồng/cổ phiếu đầu năm 2022 xuống dưới 7.000 đồng/cổ phiếu, Cen Invest đã phải bổ sung tài sản đảm bảo.

sss
Cơ cấu trái phiếu đáo hạn theo ngành năm 2025 theo số liệu của VNDIRECT Research.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Theo văn bản gửi Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) ngày 11/2/2025, doanh nghiệp này đã thế chấp thêm 20,7 triệu cổ phần CTCP Đầu tư Thành Đạt VN (tương đương 67,87% vốn điều lệ), chủ đầu tư dự án khu dân cư Khe Cát tại Quảng Yên, Quảng Ninh, cùng quyền tài sản phát sinh từ dự án.

Không chỉ đóng vai trò tài sản thế chấp, Thành Đạt VN còn cam kết bảo lãnh thanh toán cho trái phiếu của Cen Invest, đồng thời không phát sinh thêm khoản vay mới hay dùng tài sản để đảm bảo cho nghĩa vụ khác. Nếu phải bán toàn bộ cổ phần tại Thành Đạt VN để thanh toán nợ, Cen Invest cam kết mức giá tối thiểu 373 tỷ đồng, với điều kiện được trái chủ chấp thuận. Giao dịch này sẽ hoàn tất muộn nhất vào ngày 31/05/2025, và số tiền thu về sau khi trừ chi phí sẽ được chuyển vào tài khoản trả nợ trái phiếu.

Tình trạng tương tự cũng xảy ra tại CRE, doanh nghiệp vừa được trái chủ chấp thuận gia hạn trái phiếu CRE202001 thêm gần 9 tháng. Trái phiếu này có giá trị 450 tỷ đồng, phát hành cuối năm 2020 với kỳ hạn ban đầu 36 tháng, nhưng đã được gia hạn tổng cộng 22 tháng. Đến cuối năm 2024, công ty đã mua lại một phần nợ gốc, giảm dư nợ xuống còn khoảng 354 tỷ đồng.

Trái phiếu của CRE cũng được đảm bảo bằng gần 59 triệu cổ phiếu CRE, cùng với 50 triệu cổ phiếu Cen Invest, quyền tài sản từ Galaxy Land và một số tài sản khác. Tuy nhiên, do giá trị cổ phiếu sụt giảm, công ty phải điều chỉnh phương án thanh toán.

Theo văn bản gửi HNX ngày 24/1/2025, CRE cam kết chuyển toàn bộ dòng tiền từ hợp đồng hợp tác tại dự án Khe Cát vào tài khoản trả nợ cho trái chủ. Đồng thời, lãi suất trái phiếu cũng được điều chỉnh giảm từ 12%/năm xuống 10,5%/năm từ tháng 2/2025.

Ngoài Cen Invest và CRE, nhiều doanh nghiệp bất động sản khác cũng đang phải gồng mình gia hạn nợ trái phiếu. Đơn cử, Công ty CP Đầu tư và Kinh doanh Nam An đối mặt với khoản trái phiếu đáo hạn 4.700 tỷ đồng, Nam An đang gặp áp lực lớn khi tình hình tài chính khó khăn, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu vượt ngưỡng an toàn.

Hay tại Công ty cổ phần Đầu tư Kinh Doanh và Phát triển Đô thị Ngôi Sao Phương Nam, với 4.695 tỷ đồng trái phiếu đến hạn, doanh nghiệp này đang trong tình trạng báo động về khả năng thanh toán.

Tương tự, Công ty cổ phần Đầu tư Nam Long (NLG) đã tất toán trước hạn 2 lô trái phiếu tổng giá trị 1.000 tỷ đồng để giảm áp lực nợ, mặc dù kỳ hạn gốc đến tháng 3/2029 mới đáo hạn. Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Bất động sản Hải Phát cũng đã hoàn tất mua lại 390 tỷ đồng trái phiếu trước hạn, đưa dư nợ trái phiếu về 0…

Theo báo cáo của bộ phận nghiên cứu Chứng khoán VNDIRECT (VNDIRECT Research), năm 2025 sẽ tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi tổng giá trị trái phiếu đáo hạn ước tính lên đến 203.000 tỷ đồng, tăng 8,5% so với năm 2024. Trong đó, nhóm bất động sản đối mặt với áp lực lớn nhất với hơn 130.000 tỷ đồng trái phiếu đến hạn, chiếm 64% tổng giá trị đáo hạn toàn thị trường và cao gấp đôi so với năm 2024.

Một yếu tố đáng lo ngại là 56.000 tỷ đồng trái phiếu bất động sản đã được gia hạn trước đó sẽ đến hạn thanh toán trong năm 2025, làm gia tăng áp lực thanh khoản cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường bất động sản vẫn trầm lắng. Việc tháo gỡ pháp lý cho các dự án vẫn còn chậm so với kỳ vọng, kéo theo khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp địa ốc.

Không chỉ ngành bất động sản, các doanh nghiệp tài chính – ngân hàng cũng có khối lượng trái phiếu đáo hạn đáng kể trong năm 2025, với giá trị hơn 33.000 tỷ đồng, chiếm hơn 16% tổng giá trị đáo hạn.

Nhìn chung, với áp lực nợ ngày càng lớn, doanh nghiệp bất động sản không chỉ phải tìm cách tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính mà còn phải đảm bảo dòng tiền ổn định để vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Theo https://baodautu.vn/

Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường căn hộ condotel

– Mới đây, Hiệp hội Bất động sản TP. HCM (HoREA) đã có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ và Bộ Xây dựng về đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội cũng như thị trường bất động sản theo hướng minh bạch, lành mạnh và bền vững. Trong đó, HoREA đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển thị trường căn hộ du lịch nghỉ dưỡng (condotel) một cách hiệu quả, góp phần thúc đẩy ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

Cụ thể, HoREA kiến nghị Bộ Xây dựng phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục hoàn thiện quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng đối với căn hộ condotel phục vụ mục đích du lịch.

Hiện nay, quy chuẩn và tiêu chuẩn của phòng khách sạn (không có bếp riêng), căn hộ khách sạn (phòng suite có bếp riêng), biệt thự trong khu du lịch nghỉ dưỡng đã tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế theo Luật Du lịch 2017. Tuy nhiên, quy chuẩn xây dựng condotel vẫn chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tiễn của thị trường.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Thứ hai, HoREA đề xuất Bộ Xây dựng phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường hỗ trợ các địa phương trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ condotel (sổ hồng) gắn liền với quyền sử dụng đất có thời hạn tối đa 50 năm, theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và Luật Đất đai 2024.

Đồng thời, đối với các dự án căn hộ condotel có nguồn gốc từ đất ở chuyển đổi sang đất thương mại, dịch vụ (du lịch) hoặc thuộc khu vực đã điều chỉnh quy hoạch thành đất ở, hiệp hội đề nghị cấp sổ hồng cho nhà đầu tư và khách hàng. Điều kiện để cấp Giấy chứng nhận là chủ đầu tư đã chuyển đổi dự án căn hộ condotel thành dự án nhà ở thương mại và nhà đầu tư, khách hàng hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ tài chính về đất đai với Nhà nước.

Thứ ba, HoREA kiến nghị Bộ Xây dựng xem xét trình Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền cho phép cá nhân nước ngoài được mua, thuê mua căn hộ condotel thuộc các dự án ngoài khu vực bảo vệ quốc phòng, an ninh. Đề xuất này nhằm tăng thanh khoản, thu hút thêm nguồn vốn đầu tư phát triển condotel, đồng thời tạo điều kiện để ngành du lịch phát triển bền vững theo Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị.

Theo HoREA, từ năm 2014 đến nay trên phạm vi cả nước đã xuất hiện cơn sốt đầu tư phát triển một loại hình sản phẩm bất động sản du lịch mới, gồm các dự án căn hộ khách sạn, biệt thự, nhà phố trong các khu du lịch nghỉ dưỡng. Loại hình này tập trung phát triển tại các khu vực ven biển, hải đảo như Vân Đồn, Hạ Long, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu, Phú Quốc, và tại Lâm Đồng, Đồng Nai… Trong đó, Nha Trang, Đà Nẵng, Phú Quốc là 3 địa bàn đang phát triển “nóng”.

Theo số liệu thống kê của 16 tỉnh thành cho thấy, chỉ riêng các khu du lịch nghỉ dưỡng quy mô lớn (từ 50 ha trở lên) đã có 77 dự án, với tổng diện tích 18.019 ha; có 16.537 phòng khách sạn, 12.056 căn hộ condotel, 11.174 biệt thự nghỉ dưỡng. Ngoài ra, còn có hơn 120 dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quy mô vừa và nhỏ, có diện tích dưới 50 ha/khu.

Từ năm 2015 đến tháng 9/2017, cả nước đã có 71 dự án condotel, officetel được cấp phép với tổng số 25.639 căn. Trong đó, có 15.010 căn hộ condotel (Hà Nội 4.114 căn, TP. HCM 208 căn, Đà Nẵng 4.565 căn và các tỉnh khác 5.823 căn); 10.629 căn officetel (Hà Nội 3.726 căn, TP. HCM 6.424 căn và các tỉnh khác 479 căn).

HoREA cho rằng, những số liệu này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của thị trường condotel và bất động sản du lịch nghỉ dưỡng, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của các chính sách hỗ trợ để đảm bảo sự phát triển minh bạch, bền vững và phù hợp với thực tiễn thị trường.

PV (t/h

Condotel, Flexhome sẽ còn “nghỉ dưỡng” trong năm 2025?

Chuyên gia dự báo thị trường giao dịch các loại hình bất động sản du lịch nghỉ dưỡng như căn hộ khách sạn (condotel), biệt thự biển, căn hộ biển (flexhome), sẽ tiếp tục ảm đạm trong năm 2025.

Theo DKRA, năm 2025 sẽ có khoảng 6.500 sản phẩm mở bán gồm 3.000 căn condotel, 1.500 căn biệt thự và gần 2.000 căn nhà phố thương mại. Con số này tăng gần 3 lần so với 2024, nhưng nếu so với giai đoạn cao điểm 2018-2019 chỉ bằng một phần nhỏ.

Hội môi giới bất động sản Việt Nam (Vars) cũng cho rằng năm nay, nguồn cung bất động sản nghỉ dưỡng sẽ tăng khoảng 80% so với năm ngoái (tương đương gần 8.000 sản phẩm), chủ yếu là căn hộ dịch vụ. Việc hoàn thiện khung pháp lý, công bố quy hoạch, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án hạ tầng, hấp lực từ ngành du lịch… là lực đỡ cho việc tăng nguồn cung ra thị trường.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, 2025 mới chỉ là năm bất động sản nghỉ dưỡng “bớt khó”, còn để tăng nhiệt và bứt phá, đây chưa phải thời điểm.

Ông Võ Hồng Thắng, Phó tổng giám đốc DKRA, cho rằng vướng mắc pháp lý đã có hướng ra nhưng chưa được giải quyết triệt để. Phần lớn nhà đầu tư loại hình này vẫn chờ tín hiệu từ thị trường khi hành lang pháp lý mới được áp dụng. Điều này dẫn đến thanh khoản khó có sự đột phá dù nguồn cung cải thiện.

Bên cạnh đó, phân khúc du lịch, nghỉ dưỡng cũng chịu thách thức không nhỏ khi áp dụng bảng giá đất mới theo giá thị trường.

Cụ thể là giá đất tăng cao sẽ kéo theo gia tăng chi phí thuê đất, bất động sản nghỉ dưỡng thuộc loại hình đất thương mại dịch vụ có thời hạn sở hữu. Với những dự án cần gia hạn thời gian thuê, chi phí đóng tiền là một ẩn số lớn, tác động mạnh đến cả chủ đầu tư và nhà đầu tư đang sở hữu tài sản này. Nếu tính toán không kỹ, bất động sản nghỉ dưỡng rất dễ trở thành tiêu sản. Điều đó tạo tâm lý thận trọng với loại hình này.

Theo ông Lưu Quang Tiến, để bất động sản nghỉ dưỡng sôi động, vẫn cần thêm một vài năm nữa. Rào cản lớn của phân khúc này là câu chuyện hiệu suất đầu tư và bội thực nguồn cung. Sau nhiều năm tăng trưởng nóng, giá bán và nguồn cung bất động sản nghỉ dưỡng đang khá nhiều, giá cũng cao nhưng khai thác thương mại lại chưa được như kỳ vọng. Ngoài ra, những tranh chấp giữa chủ đầu tư và người mua tại nhiều dự án trước đó tạo tâm lý thận trọng khi tiếp cận và lựa chọn bất động sản nghỉ dưỡng.

“Trong bối cảnh nguồn cung bất động sản nghỉ dưỡng cải thiện chưa nhiều, tâm lý đầu tư còn yếu thì 2025 sẽ là năm bớt khó khăn nhưng chưa thể hoàn toàn khởi sắc”, ông Tiến đánh giá.

Theo giới chuyên gia, hiện nay có 2 vấn đề lớn có thể quyết định “cục diện” của thị trường bất động sản nghỉ dưỡng là thanh khoản và niền tin.

Theo đó, trong giai đoạn cao điểm 2015-2019, mỗi năm thị trường cho ra hàng nghìn căn biệt thự, nhà phố, condotel, nhưng chất lượng khai thác thấp, thị trường hấp thụ không kịp. Việc phụ thuộc lớn vào dòng khách quốc tế khiến nguồn thu từ hoạt động cho thuê và kinh doanh của các dự án bất động sản nghỉ dưỡng bị ảnh hưởng.

Chính sách cam kết lợi nhuận của chủ đầu tư từng là “chiêu bài” thu hút khách hàng nhiều năm trước, hiện trở thành điểm yếu gây ra nhiều vụ đổ vỡ khi chủ đầu tư không thực hiện được cam kết, khiến nhà đầu tư quay lưng. Không giải được bài toán lợi nhuận, bất động sản nghỉ dưỡng sẽ còn khó khăn.

Theo bà Phạm Thị Miền, Trưởng bộ phận nghiên cứu thị trường của Vars, lực cầu năm nay sẽ có sự cải thiện ở các thị trường trọng điểm có hạ tầng tốt và lượng khách quốc tế ổn định. Còn với thị trường chung, bất động sản nghỉ dưỡng vẫn chưa thể tạo bứt phá. Một số khu vực vẫn đang thừa nguồn cung nghỉ dưỡng cao cấp chưa đưa vào vận hành do chưa hoàn thiện hạ tầng, tiện ích. Nếu muốn chờ thị trường này nhộn nhịp như năm 2018, sẽ phải mất thêm một vài năm nữa.

Nhìn chung, các chuyên gia cho rằng, căn hộ dịch vụ (condotel) sẽ là phân khúc có thể tín hiệu khởi sắc nhưng chỉ với những dự án đã được cấp sổ. Còn với biệt thự và nhà phố thương mại nghỉ dưỡng, nhu cầu sẽ kén chọn hơn và chỉ tập trung vào những thị trường trọng điểm về du lịch, với giá bán trên dưới 10 tỷ đồng.

Theo An Diệp

Nhịp sống thị trường

Khách hàng “kêu cứu” vì đầu tư vào Dự án Tổ hợp du lịch nghỉ dưỡng Thanh Long Bay

Quyết định đầu tư vào Dự án Tổ hợp du lịch nghỉ dưỡng Thanh Long Bay (Bình Thuận), khách hàng kêu cứu vì quá thời hạn bàn giao nhưng chủ đầu tư chưa xây dựng…

Đây là nội dung trong lá đơn cầu cứu khẩn cấp của bà Nguyễn Thị Nhàn (sinh ngày 08/05/1963, tại xã Xuân Thọ, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá) gửi Diễn đàn Doanh nghiệp.

khach-hang-keu-cuu-vi-dau-tu-vao-du-an-to-hop-nghi-duong-thanh-long-bay-1.jpg
Một góc khu đô thị đẹp như mơ tại Dự án Tổ hợp du lịch nghỉ dưỡng Thanh Long Bay được Nam Group quảng cáo. Ảnh: Nam Group

Theo đó, bà Nhàn là nhà đầu tư tại Dự án Tổ hợp du lịch nghỉ dưỡng Thanh Long Bay do Công ty Cổ phần Trung Sơn Bắc làm chủ đầu tư.

Cụ thể, ngày 12/04/2022, bà Nguyễn Thị Nhàn đã ký Hợp đồng Nguyên tắc số E04-005/HDNT/TSB-TLB về các điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng dất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại “dự án Tổ hợp khu du lịch nghỉ dưỡng Thanh Long Bay” (tại thôn Văn Kê, xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận), với Công ty Cổ phần Trung Sơn Bắc (Địa chỉ văn phòng giao dịch tại 135-137 Nguyễn Thị Thập, phường Tân Hưng, quận 7, TP Hồ Chí Minh).

Theo hợp đồng, bà Nhàn mua quyền sử dụng đất với diện tích 108 m2; Loại nhà ở: Nhà phố; Tình trạng xây dựng khi bàn giao cho bên B: Nhà ở được hoàn thiện mặt bên ngoài, bên trong hoàn tất xây dựng phần thô; Diện tích xây dựng tạm tính: 03 tầng (gồm 1 trệt, 2 lầu) với diện tích xây dựng: 392,58m2; Giá chuyển nhượng: 8.176.350.000 VNĐ. Dự kiến trong quý 3/2023 chủ đầu tư sẽ bàn giao nhà ở.

Tuy nhiên, bà Nhàn cho biết, dù đã quá hạn bàn giao nhà theo hợp đồng (dự kiến trong quý 3/2023 – PV), đồng thời bà cũng đã thanh toán nhiều đợt cho chủ đầu tư tổng cộng hơn 4,7 tỷ đồng, nhưng đến ngày 20/7/2024, chủ đầu tư là Cổ phần Trung Sơn Bắc vẫn không bàn giao nhà ở.

“Sau khi đi tìm hiểu tôi mới biết, thậm chí chủ đầu tư còn chưa xây dựng bất cứ hạng mục gì. Nhận thấy sự gian dối, có dấu hiệu lừa đảo của Công ty Cổ phần Trung Sơn Bắc, ngày 09/7/2024, tôi đã gửi đơn đề nghị hoàn trả lại số tiền tôi đã nộp. Nhưng họ luôn tìm cách né tránh, đưa ra các lý do để cố tình chiếm dụng tiền của tôi”, bà Nhàn chia sẻ.

khach-hang-keu-cuu-vi-dau-tu-vao-du-an-to-hop-nghi-duong-thanh-long-bay-2.jpg
Danh sách dự án bị “tuýt còi” tại Văn bản số 962/SXD-QLN&PTĐT ngày 14/4/2023 của Sở Xây dựng tỉnh Bình Thuận. Ảnh: N.G

Theo tìm hiểu của Diễn đàn Doanh nghiệp, năm 2003, UBND tỉnh Bình Thuận có quyết định giao đất cho Công ty TNHH Xây dựng Thương mại Trung Sơn (nay là Công ty Cổ phần Trung Sơn Bắc) với diện tích 90,3ha để thực hiện Dự án Khu du lịch Hòn Lan. Đến năm 2009, Sở Xây dựng tỉnh Bình Thuận cấp phép để xây dựng.

Sau gần 10 năm không triển khai thi công, đến tháng 5/2019, UBND tỉnh Bình Thuận có văn bản đồng ý điều chỉnh mục đích sử dụng đất của Khu du lịch Hòn Lan thành Dự án Thanh Long Bay.

Ngày 22/01/2020, UBND huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận có quyết định số 39/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng Tổ hợp nghỉ dưỡng Thanh Long Bay. Tiếp đến, ngày 11/1/2022, UBND huyện Hàm Thuận Nam tiếp tục có Quyết định số 50/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chi tiết xây dựng tổ hợp nghỉ dưỡng Thanh Long Bay tại xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

Ngày 14/4/2023, Sở Xây dựng tỉnh Bình Thuận đã ban hành Văn bản số 962/SXD-QLN&PTĐT về việc chấn chỉnh việc giao dịch, mua bán và chuyển nhượng bất động sản trên địa bàn tỉnh này.

Đáng chú ý, trong danh sách 33 chủ đầu tư, doanh nghiệp có dự án chưa đủ điều kiện pháp lý, vi phạm về kinh doanh bất động sản tại địa phương có tên Dự án Tổ hợp khu du lịch nghỉ dưỡng Thanh Long Bay của Công ty Cổ phần Trung Sơn Bắc.

Nói về lý do “tuýt còi” các dự án, Sở Xây dựng Bình Thuận cho biết, một số dự án mới ở giai đoạn được chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc đã được cấp phép nhưng chưa làm xong hạ tầng. Có trường hợp xây xong căn hộ nhưng chưa chuyển mục đích sử dụng đất thương mại dịch vụ qua đất ở đô thị… Thậm chí, có dự án đầu tư khu biệt thự, khu phố thương mại để bán và kinh doanh theo vòng đời dự án, nhưng pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về loại hình này.

Cũng trong văn bản này, Sở Xây dựng đề nghị các chủ đầu tư không thực hiện hoặc ký kết hợp đồng với đơn vị môi giới bất động sản để thực hiện các hoạt động giao dịch mua bán, chuyển nhượng hoặc vận dụng các hình thức giữ chỗ, đặt chỗ, đăng ký vị trí; đăng tải trên mạng internet và các mạng xã hội khác về các nội dung liên quan đến hoạt động giao dịch bất động sản khi chưa đủ điều kiện giao dịch.

“Sở Xây dựng sẽ tiếp tục phối hợp với các sở, ngành và địa phương rà soát thông tin các dự án bất động sản chưa đủ điều kiện mua bán, chuyển nhượng nhưng thực hiện việc rao bán, chuyển nhượng bất động sản thông qua các hình thức giữ chỗ, đặt chỗ, đăng ký vị trí để thu tiền của người mua để chấn chỉnh kịp thời, đồng thời tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện kinh doanh bất động sản trên địa bàn tỉnh Bình Thuận; các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật”, nội dung văn bản nêu rõ.

Được biết, mới nhất, ngày 23/7/2024, thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, UBND tỉnh Bình Thuận cho biết, qua rà soát, Sở Xây dựng Bình Thuận xác định đến nay chỉ có 12 dự án bất động sản đủ điều kiện mua bán, chuyển nhượng với 9 dự án đất nền và 3 dự án nhà ở hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, trong danh sách này không có tên Dự án Tổ hợp khu du lịch nghỉ dưỡng Thanh Long Bay của Công ty Cổ phần Trung Sơn Bắc.

Ở một diễn biến khác, trong Công văn số 2908/CV/TSB đề ngày 29/8/2024 gửi trả lời Diễn đàn Doanh nghiệp, Công ty CP Trung Sơn Bắc cho biết, hiện nay Dự án đã triển khai xong phần cơ sở hạ tầng và tiếp tục hoàn thiện các phân khu nhà phố thấp tầng.

“Về sự việc của khách hàng Nguyễn Thị Nhàn, chúng tôi đã tiếp nhận được thông tin và đang tích cực làm việc với đại diện uỷ quyền từ phía bà Nhàn. Đến thời điểm này, khách hàng Nguyễn Thị Nhàn chưa phải thực hiện tiếp các nghĩa vụ tài chính liên quan đến thoả thuận đã ký, việc ngừng thực hiện nghĩa vụ tài chính này đã được áp dụng từ ngày 12/7/2023”, nội dung Công văn trả lời của Công ty Trung Sơn Bắc nêu, đồng thời chủ đầu tư này cũng cho biết sẽ tiếp tục làm việc với khách hàng để cùng tháo gỡ vướng mắc và đưa ra hướng giải quyết hài hoà cho đôi bên.

Được biết, đơn vị sở hữu Công ty CP Trung Sơn Bắc là Nam Group, tiền thân là Công ty TNHH Dịch vụ tư vấn Bất động sản M&T, được thành lập từ tháng 5/2015, có trụ sở chính đặt tại số 135 – 137 Nguyễn Thị Thập, phường Tân Hưng, quận 7, TPHCM. Đến năm 2016, công ty này đổi tên thành Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Bất động sản Nam Anh và tiếp tục đổi tên thành Nam Group vào năm 2017.

Liên quan đến sự việc này, Diễn đàn Doanh nghiệp đang làm việc với cơ quan chức năng tỉnh Bình Thuận và sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc.

Bản án phúc thẩm Tranh chấp hợp đồng hợp tác giữa Nhà đầu tư và Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bản án số: 454/2024/DS-PT Ngày: 15/7/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng hợp tác

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

page1image926495936 page1image926486320

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Bà Trần Thị Liên Anh

Các Thẩm phán: Ông Vũ Toàn Giang
Bà Trần Thị Thu Nam

Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thùy Trang, Thư ký Tòa án

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội: Bà Nguyễn Thị Phương Lan, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Ngày 15 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 209/2024/TLPT-DS ngày 21/6/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 311/2024/QĐ-PT ngày 26/6/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 401/2024/QĐPT-HPT ngày 08/7/2024, giữa các đương sự sau:

Nguyên đơn: Ông Ngô Quang Dũng, sinh năm 1964.
Địa chỉ: số 28, ngõ 445/46, đường Lạc Long Quân, phường Xuân La, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội.
Bị đơn: Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE
Địa chỉ: Tầng 7, Tòa nhà Sunshine Centre, số 16, đường Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lương Thành Long – Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Nghị Lực, ông Đặng Thành Vinh, bà Cao Thị Ngọc Mai, bà Nguyễn Kiều Oanh (theo giấy ủy quyền số 45/2023/GUQ-KSFINANCE ngày 07.11.2023 của Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE)

Do có kháng cáo của Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

* Nguyên đơn ông Ngô Quang Dũng trình bày:

Ngày 28.02.2022, ông và Công ty cổ phần đầu tư KSFinance (sau đây gọi tắt là KSF) ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 có nội dung như sau:

– Mục đích hợp tác kinh doanh: Bên B (Ngô Quang Dũng) đồng ý góp vốn và Bên A (Công ty cổ phần đầu tư KSFinance) đồng ý nhận và quản lý phần góp vốn của Bên B để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án theo Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thỏa thuận tại Hợp đồng này phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan; Bên A cam kết đảm bảo bên B sẽ được hưởng các quyền lợi đầu tư theo quy định của pháp luật.

– Giá trị khoản đầu tư: 4.000.000.000 đồng (bốn tỷ đồng).

– Thời hạn hợp tác áp dụng với Khoản đầu tư là 01 năm từ ngày 28.02.2022 đến ngày 28.02.2023.

– Phân chia kết quả kinh doanh: lợi nhuận cố định áp dụng và tính trên khoản đầu tư là 11.0%/năm (trên cơ sở tính 1 năm là 365 ngày), tính từ ngày Bên B chuyển đủ khoản giá trị khoản đầu tư đến ngày Bên B nhận lại khoản đầu tư gốc.

– Thời điểm chi trả lợi nhuận cố định: 03 tháng

– Mục tiêu Dự án đầu tư: Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long địa chỉ tại Hà Nội.

Thực hiện Hợp đồng, ngày 28.02.2023 ông Dũng đã nộp 4.000.000.000 đồng (bốn tỷ đồng) vào tài khoản của KSF tại Ngân hàng TMCP Kiên Long. Sau đó ông nhận được Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 do KSF phát hành.

Quá trình thực hiện hợp đồng, ông đã nhận được 02 lần lợi nhuận cố định cụ thể:

Lần 1, nhận ngày 30.5.2022, số tiền là 104.213.699 đồng; lần 2 nhận ngày 29.8.2022 số tiền là 104.213.699 đồng. Ngoài các lần trên, kể từ ngày 28.11.2022 đến nay ông không nhận được số tiền lợi nhuận cố định theo thỏa thuận của Hợp đồng nữa. Thời điểm ngày 28.11.2022, ông đã đề nghị KSF thực hiện điều 3.3 và Phụ lục 2 của Hợp đồng, chấp nhận trả phí rút một phần hoặc rút hết vốn, nhưng không được KSF trả lời, ông đến văn phòng công ty để làm việc nhưng bị bảo vệ chặn ở tầng 1 không cho gặp người có thẩm quyền của KSF.

Hết thời hạn hợp tác theo quy định của Hợp đồng, ngày 28.02.2023 ông có yêu cầu công ty hoàn trả lại vốn thông qua ứng dụng KSFInvest (là ứng dụng mà điều khoản 5.2,5.5 của Hợp đồng quy định) và có gọi điện cho nhân viên tư vấn (cô Hiền) nhưng không được trả lời và cũng không nhận lại được vốn. Đến ngày 16.8.2023, ông nhận được tin nhắn tự động của KSF về việc gia hạn và chuyển đổi hợp đồng đặt mua, sở hữu bất động sản thương hiệu Sunshine, có số điện thoại liên hệ qua tổng đài 1900633566 nhưng không thể liên hệ. Và từ đó đến nay KSF không liên hệ và không trả tiền vốn cho ông theo thỏa thuận của Hợp đồng.

Về mục đích sử dụng vốn hợp tác kinh doanh theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH 00043184 và Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH 00043184: Tại Điều 1.1 Phần B (các điều kiện chính của hợp đồng) có nội dung: Bên B (Ngô Quang Dũng) đồng ý góp vốn và Bên A (Công ty cổ phần đầu tư KSFinance) đồng ý nhận và quản lý phần góp vốn của Bên B để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án theo Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thỏa thuận tại Hợp đồng này phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, tại mục 5 Phần A của hợp đồng lại thỏa thuận về Mục tiêu Dự án đầu tư là Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long. Điều này tiếp tục được khẳng định tại mục 3 Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 (dự án đầu tư: ITLH00043184) sau khi KSF nhận vốn góp của ông. Như vậy, KSF có trách nhiệm thực hiện đúng cam kết là sử dụng khoản vốn góp hợp tác đầu tư của ông để đầu tư cho Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long. Lý do: các điều kiện riêng của hợp đồng luôn có giá trị cao hơn các điều kiện chung của hợp đồng . Hơn nữa, giấy chứng nhận đầu tư không thể hiện KSF được sử dụng vốn của ông vào các mục đích kinh doanh khác.

Quá trình giải quyết vụ án, KSF cung cấp tài liệu chứng cứ về Dự án do Công ty cổ phần đầu tư Xuân La với KSF trong đó có Hợp đồng dịch vụ Tư vấn và Môi giới Bất động sản số 2012/HDDV/XUANLA-KSF, nội dung: Công ty KSF cung cấp dịch vụ tư vấn, quản lý bất động sản, dịch vụ truyền thông maketing, dịch vụ môi giới cho Công ty cổ phần đâu tư xây dựng Xuân La tại Dự án xây dựng nhà ở thấp tầng tại ô đất TT6 – 2 thuộc quy hoạch chi tiết Khu chức năng đô thị Tây Tựu, phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội (do Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Xuân La làm chủ đầu tư theo Văn bản số 2224/UBND – SXD ngày 05.6.2020 của UBND Thành phố Hà Nội). Tuy nhiên không có căn cứ pháp lý cũng như căn cứ nội bộ của công ty Cổ phần đầu tư Xuân La cho thấy Dự án nêu trên là Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long. Trường hợp giả định Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long là tên thương mại của Dự án do Công ty cổ phần đầy tư xây dựng Xuân La làm chủ đầu tư thì:

– Tại Hợp đồng dịch vụ Tư vấn và Môi giới bất động sản số 2012/HDDV/XUANLA –KSF, Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Xuân La không cho phép Công ty KSF huy động vốn cho Dự án; KSF không cũng không có quyền/nghĩa vụ/trách nhiệm được/bắt buộc phải góp vốn đầu tư với Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Xuân La. Tại Điều 3.c quy định rõ “không quy định nào trong Hợp đồng này được hiểu là bên A ủy quyền cho Bên B để thu bất kỳ khoản tiền nào của khách hàng”.

– Tại Điều 4.12 của Hợp đồng dịch vụ Tư vấn và Môi giới Bất động sản chỉ quy định cho Bên B (KSF) có quyền ký các hợp đồng, Phụ lục hợp đồng liên kết/hợp tác/phân phối các văn bản thương thảo, các giao dịch phát sinh với Đại lý (là đơn vị khác có chức năng phù hợp tham gia thực hiện một phần/toàn bộ dịch vụ tại Hợp đồng này) liên quan đến hoạt động truyền thông maketing, kinh doanh, môi giới bất động sản tại các Dự án của Bên A (Công ty cổ phần đầu tư Xuân La).

Như vậy, không có căn cứ để cho rằng KSF đã sử dụng vốn đầu tư của ông cho Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long.

Mặt khác, có dấu hiệu gian dối của Ban lãnh đạo KSF chiếm dụng vốn, nay mất khả năng thanh toán, gây thiệt hại 100% giá trị hợp đồng cho nhà đầu tư: bằng việc đưa ra nhu cầu huy động vốn hợp tác kinh doanh cho Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long một cách mập mờ, không có căn cứ hợp pháp, không có mối liên hệ về đầu tư vốn hợp pháp, Ban lãnh đạo của KSF đã cam kết sử dụng vốn đúng mục đích, với mức lợi nhuận cố định 11%/năm, cam kết ông được linh hoạt rút vốn đầu tư trước hạn…nhằm thu tiền để sử dụng cho các mục đích bất hợp pháp không theo thỏa thuận hợp đồng, không thanh toán lợi nhuận và tiền gốc đầu tư theo cam kết. Mặc dù ông đã liên tục yêu cầu thanh toán, nhưng KSF không thanh toán lợi nhuận, không thanh toán tiền gốc khi kết thúc thời hạn hợp đồng, gây thiệt hại rất lớn về kinh tế cho ông là 100% giá trị góp vốn đầu tư và hơn 50% giá trị lợi nhuận cố định, tiếp tục chiếm dụng vốn thời điểm hiện nay. Đến nay, KSF mất khả năng thanh toán, không lý giải được tiền góp vốn đầu tư của ông được sử dụng vào mục đích gì, không cam kết về thời hạn hoàn trả tiền gốc góp vốn và tiền lãi theo cam kết. Ông đề nghị Tòa án đánh giá có hay không hành vi phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật và quyết định chuyển vụ án đến cơ quan chức năng xử lý theo quy định để bảo vệ an toàn cho các nhà đầu tư, kịp thời ngăn chặn việc tiếp tục coi thường pháp luật, lợi dụng lòng tin của các nhà đầu tư để trục lợi và đề nghị Tòa án nhanh chóng đưa vụ án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Đối với lời khai của KSF với nội dung: “Khi phát sinh vấn đề trên, KSF đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với ông Ngô Quang Dũng để tháo gỡ khó khăn. Đồng thời, KSFinance cũng đã hết sức nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm quyền lợi của khách hàng” ông Dũng bác bỏ hoàn toàn lời khai này. Trong thời gian đó, khi ông và nhiều khách hàng khác đến trụ sở tại số 16, đường Phạm Hùng thì Công ty cử người chặn ngay từ cửa tầng 1, gọi điện cho nhân viên tư vấn thì được hướng dẫn lòng vòng sang các số điện thoại khác, không thể gặp trực tiếp được ai. Đến tháng 8 năm 2023 ông nhận được các tin nhắn tự động từ tổng đài của KSF hướng dẫn về việc chuyển đổi bất động sản, ngoài ra không gặp bất kỳ ai hướng dẫn tháo gỡ khó khăn như lời khai của bị đơn.

Đối với đề nghị của bị đơn về việc xem xét Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án, nguyên đơn có ý kiến như sau: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân là đúng thẩm quyền, tại thời điểm nộp đơn khởi kiện thì bị đơn đang có trụ sở tại quậnThanh Xuân, Tòa án quận Thanh Xuân đã có Thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí ngày 20.10.2023, ngày 23.10.2023 Tòa án thụ lý vụ án, ngày 27.10.2023, bị đơn mới có thông báo về việc chuyển trụ sở, thông báo này chỉ gửi cho Tòa án chứ không gửi cho nguyên đơn nên nguyên đơn không thể biết được. Do vậy ông đề nghị Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Đối với thư bảo lãnh ngày 28.02.2022 của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine đối với Bên bảo lãnh là Công ty cổ phần đầu tư KSFinance để bảo lãnh không hủy ngang cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh phát sinh từ Hợp đồng hợp tác đầu tư số ITLH00043184 ngày 28.02.2022, ông Ngô Quang Dũng (bên nhận bảo lãnh) không yêu cầu Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Ngô Quang Dũng yêu cầu Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân giải quyết: Yêu cầu Công ty KSF thanh lý hợp đồng đã ký giữa hai bên và hoàn trả số tiền lợi nhuận cố định theo thỏa thuận của Hợp đồng, cụ thể:

  • Số tiền gốc đã đầu tư: 4.000.000.000 đồng (bốn tỷ đồng).
  • Số tiền lợi nhuận cố định tính đến ngày 28.2.2023 là: 207.282.192 đồng.
  • Lãi quá hạn theo quy định của pháp luật đối với số tiền 4.000.000.000 đồng từ 01.3.2023 đến ngày 21.12.2023.*Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Vũ Nghị Lực trình bày:

    Trong năm 2022, KSF và ông Ngô Quang Dũng có thỏa thuận ký kết các Hợp đồng hợp tác kinh doanh với các nội dung cơ bản như sau:

    – Mục đích hợp tác kinh doanh: Ông Ngô Quang Dũng đồng ý góp vốn và KSF đồng ý nhận và quản lý phần vốn góp của ông Ngô Quang Dũng để thực hiện hoạt động kinh doanh tại các dự án và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái với các quy định của pháp luật, nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận và kết quả đạt được theo thỏa thuận tại hợp đồng hợp tác kinh doanh này. Cụ thể, tại Hợp đồng hợp tác kinh doanh đã ký, ông Ngô Quang Dũng được hưởng lợi nhuận cố định là 11%/năm tính trên giá trị Khoản đầu tư.

    – Thời hạn hợp tác: 01 năm
    – Số tiền ông Dũng đã nộp vào KSF: 4.000.000.000 đồng (bốn tỷ đồng). Thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh nêu trên, KSF đã nhận các

    Khoản đầu tư của ông Ngô Quang Dũng và thực hiện các hoạt động kinh doanh theo thỏa thuận tại các hợp đồng đã ký.

    Tuy nhiên, trong giai đoạn từ Quý IV năm 2022 đến nay, do sự suy thoái chung của nền kinh tế toàn cầu, thị trường bất động sản trong nước đóng băng, chính sách siết chặt tín dụng của các Ngân hàng … đã khiến cho các công ty bất động sản gặp rất nhiều khó khăn (không chỉ riêng KSF và các Chủ đầu tư dự án bất động sản mà KSF có quan hệ hợp tác, đầu tư), trực tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn thu và dòng tiền của KSF.

    Do đó, khi đến hạn hoàn trả giá trị Khoản đầu tư và Lợi nhuận cố định theo các Hợp đồng hợp tác đầu tư, KSF chưa có khả năng thanh toán ngay cho ông Ngô Quang Dũng theo đúng thỏa thuận.

    Khi phát sinh vấn đề trên, KSF đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với ông Ngô Quang Dũng để tháo gỡ khó khăn. Đồng thời, KSFinance cũng đã hết sức nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm quyền lợi của khách hàng. Cụ thể, trong thời gian vừa qua, công ty đã đề xuất khách hàng cảm thông và xem xét các phương án giải quyết như sau:

    1. Gia hạn thời gian thực hiện Hợp đồng thêm 24 tháng để Công ty có thể thu xếp nguồn tiền hợp lý chi trả, đồng thời Khách hàng sẽ được nhận thêm một khoản lợi nhuận bổ sung theo thỏa thuận của các bên.

    2. Chuyển đổi giá trị khoản tiền đầu tư sang thành khoản thanh toán các bất động sản khác đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và ký kết Hợp đồng mua bán với Chủ đầu tư, tại các Dự án: Sunshine Green Iconic, Sunshine Golden River, Sunshine Sky City, Sunshine Diamond River, Sunshine Capital Tây Thăng Long, Sunshine City, Sunshine Garden, Sunshine Palace…

Tuy nhiên đến nay, Nguyên đơn và KSF vẫn chưa đạt được sự đồng thuận. Đề nghị: Tòa án xem xét, tiếp tục tạo điều kiện cho các bên được thương lượng, trao đổi về các phương án giải quyết vụ việc trên tinh thần thiện chí; chia sẻ và hỗ trợ cho KSF có thêm thời gian thu hồi các khoản đầu tư và các nguồn thu khác, để sớm có khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với ông Ngô Quang Dũng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Ngô Quang Dũng đối với Công ty cổ phần đầu tư KSFinance.

Xác nhận Công ty cổ phần đầu tư KSFinance còn nợ ông Ngô Quang Dũng theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 tổng số tiền nợ gốc, lợi nhuận cố định và lãi là 4.681.972.602 đồng, trong đó nợ gốc là 4.000.000.000 đồng, lợi nhuận cố định là 220.602.739 đồng, nợ lãi là 461.469.863 đồng.

Buộc Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải trả cho ông Ngô Quang Dũng tổng số tiền nợ gốc, lợi nhuận cố định và lãi là 4.681.972.602 đồng đồng.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE, kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE đề nghị Hủy bản án sơ thẩm do vi phạm thẩm quyền xét xử vụ án.

Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn vắng mặt tại phiên toà. HĐXX công bố lời khai của nguyên đơn.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS- ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

2. Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng giữa cá nhân và doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh, là tranh chấp theo quy định tại Khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Theo Khoản 8.2 Điều 8 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 thì khi phát sinh tranh chấp, hai bên có quyền đưa vụ việc ra Tòa án nơi bên A đặt trụ sở chính để giải quyết. Tại thời điểm nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì bị đơn đang có trụ sở tại quận Thanh Xuân, Tòa án quận Thanh Xuân đã có Thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí ngày 20.10.2023, ngày 23.10.2023 (cũng là ngày nguyên đơn chuyển trụ sở) Tòa án thụ lý vụ án, ngày 27.10.2023, bị đơn mới có thông báo về việc chuyển trụ sở, thông báo này chỉ gửi cho Tòa án sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án và không gửi cho nguyên đơn nên nguyên đơn không thể biết được bị đơn đã chuyển trụ sở.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 39 BLTTD: Trường hợp vụ án dân sự đã được Toà án thụ lý và đang giải quyết theo đúng quy định của Bộ luật này về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ thì phải được Toà án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch của đương sự. Do đó Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân giải quyết vụ kiện là đúng quy định. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn về nội dung này.

3. Về nội dung:

Ngày 28.02.2022, giữa ông Ngô Quang Dũng và KSF ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022, mục đích hợp tác kinh doanh là ông Ngô Quang Dũng đồng ý góp vốn và Công ty cổ phần đầu tư KSFinance đồng ý nhận và quản lý phần góp vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái với quy định của pháp luật nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thỏa thuận tại Hợp đồng này phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan.

Thực hiện Hợp đồng với KSF, ngày 28.02.2022, ông Dũng đã nộp 4.000.000.000 đồng vào tài khoản số 95119899 của KSF tại Ngân hàng Kiên Long (theo Giấy nộp tiền ngày 28.02.2022) và được KSF cấp giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 ngày 28.02.2022. Cùng ngày, Công ty cổ phần tập đoàn Sunrise phát hành thư bảo lãnh để bảo lãnh không hủy ngang cho nghĩa vụ của Bên được bảo lãnh (Công ty cổ phần đầu tư KSFinance) phát sinh từ Hợp đồng hợp tác.

Quá trình thực hiện hợp đồng, KSF đã thực hiện việc trả lợi nhuận cố định cho ông Dũng được 02 lần vào ngày 30.5.2022 và ngày 29.8.2022, tổng số tiền đã trả là 208.427.398 đồng (đã trừ 5% thuế thu nhập). Từ sau ngày 29.8.2022, KSF không thực hiện việc chi trả lợi nhuận cố định cho ông Dũng nữa. Ngày 28.11.2022, ông Dũng đến KSF để yêu cầu thực hiện việc rút một phần hoặc rút hết vốn theo quy định của hợp đồng nhưng không được KSF chấp nhận. Hết thời hạn thực hiện hợp đồng, ông Dũng yêu cầu KSF thanh lý hợp đồng nhưng KSF không thanh toán cả gốc và lợi nhuận cố định theo đúng cam kết của hợp đồng. Hai bên cũng không ký gia hạn hợp đồng hoặc các phụ lục khác về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc chuyển đổi hình thức đầu tư.

Tại các buổi hòa giải, bị đơn KSF đưa ra các phương án giải quyết như gia hạn thực hiện hợp đồng thêm 24 tháng hoặc chuyển đổi giá trị khoản đầu tư sang thành khoản thanh toán các bất động sản khác đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh nhưng nguyên đơn không đồng ý. Theo hợp đồng thỏa thuận ngày hết hạn là ngày 28.02.2023. Như vậy có đủ cơ sở xác định Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 giữa ông Ngô Quang Dũng và Công ty cổ phần đầu tư KSFinance đã hết thời hạn và chấm dứt hiệu lực từ ngày 01.3.2023. Tại phiên tòa bị đơn cũng đồng ý thanh toán cho ông Dũng toàn bộ số tiền gốc ban đầu là: 4.000.000.000 đồng. Theo điểm 3.1 Điều 3 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 và quy định của pháp luật buộc KSF phải thanh toán số tiền gốc 4.000.000.000 đồng cho ông Dũng là có căn cứ. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của ông Dũng buộc KSF phải trả cho ông Dũng số tiền gốc là: 4.000.000.000 đồng.

Đối với yêu cầu buộc bị đơn thanh toán tiền lợi nhuận cố định từ ngày 29.8.2022 đến ngày 28.02.2023, lãi suất 11%/năm là 220.602.739 đồng. Nhận thấy:

Tại mục 3 phần A – Thông tin chung của Hợp đồng quy định: “Phân chia kết quả kinh doanh: lợi nhuận cố định áp dụng và tính trên khoản đầu tư là 11.0%/năm (trên cơ sở một năm bằng 365 ngày), tính từ ngày bên B chuyển đủ giá trị khoản đầu tư đến ngày bên B nhận lại khoản đầu tư gốc (LNCĐ).

Thỏa thuận về lãi 11%/năm là phù hợp quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự do vậy là hợp pháp, được chấp nhận.

Tại điểm 3.1 hợp đồng quy định quyền của bên B: “ được hoàn lại giá trị của khoản đầu tư và lợi nhuận cố định khi hết thời hạn hoặc khi có yêu cầu của bên B”.

Như vậy, theo thỏa thuận của hợp đồng, lợi nhuận cố định sẽ được tính từ ngày ông Dũng nộp tiền vào KSF (ngày 28.02.2022) cho đến ngày hợp đồng hết hạn. Như đã phân tích, Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 đã hết thời hạn từ ngày 01.3.2023. KSF đã thanh toán lợi nhuận cố định cho ông Dũng được 02 kỳ (kỳ 1 ngày 30.5.2022 và kỳ 2 ngày 29.8.2022), còn 02 kỳ chưa thanh toán (kỳ 3 ngày 28.11.2022 và lợi nhuận cuối kỳ). Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn cũng đồng ý nhất trí thanh toán cho nguyên đơn số tiền lợi nhuận cố định của 02 kỳ còn thiếu là 220.602.739 đồng. Do vậy, bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán số tiền lợi nhuận cố định của 02 kỳ còn thiếu là 220.602.739 đồng là đúng quy định.

Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán số tiền lãi chậm trả trên số tiền nợ gốc 4.000.000.000 đồng tính từ ngày 01.3.2023 đến ngày 25.4.2024, lãi suất là 10%/năm, nhận thấy:

Theo hợp đồng, KSF được sử dụng phần vốn góp của ông Ngô Quang Dũng từ ngày 28.02.2022 đến ngày 28.02.2023, hết thời hạn trên, do KSF không thanh toán gốc nên phải chịu lãi trên nợ gốc quá hạn theo quy định tại Điều 357 và 468 Bộ luật dân sự. Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp nên chấp nhận, buộc KSF phải thanh toán cho ông Ngô Quang Dũng tiền lãi trên nợ gốc trên số tiền 4.000.000.000 đồng, lãi suất 10%, thời gian từ ngày 01.3.2023 đến ngày 25.4.2024 tương đương 421 ngày, số tiền là 461.369.863 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn cũng nhất trí thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền lãi tạm tính đến ngày 25/4/2024 là 461.369.863 đồng. Vì vậy, bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền lãi là 461.369.863 đồng là đúng quy định.

Như vậy, tổng số tiền KSF phải thanh toán cho ông Ngô Quang Dũng là: 4.681.972.602 đồng.

Đối với thư bảo lãnh ngày 28.02.2022 của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine đối với Bên bảo lãnh là Công ty cổ phần đầu tư KSFinance để bảo lãnh không hủy ngang cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh phát sinh từ Hợp đồng hợp tác đầu tư số ITLH00043184 ngày 28.02.2022, do ông Ngô Quang Dũng (bên nhận bảo lãnh) không yêu cầu Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nên Tòa án không xem xét giải quyết. Giành quyền khởi kiện giải quyết về việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho các đương sự bằng vụ án khác khi các bên có yêu cầu.

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Ngô Quang Dũng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ:
– Điều 357, 385, 422, 429, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự 2015;
– Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11.01.2019 của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

– Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Quang Dũng đối với Công

ty cổ phần đầu tư KSFinance.
Xác nhận Công ty cổ phần đầu tư KSFinance còn nợ ông Ngô Quang

Dũng theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 tổng số tiền nợ gốc, lợi nhuận cố định và lãi là 4.681.972.602 đồng, trong đó nợ gốc là 4.000.000.000 đồng, lợi nhuận cố định là 220.602.739 đồng, nợ lãi là 461.469.863 đồng (tạm tính đến ngày 25/4/2024).

Buộc Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải trả cho ông Ngô Quang Dũng tổng số tiền nợ gốc, lợi nhuận cố định và lãi là 4.681.972.602 đồng đồng.

2. Giành quyền khởi kiện giải quyết về việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh ngày 28.02.2022 của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine cho các đương sự bằng vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

3.Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, đối trừ vào số tiền dự phí kháng cáo đã nộp tại Biên lai thu số 0036117 ngày 16/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải chịu 112.670.844 đồng án phí dân sự sơ thẩm (chưa nộp).

Hoàn trả ông Ngô Quang Dũng số tiền 56.000.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0012536 ngày 23/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

– VKSND Thành phố Hà Nội;
– TAND quận Thanh Xuân
– Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân;
– Các đương sự;
– Lưu văn phòng;
– Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Trần Thị Liên Anh

Bản án phúc thẩm Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh giữa Nhà đầu tư và Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine, nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bản án số: 405/2024/DS-PT
Ngày: 24/6/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

page1image1410903984 page1image1410904272

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Liên Anh

Các Thẩm phán: Ông Vũ Toàn Giang
Bà Ngô Tuyết Băng

Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thùy Trang, Thư ký Tòa án

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội: Nguyễn Thị Phương Lan, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Ngày 24 tháng 6 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 177/2024/TLPT-DS ngày 20/5/2024 về việc “Yêu cầu thực hiện bảo lãnh”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 264/2024/QĐ-PT ngày 28/5/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 355/QĐPT-HPT ngày 12/6/2024, giữa các đương sự sau:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thanh Phương, sinh năm 1978

HKTT: Số 108 Quán Thánh, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.

Hiện trú tại: Căn DL 3508 Tòa S2, Sunshine City, KĐT Ciputra, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Sơn Đen, sinh năm 1982 và ông Lò Việt Cường, sinh năm 1998. (Theo Giấy ủy quyền số công chứng 2358, quyển số 02/2023 TP/CC – SCC/HDGD ngày 20/10/2023)

* Bị đơn: Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine, nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine (đổi tên doanh nghiệp 06/5/2024).

Địa chỉ: Tầng 9, Tòa nhà Sunshine Center, 16 Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Văn Trường – Tổng Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đỗ Thị Ngọc. (Theo Văn bản ủy quyền số 31. UQ – SSG ngày 11 tháng 12 năm 2023)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE (Tên viết tắt là: KSFINANCE);

Địa chỉ trụ sở chính: Tầng 7, Toà nhà Sunshine Center, số 16 Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội;

  1. Người đại diện theo pháp luật: Ông Lương Thành Long; Chức vụ, Tổng Giám đốc;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Nghị Lực, bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, ông Đặng Thành Vinh – chuyên viên (Theo Giấy ủy quyền số 42/2024/GUQ – KSFINANCE ngày 21/6/2024).

Do có kháng cáo của Công ty cổ phần tập đoàn SUNSHINE là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 16/9/2022, Công ty Cổ phần Đầu tư KSFinance và bà Phương ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 với nội dung chính như sau:

– Giá trị khoản đầu tư: 1.000.000.000 đồng do bà Nguyễn Thanh Phương đầu tư vào Công ty Cổ phần Đầu tư KSFinance (Phần A Hợp đồng)

– Thời gian hợp tác: 01 năm kể từ ngày 16/9/2022 đến ngày 18/9/2023 (Phần A Bà Nguyễn Thanh Phương góp vốn và Công ty Cổ phần Đầu tư KS Finance quản lý phần vốn góp của bà Phương để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án SunShine Capital Tây Thăng Long và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái quy định pháp luật nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thoả thuận tại Hợp đồng (Khoản 1.1 Điều 1 Phần B Hợp đồng)

Cổ phần Đầu tư KSFinance cam kết bà Phương sẽ được hưởng các quyền lợi về đầu tư theo quy định tại Điều 3 Hợp đồng (khoản 1.2 Điều 1 Phần B Hợp đồng

Bà Phương được quyền (Điều 3 Hợp đồng Phần B Hợp đồng):

Được hoàn lại giá trị khoản đầu tư và các khoản LNCĐ và các ưu đãi khác (nếu có) theo thoả thuận và theo chính sách của Công ty Đầu tư KSFinance từng thời kỳ (nếu có). Khi hết thời hạn hoặc khi có yêu cầu của bà Phương bằng cách thao tác trên ứng dụng KSInvest hoặc gửi Thông báo bằng văn bản tới bên Công ty Đầu tư KSFinance. Các khoản tiền này sẽ được thanh toán chuyển khoản vào tài khoản của bà Phương đã đăng ký với Công ty Đầu tư KSFinance.

Bà Phương được rút toàn bộ khoản đầu tư trước khi hết thời hạn (tất toán Khoản đầu tư trước hạn) bằng việc thực hiện lệnh chấm dứt đầu tư trên ứng dụng KSInvest hoặc gửi Thông báo bằng văn bản tới bên Công ty Đầu tư KSFinance. Trong trường hợp này, LNCĐ sẽ được giảm xuống theo chính sách của Công ty thông báo cho bà Phương có hiệu lực tại thời điểm ký Hợp đồng và được bà Phương gửi thông báo xác nhận tới Công ty.

Kèm theo Hợp đồng Phụ lục số 01 – Bảng minh hoạ thu nhập từ Hợp tác kinh doanh và kết quả đầu tư, nêu rõ lợi nhuận kỳ 01 nhận vào ngày 16/12/2022 với số tiền là 24.869.178 đồng.

Nghĩa vụ của Công ty Đầu tư KSFinance theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 nêu trên được Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine bảo lãnh và đã được Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine phát hành Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022 với nội dung chính gồm: Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ của Công ty Đầu tư KSFinance theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ký giữa Công ty Đầu tư KSFinance và bà Phương

Phạm vi bảo lãnh là các nghĩa vụ thanh toán bao gồm cả nghĩa vụ hoàn trả khoản đầu tư, chi trả lợi nhuận, bồi hoàn và bồi thường thiệt hại phát sinh từ Hợp đồng Bảo lãnh có hiệu lực kể từ ngày 16/9/2022 đến hết ngày 07/11/2023.

Ngày 09/12/2022, bà Phương nhắn tin cho chị Nguyễn Ngọc Trâm (sale của công ty) là người chăm sóc Hợp đồng của bà Phương để hỏi việc kỳ trả lãi đầu tiên. Sau đó chị Trâm mới báo bà Phương là Công ty đã gửi Thông báo gia hạn thanh toán lãi (mà trước đó bà Phương chưa hề nhận được) và chị Trâm đã gửi bản ảnh Thông báo gửi cho bà Phương. Khi bà Phương phản hồi không đồng ý thì chị Trâm cho bà Phương email và số điện thoại của chị Nguyễn Kim Tuyến – Phó Tổng Giám đốc kinh doanh.

Sau đó, bà Phương nhiều lần gọi điện cho chị Tuyến nhưng chị Tuyến luôn tắt máy không nghe điện. Ngày 14/12/2022 bà Phương viết email cho chị Tuyến yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, thanh toán lợi nhuận đúng hạn vào ngày 16/12/2022, sau đó bà Phương không nhận được phản hồi gì từ chị Tuyến. Ngày 17/12/2022, bà Phương tiếp tục gửi email cho chị Tuyến nói rõ chưa nhận được tiền lợi nhuận kỳ đầu và yêu cầu phải làm rõ vấn đề.

Ngày 19/12/2022, chị Tuyến trả lời email của bà Phương hướng dẫn bà Phương liên hệ chị Huyền Trang – Giám đốc khu vực quản lý khoản đầu tư của bà Phương sẽ là đơn vị cấp cơ sở để giải quyết. Cùng ngày 19/12/2022, bà Phương đã thực hiện lệnh tất toán khoản Đầu tư trước hạn trong phần mềm KSInvest nhưng phần mềm đã bị khóa chức năng tất toán, rất nhiều lần bà Phương thực hiện lệnh tất toán nhưng đều bị báo không thực hiện được.

Trước thái độ vòng vo, lẩn tránh của phía Công ty Đầu tư KSFinance và do công việc quá bận nên bà Phương đã uỷ quyền cho Luật sư thay mặt giải quyết các vấn đề yêu cầu tất toán Khoản đầu tư trước hạn (Hợp đồng uỷ quyền ngày 20/12/2022 giữa bà Phương và Công ty Luật)

Ngày 21/12/2022, Công ty Luật viết email cho chị Huyền Trang yêu cầu hướng dẫn chi tiết và thực hiện thủ tục tất toán Khoản đầu tư trước hạn của bà Phương theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 nhưng phía Công ty Đầu tư KSFinance tiếp tục không có phản hồi.

Ngày 26/12/2022, đại diện Công ty Luật yêu cầu được làm việc với lãnh đạo Công ty Đầu tư KSFinance nhưng họ từ chối không gặp, cố tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Nhiều lần sau đó, phía đại diện uỷ quyền của bà Phương liên tục yêu cầu gặp và đề nghị thực hiện thủ tục theo đúng quy định hợp đồng nhưng phía Công ty Đầu tư KSFinance đều trốn tránh không thực hiện. Chỉ sau khi Công ty Luật phát hành công văn và bà Phương có email gửi đến Công ty Đầu tư KSFinance yêu cầu nêu rõ căn cứ điều khoản Luật nào để Công ty Đầu tư KSFinance từ chối làm việc với đại diện theo ủy quyền của bà Phương, phía Công ty Đầu tư KSFinance mới đồng ý gặp đại diện của Công ty Luật.

Tại buổi làm việc ngày 06/01/2023, các đại diện phía Công ty Đầu tư KSFinance đã ra 02 ý kiến không đồng nhất thể hiện rõ thái độ trốn tránh nghĩa vụ thanh toán tiền cho bà Phương, cụ thể chị Phan Thị Huyền Trang Giám đốc khu vực thông báo dừng tất toán trước hạn; còn anh Nguyễn Văn Kiên – Ban xử lý khiếu nại trả lời lỗi phần mềm nên tạm thời app đóng lại mục rút trước hạn.

Với lý do anh Kiên đưa ra bà Phương không chấp nhận vì bà Phương đã và đang yêu cầu tất toán hợp đồng trước thời hạn bằng thủ tục trực tiếp làm việc với Công ty đầu tư KSFinance, không qua app. Với lý do chị Trang đưa ra, đây là lý do trái luật, trái hợp đồng, Điều 3.2 Điều 3 Phần B Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ngày 16/9/2022, bà Phương được quyền yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu tư KSFinance hoàn lại giá trị khoản đầu tư, hợp đồng được ký kết giữa 02 bên, do đó, không có bất kỳ căn cứ nào để phía Công ty Đầu tư KSFinance tự ý thay đổi điều khoản hợp đồng như chị Trang nêu. Do vậy, đã đầy đủ chứng cứ chứng minh Công ty Đầu tư KSFinance vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền cho bà Phương nên bà Phương đã gửi văn bản yêu cầu Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh Hợp đồng nhưng phía Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine không phản hồi, không chịu thực hiện bảo lãnh theo đúng quy định của pháp luật và các cam kết đã nêu tại Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022.

Bà Phương xác nhận không ký kết phụ lục 02 của hợp đồng ITLH00214652 với Công ty KS Finance.

Bà Phương yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Buộc Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022 mà Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine đã phát hành tới bà Phương, cụ thể: Hoàn trả tổng tiền gốc và lợi nhuận cụ thể: 1.100.290.575 đồng. Trong đó:

Tiền gốc là: 1.000.000.000 đồng
Tiền lợi nhuận là: 100.296.575 đồng. Gồm những đợt sau: Đợt 1: vào ngày 12/12/2022: 24.869.178 đồng
Đợt 2: vào ngày 16/3/2023: 24.595.890 đồng
Đợt 3: vào ngày 16/6/2023: 25.142.465 đồng
Đợt 4: vào ngày 18/9/2023: 25.689.042 đồng

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:

Qua quá trình rà soát và đối chiếu với các hồ sơ, tài liệu lưu trữ tại Công ty, Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine (sau đây gọi tắt là “Công Ty Sunshine”) đã phát hành Thư bảo lãnh đề ngày 16/9/2022 cho hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ký ngày 16/9/2022 giữa bà Nguyễn Thanh Phương và Công ty CP Đầu tư KSFINANCE (Sau đây gọi tắt là “Công ty KSFinance”) và phát hành Thư bảo lãnh đề ngày 16/09/2022 (sau đây gọi tắt là “Thư Bảo Lãnh”).

Việc phát hành Thư Bảo Lãnh sẽ tùy thuộc vào thỏa thuận giữa Công Ty Sunshine và Công ty KSFinance tại từng thời điểm. Công Ty Sunshine không can thiệp, không chịu trách nhiệm đối với các nội dung thỏa thuận tại các hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Công ty KSFinance và Nguyên đơn. Việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được thực hiện và tuân thủ trên cơ sở quy định pháp luật dân sự và các quy định pháp luật khác có liên quan và theo các điều khoản, nội dung của Thư Bảo Lãnh đã được Công Ty Sunshine phát hành.

Căn cứ nội dung Thư Bảo Lãnh đã phát hành, điều kiện để Công Ty Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với Nguyên đơn khi và chỉ khi Nguyên đơn đáp ứng các điều kiện, bao gồm:

(i) Có thông báo bằng văn bản được ký hợp lệ bởi Bên Nhận Bảo Lãnh; (ii) Cung cấp bản gốc Thư Bảo Lãnh (Bản gốc) và Hợp Đồng Hợp Tác

(bản sao) đã ký;
(iii)Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và hồ sơ được gửi hợp lệ và ký

nhận bởi Tập Đoàn Sunshine trước hoặc vào ngày hết hạn Thư Bảo Lãnh. Mặt khác, căn cứ Điều 342 Bộ luật dân sự quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh: “Điều 342. Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh
1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại”

Theo đó, Nguyên đơn có trách nhiệm thực hiện các quyền yêu cầu thanh toán với bên có nghĩa vụ là Công ty KSFinance để đảm bảo trước tiên về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Về Phục lục số 02 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652, Công ty Sunshine không có ý kiến gì vì việc ký kết hợp đồng và phụ lục cùng các loại thủ tục khác là do hai bên bà Phương có Công ty KS Finance thực hiện. Công ty Sunshine chỉ là bên bảo lãnh.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, KSFINANCE với bà Nguyễn Thanh Phương có thỏa thuận ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 với các nội dung cơ bản như sau:

– Mục đích: Bà Nguyễn Thanh Phương đồng ý góp vốn với KSFINANCE và KSFINANCE đồng ý nhận quản lý phần vốn góp của bà Nguyễn Thanh Phương để thực hiện hoạt động kinh doanh và các mục đích đầu tư kinh doanh khác nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận.

– Giá trị khoản đầu tư: 1.000.000.000 VNĐ (Một tỷ đồng)
– Thời hạn đầu tư là: 01 năm từ ngày 16/9/2022 đến ngày 18/9/2023.
– Phân chia kết quả kinh doanh: Bà Nguyễn Thanh Phương được phân chia lợi nhuận cố định trên khoản đầu tư là 10.5%/năm.
Thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh nêu trên, KSFINANCE đã nhận khoản tiền đầu tư của bà Nguyễn Thanh Phương với số tiền là 1.000.000.000 VNĐ và thực hiện các hoạt động kinh doanh theo thỏa thuận tại hợp đồng đã ký.

Tuy nhiên, trong giai đoạn từ Quý IV năm 2022 đến nay, do sự suy thoái chung của nền kinh tế toàn cầu, thị trường bất động sản trong nước đóng băng, chính sách siết chặt tín dụng của các ngân hàng đã khiến cho các công ty bất động sản gặp rất nhiều khó khăn (không chỉ riêng KSFINANCE và các chủ đầu tư dự án bất động sản mà KSFINANCE có quan hệ hợp tác, đầu tư, trực tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn thu và dòng tiền của KSFINANCE.

Do đó, khi đến hạn hoàn lại giá trị khoản đầu tư và các lợi ích cố định theo hợp đồng đã ký kết, KSFINANCE chưa có khả năng thanh toán ngay cho bà Nguyễn Thanh Phương theo đúng thỏa thuận.

KSFINANCE cũng đã hết sức tạo điều kiện khi phát sinh vấn đề trên, KSFINANCE đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với bà Phương để nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm quyền lợi của khách hàng. Cụ thể, thời gian vừa qua, chúng tôi đã đề xuất khách hàng cảm thông và xem xét các phương án giảiquyết như sau:

(1) Gia hạn thời gian thực hiện Hợp đồng thêm 24 tháng để Công ty có thể thu xếp nguồn tiền hợp lý chi trả, đồng thời khách hàng sẽ được nhận thêm một khoản lợi nhuận bổ sung theo thỏa thuận của các bên.

(2) Chuyển đổi giá trị khoản tiền đầu tư sang thành khoản thanh toán các bất động sản khác đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và ký kết Hợp đồng mua bán với Chủ đầu tư, tại các Dự án: Sunshine Green Iconic, Sunshine Golden River, Sunshine Sky City, Sunshine Diamond River, Sunshine Capital Tây Thăng Long, Sunshine City, Sunshine Garden, Sunshine Palace,…

Tuy nhiên đến nay, nguyên đơn và KSFINANCE vẫn chưa đạt được sự đồng thuận. Công ty vẫn rất nỗ lực và thiện chí mong muốn thương lượng, hòa giải để tìm được tiếng nói chung với nguyên đơn trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên.

Quan điểm của công ty là thời hiệu Hợp đồng là một năm từ 16/9/2022 đến 18/9/2023. Chưa hết một năm nhưng đến khoảng tháng 3/2023 nguyên đơn đã khởi kiện là vi phạm Hợp đồng và Phụ lục số 02 của Hợp đồng. Ngày 05/01/2024, Công ty đã cung cấp cho Tòa án Phụ lục số 02, việc nguyên đơn cho rằng không biết có Phụ lục số 02 là không chính xác, vì Hợp đồng ký với khách hàng và thỏa thuận trên email, mỗi khách hàng có một tài khoản riêng để trao đổi với KS Finance. Công ty khẳng định trong bộ hồ sơ với bà Phương có Phụ lục số 02.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh Phương đối với Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine. Về việc yêu cầu thực hiện bảo lãnh theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ngày 19/6/2022.

Buộc Công ty CP Tập đoàn Sunshine phải thanh toán cho Bà Nguyễn Thanh Phương như sau:

Tiền nợ gốc là: 1.000.000.000 đồng; tiền lợi nhuận là: 100.296.575 đồng.

Tổng số tiền Công ty Sunshine phải thanh toán cho bà Nguyễn Thanh Phương là: 1.100.296.575 đồng.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn Công ty cổ phần tập đoàn SUNSHINE kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị đơn Công ty cổ phần tập đoàn SUNSHINE trình bày: Nguyên đơn không xuất trình được bản gốc Thư bảo lãnh. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thì Thư bảo lãnh đã hết thời hạn yêu cầu. Đề nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm.

Ngày 06/5/2024 công ty đã có thay đổi tên thành Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine đề nghị HĐXX ghi nhận.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn nhiều lần gửi đơn và đến gặp trực tiếp bị đơn và Công ty KSFinance yêu cầu thanh toán theo thỏa thuận của hợp đồng và thư bảo lãnh nhưng bị đơn và Công ty KSFinance không thanh toán. Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bà Phương là trong thời hạn của thư bảo lãnh nên đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần Đầu tư KSFinance đề nghị HĐXX xem xét giải quyết theo quy định.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần tập đoàn SUNSHINE nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

Về nội dung:

Bà Nguyễn Thanh Phương và Công ty cổ phần Đầu tư KSFinance cùng ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ngày 16/9/2022 và phụ lục 01 về bảng minh họa thu nhập từ Hợp tác kinh doanh và kết quả đầu tư. Nội dung hợp đồng: Giá trị khoản đầu tư: 1.000.000.000 đồng do bà Nguyễn Thanh Phương đầu vào Công ty Cổ phần Đầu tư KS Finance (Phần A Hợp đồng); Thời gian hợp tác: 01 năm kể từ ngày 16/9/2022 đến ngày 18/9/2023 (Phần A – Bà Nguyễn Thanh Phương góp vốn và Công ty Cổ phần Đầu tư KS Finance quản lý phần vốn góp của bà Phương để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án SunShine Capital Tây Thăng Long và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái quy định pháp luật nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thoả thuận tại Hợp đồng

Xét nội dung Hợp đồng hợp tác kinh doanh và phụ lục số 01 đều dựa trên cơ sở tự nguyện của hai bên và phù hợp với quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại các Điều 116, Điều 117 của Bộ luật dân sự, nên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên đương sự.

Đối với Phụ lục số 02 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các đương sự không có ý kiến gì về Phụ lục 02, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

*Về việc yêu cầu thực hiện bảo lãnh:

Đối chiếu nội dung của Hợp đồng hợp tác kinh doanh và Phụ lục 01 nêu trên, cũng như quá trình thực hiện Hợp đồng, thấy: Công ty Ks Finance đã vi phạm thỏa thuận trong Hợp đồng và Phụ lục 01 đã ký giữa hai bên, do không yêu cầu trả được khoản tiền nên bà Phương khởi kiện, yêu cầu Công ty Sunshine thực hiện bảo lãnh theo đó Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ của Công ty Đầu tư KSFinance theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ký giữa Công ty Đầu tư KSFinance và bà Phương. Phạm vi bảo lãnh là các nghĩa vụ thanh toán bao gồm cả nghĩa vụ hoàn trả khoản đầu tư, chi trả lợi nhuận, bồi hoàn và bồi thường thiệt hại phát sinh từ Hợp đồng Bảo lãnh có hiệu lực kể từ ngày 16/9/2022 đến hết ngày 07/11/2023. Điều này được quy định trong Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022 của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine.

Xét thấy Thư bảo lãnh phù hợp với quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội, hai bên cũng đã xác nhận có Thư bảo lãnh đối với HĐHTKD số ITLH00214652. Trong Thư bảo lãnh có quy định như sau: “Các nghĩa vụ thanh toán của Bên được Bảo Lãnh (kể cả nghĩa vụ hoàn trả khoản đầu tư, chi trả lợi nhuận, bồi hoàn và bồi thường thiệt hại) cho Bên nhận bảo lãnh phát sinh từ hợp đồng hợp tác; Việc bảo lãnh có hiệu lực kể từ ngày phát hành (ngày 16/9/2022) đến hết ngày 07/11/2023.

Do vậy, yêu cầu thực hiện bảo lãnh của nguyên đơn đối với bị đơn vẫn trong thời hạn Thư bảo lãnh. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu thực hiện bảo lãnh của bà Nguyễn Thanh Phương đối với Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine là có căn cứ.

Đối với số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện bảo lãnh: Bà Phương yêu cầu Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022 mà Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine đã phát hành tới bà Phương, cụ thể: Hoàn trả tổng tiền gốc và lợi nhuận cụ thể: 1.100.296.575 đồng. Trong đó:

Tiền gốc là: 1.000.000.000 đồng
Tiền lợi nhuận là: 100.296.575 đồng. Gồm 04 đợt như sau:
Đợt 1: vào ngày 12/12/2022: 24.869.178 đồng
Đợt 2: vào ngày 16/3/2023: 24.595.890 đồng
Đợt 3: vào ngày 16/6/2023: 25.142.465 đồng
Đợt 4: vào ngày 18/9/2023: 25.689.042 đồng
– Về yêu cầu thanh toán số tiền gốc 1.000.000.000 đồng, do Công ty KS

Finance đã vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng và phụ lục 01 đối với bà Nguyễn Thanh Phương nên buộc phải thanh toán số tiền gốc 1.000.000.000 đồng cho bà Phương. Do bà Phương yêu cầu việc thực hiện bảo lãnh, nên theo như nội dung thư bảo lãnh, Công ty Sunshine phải thực hiện trả số tiền nợ gốc 1.000.000.000 đồng cho bà Phương.

– Về yêu cầu thanh toán số tiền lợi nhuận 100.296.575 đồng

Theo quy định tại Điều 3 Phần A – Phần thông tin “Phân chia kết quả kinh doanh: Lợi nhuận cố định áp dụng và tính trên Khoản đầu tư là 10.5%/năm”. Việc quy định về phần trăm lợi nhuận là thỏa thuận tự nguyện của các bên và được quy định trong hợp đồng. page9image1759711760page9image1759712048 page9image1759712336 page9image1759712624 page9image1759712912 page9image1759713200 page9image1759713488

Trong thư bảo lãnh quy định về phạm vi bảo lãnh, Công ty Sunshine phải chi trả số tiền lợi nhuận cho bên nhận bảo lãnh. Do vậy, Công ty Sunshine phải thanh toán số tiền lợi nhuận là 100.296.575 đồng.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của HĐXX.

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Sunshine.

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, bị đơn Công ty Sunshine phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn Công ty Sunshine phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm được nhận lại tạm

ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ

nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

– –

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ:
Điều 116, 117, 280, 335, 357, 513, 466, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí.

Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh Phương đối với

Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine. Về việc yêu cầu thực hiện bảo lãnh theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ngày 19/6/2022.

Buộc Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine phải thanh toán cho bà Nguyễn Thanh Phương như sau: Tiền nợ gốc là: 1.000.000.000 đồng; tiền lợi nhuận là: 100.296.575 đồng.

Tổng số tiền Công ty Sunshine phải thanh toán cho bà Nguyễn Thanh Phương là: 1.100.296.575 đồng.

Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm:
Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine nay là Công ty cổ phần phát triển

tập đoàn Sunshine phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm đối trừ vào số tiền dự phí kháng cáo đã nộp tại Biên lai thu số 0009551 ngày 10/4/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine phải chịu 45.008.717 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thanh Phương không phải chịu án phí. Hoàn trả cho bà Phương số tiền 21.373.038 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0009024 ngày 23/10/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

– VKSND Thành phố Hà Nội;
– TAND quận Nam Từ Liêm
– Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm;
– Các đương sự;
– Lưu văn phòng;
– Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Trần Thị Liên Anh

Bản án Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư và hợp đồng đặt mua bất động sản giữa NĐT và KS Home Plus (TĐ Sunshine)

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bản án số: 695/2024/DS-PT Ngày: 29/11/2024
V/v Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư và hợp đồng đặt mua bất động sản

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

page1image624078064 page1image624078352

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

– Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Đinh Như Lâm

Các Thẩm phán: Ông Vũ Viết Văn
Ông Lê Thanh Bình

– Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thùy Trang, Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội

– Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội: Bà Nguyễn Như Quỳnh – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Ngày 29 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 282/2024/TLPT-DS ngày 10/10/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư”

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2024/DSST ngày 15/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 445/2024/QĐ-PT ngày 14/10/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 607/QĐPT- HPT ngày 20/11/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà Lương Thị Bạch Y; sinh năm: 1962; vắng mặt tại phiên tòa.

Địa chỉ: Số 20 ngách 54 ngõ 86 phố Chùa Hà, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Yến là ông Nguyễn Đức Hào; sinh năm: 1963 (Chồng bà Yến); địa chỉ: Số 20 ngách 54 ngõ 86 phố Chùa Hà, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội; ông Hào có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn:
2.1. Công ty cổ phần K(KSP).
Địa chỉ: Tầng 7, Toà nhà Sunshine Center, số 16 Phạm Hùng, phường

Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn Hữu – Tổng giám đốc. Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Đặng Thành Vinh, bà Nguyễn Thị

Thanh Huyền, ông Vũ Nghị Lực, bà Cao Thị Ngọc Mai, bà Nguyễn Kiều Oanh. Theo giấy ủy quyền số 17 ngày 29/3/2024; bà Nguyễn Thị Thanh Huyền có mặt những người khác vắng mặt.

2.2. Công ty cổ phần Đầu tư KS .

Địa chỉ: Tầng 7, Toà nhà Sunshine Center, số 16 Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lương Thành Long – Tổng giám đốc.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Đặng Thành Vinh, bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, ông Vũ Nghị Lực, bà Cao Thị Ngọc Mai, bà Nguyễn Kiều Oanh. Theo giấy ủy quyền số 21 ngày 29/3/2024; bà Nguyễn Thị Thanh Huyền có mặt những người khác vắng mặt.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần phát triển Tập đoàn Sunshine

Địa chỉ: Tầng 9, Toà nhà Sunshine Center, số 16 Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Văn Trường – Tổng giám đốc.

Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Trà My, bà Lưu Ngọc Ánh, ông Phạm Đình Lập, bà Ngô Quỳnh Anh; ông Phạm Đình Lập có mặt những người khác vắng mặt.

4. Người kháng cáo, kháng nghị: Do có kháng cáo của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn trình bày:

Do tin tưởng Tập đoàn Sunshine và Công ty cổ phần KSF lập trang KSFinance trên trang mang để ký hợp đồng điện tử huy động vốn và bán sản phẩm bất động sản nên bà Yến có đầu tư một số tiền vào Công ty, theo đó bà Yến và KSF, KSP ký 4 hợp đồng:

1 – Theo HĐ hợp tác kinh doanh số: ITLH00041902 ngày 23/02/2023 kỳ hạn 12 tháng, giá trị 300 triệu đồng thì thời hạn Công ty KSF, Công ty Sunshine phải thanh toán gốc và lãi vào ngày 23/02/2023, đã ký phụ lục gia hạn 12 tháng đến ngày 23/02/2024.

Lãi suất theo hợp đồng: 11%/năm = 33 triệu đồng
Lãi theo phụ lục HĐ đến 23/2/2024 là 13%/năm=39 triệu đồng Lãi tính từ ngày 23/02/2024 đến 19/4/2024 là: 1 tháng 26 ngày lãi

suất 13%/năm = 5.983.500đ. Tổng cộng lãi: 77.983.500đ.
2 – Theo HĐ hợp tác kinh doanh số : IHRH00178211 ngày 11/8/2022

kỳ hạn 12 tháng ̧ giá trị 1 tỷ đồng, thời hạn Công ty KSF, Công ty Sunshine phải thanh toán gốc và lãi vào ngày 23/02/2023, đã ký phụ lục gia hạn 12 tháng đến ngày 11/8/2022.

Lãi tính từ 11/8/2022 đến 19/4/2024 là 20 tháng 8 ngày Lãi suất theo HĐ: 10.5%/năm
(1 tỷ x 10.5%) : 12 tháng x 20 tháng = 175.000.000đ (1 tỷ x 10.5%) : 365 ngày x 8 ngày = 2.301.300đ

Tổng cộng lãi: 177.301.300 đồng

3 – Theo HĐ dịch vụ đặt mua BĐS: CTTL00045257 ngày 10/10/2022 kỳ hạn 12 tháng giá trị 01 tỷ đồng thì thời hạn Công ty KSHome Plus, Công ty Sunshine phải thanh toán gốc và lãi ngày 10/10/2023.

Lãi tính đến 10/10/2022 đến 19/4/2024 là 18 tháng 9 ngày Lãi theo HĐ: 10.3%/năm
(1 tỷ đồng x10.3%) : 12 tháng x 18 tháng = 154.500.000đ (1 tỷ đồng x 10.3%) : 365 ngày x 9 ngày = 2.539.700đ Tổng cộng lãi: 157.039.700đ

4 – Theo HĐ đặt chỗ mua BĐS số: CFSH00016087 ngày 22/8/2022 hạn 12 tháng giá trị 01 tỷ đồng thì thời hạn Công ty KSHome Plus, Công ty Sunshine phải thanh toán gốc và lãi ngày 22.8.2023.

Lãi tính từ ngày 22/8/2022 đến 19/4/2024 là 19 tháng 27 ngày. Lãi suất theo HĐ: 10%/năm

(1 tỷ đồng x10%) : 12 tháng x 19 tháng = 158.333.300đ
(1 tỷ đồng x 10%) : 365 ngày x 27 ngày = 7.397.200đ
Tổng số lãi của 4 HĐ nêu trên tạm tính đến ngày 19/4/2024 là:

77.983.500 đồng + 177.301.300 đồng + 157.039.700 đồng + 165.730.500 đồng = 577.695.000 đồng.

Phần lãi chậm trả tính đến ngày 19/4/2024:

1. HĐ số ITLH00041902 ngày 23/02/2023 lãi tính đến 23/02/2024 của HĐ và phụ lục HĐ là 72.000.000đ. lãi chậm trả: 72.000.000đ x 12 %/ năm x 56 ngày = 1.325.600đ (lãi 12%/năm là lãi suất trung bình giữa HĐ và phụ lục HĐ).

2. HĐ số IHRH00178211 ngày 11/8/2022 lãi tính đến 11/8/2023 là 12 tháng: 1 tỷ x 10.5%/năm = 105.000.000đ. Lãi chậm trả: 105.000.000đ x 11%/ năm x 248 ngày = 7.847.700đ.

3. HĐ số CTTL00045257 ngày 10/10/2022 lãi tính đến 10/10/2023 là 12 tháng: 1 tỷ x 10.3%/năm = 103.000.000đ. Lãi chậm trả: 103.000.000đ x 10.3%/năm x 189 ngày = 5.493.400đ.

4. HĐ số CFSH00016087 ngày 22/8/2022 lãi tính đến 22/8/2023 là 12 tháng: 1 tỷ x 10%/năm = 100.000.000đ. Lãi chậm trả: 100.000.000đx11%/năm x 237 ngày = 7.142.500đ.

Tổng số tiền lãi chậm trả là:
1.325.600đ + 7.847.700đ + 5.493.400đ + 7.142.500đ = 21.809.200đ Tổng cộng công ty Sunshine phải thanh toán cả gốc + lãi và lãi chậm trả

+ thưởng cuối kỳ (2.100.000đ): 3.899.774.200đ = 3.901.874.200đ.
Do các Công ty KSF, KSHome Plus, Tập đoàn Sunshine đã vi phạm

cam kết giữa 2 bên nên bà Yến đề nghị Toà án giải quyết:
– Trả lại cho bà toàn bộ tiền gốc của 4 HĐ trên với tổng số tiền là 3.3 tỷ

đồng.
– Trả lại cho bà toàn bộ số tiền lãi của 4 HĐ trên theo lãi suất ghi tại HĐ

tính đến thời điểm thanh toán.
– Tiền lãi chậm thanh toán của 4 HĐ.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn – CTCP KSHome Plus trình bày:

Vào năm 2022, KSHPlus và bà Lương Thị Bạch Y có thỏa thuận ký kết các Hợp đồng hợp dịch vụ đặt mua bất động sản với các nội dung cơ bản như sau:

– Mục đích: Bà Lương Thị Bạch Y chấp thuận sử dụng dịch vụ tư vấn, môi giới và thu xếp không độc quyền mà KSHPlus cung cấp nhằm mục đích để bà Lương Thị Bạch Y có thể đặt mua/thuê bất động sản của dự án theo quy định của pháp luật và thỏa thuận của các bên tại hợp đồng.

– Để bảo đảm cho việc (i) thực hiện các cam kết, nghĩa vụ của mình tại hợp đồng và (ii) chứng minh năng lực tài chính của bà Lương Thị Bạch Y khi Chủ đầu tư/Bên chuyển nhượng thông báo ký hợp đồng giao dịch bất động sản, bà Lương Thị Bạch Y đồng ý đặt cọc cho KSHPlus một khoản tiền, gọi là “Khoản Tiền Bảo Đảm Đặt Mua”.

– Trường hợp kết thúc thời hạn bảo đảm đặt mua mà bà Lương Thị Bạch Y không nhận được thông báo về việc ký kết hợp đồng giao dịch bất động sản với Chủ đầu tư/Bên chuyển nhượng; hoặc đã nhận được thông báo nhưng không đồng ý giao kết hợp đồng giao dịch bất động sản với Chủ đầu tư/ Bên chuyển nhượng, hợp đồng dịch vụ đặt mua bất động sản sẽ chấm dứt kể từ thời điểm kết thúc thời hạn. Khoản Tiền Bảo Đảm Đặt Mua cùng toàn bộ lợi ích còn lại mà bà Lương Thị Bạch Y được hưởng sau khi trừ các khoản khấu trừ (nếu có) theo hợp đồng dịch vụ đặt mua bất động sản sẽ được KSHPlus hoàn lại cho bà Lương Thị Bạch Y vào ngày hợp đồng dịch vụ đặt mua bất động sản chấm dứt. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ Quý IV năm 2022 đến nay, do sự suy thoái chung của nền kinh tế toàn cầu, thị trường bất động sản trong nước đóng băng, chính sách siết chặt tín dụng của các Ngân hàng … đã khiến cho các công ty bất động sản gặp rất nhiều khó khăn (không chỉ riêng KSHome PLus và các Chủ đầu tư dự án bất động sản mà KSHome Plus có quan hệ hợp tác, đầu tư), trực tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn thu và dòng tiền của KSHome Plus.

Do đó, khi đến hạn hoàn trả giá trị Khoản đầu tư và Lợi nhuận cố định theo các Hợp đồng hợp tác đầu tư, KSHome Plus chưa có khả năng thanh toán ngay cho bà Yến theo đúng thỏa thuận.

Khi phát sinh vấn đề trên, KSHome Plus đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với bà Yến để tháo gỡ khó khăn. Đồng thời, KSHome Plus cũng đã hết sức nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm quyền lợi của khách hàng. Cụ thể, trong thời gian vừa qua, chúng tôi đã đề xuất khách hàng cảm thông và xem xét các phương án giải quyết như sau:

1. Gia hạn thời gian thực hiện Hợp đồng thêm 24 tháng để Công ty có thể thu xếp nguồn tiền hợp lý chi trả, đồng thời Khách hàng sẽ được nhận thêm một khoản lợi nhuận bổ sung theo thỏa thuận của các bên.

2, Chuyển đổi giá trị khoản tiền đầu tư sang thành khoản thanh toán các bất động sản khác đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và ký kết Hợp đồng mua bán với Chủ đầu tư, tại các Dự án: Sunshine Green Iconic, Sunshine Golden River, Sunshine Sky City, Sunshine Diamond River, Sunshine Capital Tây Thăng Long, Sunshine City, Sunshine Garden, Sunshine Palace,…

Tuy nhiên đến nay, Nguyên đơn và KSHome Plus vẫn chưa đạt được sự đồng thuận. Chúng tôi vẫn rất nỗ lực và thiện chí mong muốn thương lượng, hòa giải để tìm được tiếng nói chung với Nguyên đơn trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên.

Nội dung đề nghị: KSHPlus kính mong Quý Tòa xem xét, tiếp tục tạo điều kiện cho các bên được thương lượng, trao đổi về các phương án giải quyết vụ việc trên tinh thần thiện chí; chia sẻ và hỗ trợ cho KSHPlus có thêm thời gian thu hồi các khoản đầu tư và các nguồn thu khác, để sớm có khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với bà Lương Thị Bạch Y.

Đại diện theo ủy quyền của Bị đơn – KSF trình bày:

Năm 2022, KSF và bà Lương Thị Bạch Y có thỏa thuận ký kết các Hợp đồng hợp tác kinh doanh với các nội dung cơ bản như sau:

– Mục đích hợp tác kinh doanh: bà Lương Thị Bạch Y đồng ý góp vốn và KSF đồng ý nhận và quản lý phần vốn góp của bà Lương Thị Bạch Y để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại các dự án và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái với các quy định của pháp luật, nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận và kết quả đạt được theo thỏa thuận tại các Hợp đồng hợp tác kinh doanh này. Cụ thể, tại các Hợp đồng hợp tác kinh doanh đã ký, bà Lương Thị Bạch Y được hưởng lợi nhuận cố định tính trên giá trị Khoản đầu tư. page5image663561312 page5image663561600page5image663561888 page5image663562176 page5image663562464 page5image663562752

Thực hiện các Hợp đồng hợp tác kinh doanh nêu trên, KSF đã nhận các Khoản đầu tư của bà Lương Thị Bạch Y và thực hiện các hoạt động kinh doanh theo thỏa thuận tại các Hợp đồng đã ký.

Tuy nhiên, trong giai đoạn từ Quý IV năm 2022 đến nay, do sự suy thoái chung của nền kinh tế toàn cầu, thị trường bất động sản trong nước đóng băng, chính sách siết chặt tín dụng của các Ngân hàng … đã khiến cho các công ty bất động sản gặp rất nhiều khó khăn (không chỉ riêng KSF và các Chủ đầu tư dự án bất động sản mà KSF có quan hệ hợp tác, đầu tư), trực tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn thu và dòng tiền của KSF.

Do đó, khi đến hạn hoàn trả giá trị Khoản đầu tư và thanh toán Lợi nhuận cố định theo các Hợp đồng đã ký, KSF chưa có khả năng thanh toán ngay cho bà Lương Thị Bạch Tuyết theo đúng thỏa thuận.

Khi phát sinh vấn đề trên, KSF đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với bà Lương Thị Bạch Y để tháo gỡ khó khăn. Đồng thời, KSF cũng đã hết sức nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm quyền lợi của khách hàng. Cụ thể, trong thời gian vừa qua, chúng tôi đã đề xuất khách hàng cảm thông và xem xét các phương án giải quyết như sau:

(1) Gia hạn thời gian thực hiện nghĩa vụ thanh toán/hoàn trả trong các Hợp đồng thêm 24 tháng để Công ty có thể thu xếp nguồn tiền hợp lý để chi trả, đồng thời Khách hàng sẽ được nhận thêm một khoản lợi nhuận bổ sung theo thỏa thuận của các bên.

(2) Chuyển đổi giá trị Khoản tiền đầu tư sang thành khoản thanh toán các bất động sản khác đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và ký kết Hợp đồng mua bán với Chủ đầu tư/ Văn bản nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán với Bên chuyển nhượng, tại các dự án: Sunshine Green Iconic, Sunshine Golden River, Sunshine Sky City, Sunshine Diamond River, Sunshine Capital Tây Thăng Long, Sunshine City, Sunshine Garden, Sunshine Palace,…

Tuy nhiên đến nay, Nguyên đơn và KSF vẫn chưa đạt được sự đồng thuận. Chúng tôi vẫn rất nỗ lực và thiện chí mong muốn thương lượng, hòa giải để tìm được tiếng nói chung với Nguyên đơn trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên.

2. Nội dung đề nghị:

KSF kính mong Quý Tòa xem xét, tiếp tục tạo điều kiện cho các bên được thương lượng, trao đổi về các phương án giải quyết vụ việc trên tinh thần thiện chí, chia sẻ và hỗ trợ cho KSF có thêm thời gian thu hồi các khoản đầu tư và các nguồn thu khác, để sớm có khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán, hoàn trả đối với bà Lương Thị Bạch Y.

Đại diện theo uỷ quyền của Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

Công ty CP phát triển Tập đoàn Sunshine xác nhận có ký và phát hành 01 thư bảo lãnh ngày 16/12/2022, các bản sao thư bảo lãnh có đóng dấu treo và gửi đến từng nhà đầu tư. Tập đoàn công nhận Thư bảo lãnh ngày 16/12/2022 đối với khách hàng cung cấp được Bản sao Thư bảo lãnh được đóng dấu treo của công ty. Căn cứ phạm vi bảo lãnh, Tập đoàn sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp Bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ đối với khách hàng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS – ST ngày 29+31/5/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lương Thị Bạch Y đối với Công ty cổ phần đầu tư KS Finance và Công ty cổ phần KSHome Plus.

Buộc Công ty cổ phần đầu tư KS Finance trả cho bà Lương Thị Bạch Y các khoản tiền phát sinh từ 02 hợp đồng hợp tác kinh doanh tạm tính đến ngày 29/5/2024 tổng cộng: 1.550.794.246 đồng, trong đó: Khoản đầu tư gốc: 1.300.000.000 đồng; Khoản lợi ích: 162.903.836 đồng; Tiền lãi chậm thanh toán: 87.890.410 đồng và tiếp tục phải trả tiền lãi chậm thanh toán cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ.

Buộc Công ty cổ phần Ktrả cho bà Lương Thị Bạch Y các khoản tiền phát sinh từ 02 hợp đồng đặt mua bất động sản tạm tính đến ngày 29/5/2024 tổng cộng: 2.353.547.945 đồng, trong đó: Khoản đầu tư gốc: 2.000.000.000 đồng; Khoản lợi ích: 213.000.000 đồng; Tiền lãi chậm thanh toán: 140.547.945 đồng và tiếp tục phải trả tiền lãi chậm thanh toán cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ.

Trường hợp Công ty cổ phần Đầu tư KS Finance và Công ty cổ phần Kkhông thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì buộc Công ty cổ phần Sunshine phải trả thay cho Công ty cổ phần Đầu tư KS Finance và Công ty cổ phần Ktheo Thư bảo lãnh ngày 16/12/2022 đã ký.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 29+31/5/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đương sự không rút đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, không xuất trình chứng cứ mới.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh Huyền trình bày ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính toán lại số tiền lợi ích trong hạn còn lại và tiền chậm thanh toán trong các hợp đồng 02 hợp đồng hợp tác kinh doanh và 02 hợp đồng đặt mua bất động sản.

Người đại diện ủy quyền của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine ông Phạm Đình Lập trình bày phía công ty vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 29+31/5/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam TừLiêm.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

– Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

– Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 29+31/5/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

[1]. Về tố tụng:

Bà Yến khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư và hợp đồng đặt mua bất động sản. Bị đơn là Công ty cổ phần Đầu tư KS Finance và Công ty cổ phần Khiện có đăng kí kinh doanh tại địa chỉ: Tầng 7 – toà nhà Sunshine Center, 16 Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; căn cứ các quy định tại Khoản 3 Điều 26; Điểm a, Khoản 1, Điều 35 và Điểm a, Khoản 1, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của bà Yến thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt căn cứ các quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[2]. Về hình thức: Đơn kháng cáo của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

[3]. Về nội dung: Xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine.

3.1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị Bạch Y đối với Công ty cổ phần đầu tư KS Finance và Công ty cổ phần Kphải trả lại số tiền mà bà Yến đã hợp tác kinh doanh và đặt mua bất động sản.

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời trình bày của đương sự thể hiện giữa bà Lương Thị Bạch Y và Công ty cổ phần đầu tư KS Finance và Công ty cổ phần Kcó ký kết 02 hợp đồng hợp tác kinh doanh và 02 hợp đồng đặt mua bất động sản với tổng số tiền đầu tư là 3.300.000.000 đồng cụ thể:

Thứ nhất: Hợp đồng hợp tác đầu tư số ITLH00041902 ngày 23/2/2022 số tiền đầu tư 300.000.000 đồng, thời hạn 12 tháng, mục tiêu đầu tư: Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long, địa chỉ tại Hà Nội. Hợp đồng này bà Yến ký với Công ty cổ phần đầu tư KS Finance.

Thứ hai: Hợp đồng hợp tác kinh doanh số IHRH00178211 ngày 11/8/2022 số tiền đầu tư 1.000.000.000 đồng, thời hạn 12 tháng, mục tiêu đầu tư: Dự án Sunshine Heritage Hà Nội địa chỉ tại Hà Nội. Hợp đồng này bà Yến ký với Công ty cổ phần đầu tư KS Finance.

Thứ ba: Hợp đồng đặt mua bất động sản số CTTL00045257 ngày 10/10/2022 số tiền đầu tư 1.000.000.000 đồng, thời hạn 12 tháng về việc mua căn hộ/lô đất có ký hiệu: LK-02-19 thuộc dự án: Sunshine Capital Tây Thăng Long, địa chỉ: Ô đất ký hiệu TT6-2 thuộc khu chức năng đô thị Tây Tựu, phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Hợp đồng này bà Yến ký với Công ty cổ phần KSHome Plus

Thứ tư: Hợp đồng đặt chỗ giao dịch bất động sản số CFSH00016087 ngày 22/8/2022 số tiền đầu tư 1.000.000.000 đồng, thời hạn 12 tháng về việc mua căn hộ/lô đất có ký hiệu: T4-18.VP-08A thuộc dự án: Sunshine Finance Hà Nội, địa chỉ: Khu đô thị Ciputra – Nam Thăng Long, Tây Hồ, Hà Nội. Hợp đồng này bà Yến ký với Công ty cổ phần KSHome Plus.

Hội đồng xét xử xét thấy:

Về hình thức: Bốn văn bản nêu trên được ký kết bởi người có thẩm quyền ký kết, các bên đương sự có đầy đủ năng lực về hành vi và tư cách pháp nhân khi tham gia ký kết.

Về nội dung: Các thỏa thuận của đương sự đúng quy định của pháp luật. Các bên đương sự kí kết 02 hợp đồng hợp tác kinh doanh và 02 hợp đồng đặt mua bất động sản trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với quy định tại các Điều 116, 117 của Bộ luật Dân sự 2015 nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên đương sự.

Quá trình thực hiện hợp đồng:

Sau khi ký kết hợp đồng phía bà Yến đã chuyển đủ số tiền 3.300.000.000 đồng cho Công ty cổ phần đầu tư KSFinance và Công ty cổ phần KSHome Plus. Đến hết thời hạn đầu tư theo các quy định trong 04 hợp đồng cũng như đã gia hạn cho đến trước khi bà Yến khởi kiện ra Tòa án cấp sơ thẩm phía bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFinance và Công ty cổ phần Kchưa thanh toán cho bà Yến bất kỳ một khoản tiền nào.

Đối với số tiền mà Công ty cổ phần đầu tư KSFinance và Công ty cổ phần Kphải trả cho bà Yến, Tòa án cấp sơ thẩm có nhận định:

“…Về phần lợi ích theo HĐ: Việc thoả thuận ký kết về phần lợi ích giữa 2 bên là tự nguyện, không trái quy định pháp luật nên được chấp nhận. Cụ thể:

Theo HĐ hợp tác kinh doanh số ITLH00041902 ngày 23/2/2022 và Phụ lục thì lợi nhuận được hưởng là 11%/năm tương đương với số tiền lợi ích: 16.803.836đ. Lợi ích theo phụ lục HĐ đến 23/02/2024 là 13%: 39.000.000đ; Thưởng cuối kỳ: 2.100.000đ.

Theo HĐ hợp tác kinh doanh số IHRH00178211 ngày 11/8/2022 lợi nhuận được hưởng là 10.5%/năm tương đương với số tiền lợi ích: 105.000.00đ.

Theo HĐ đặt mua bất động sản số CTTL00045257 ngày 10/10/2022 và Phụ lục thì lợi nhuận được hưởng là 10.3%/năm tương đương với số tiền lợi ích: 103.000.000đ.

Theo HĐ đặt chỗ giao dịch bất động sản số CFSH00016087 ngày 22/8/2022 và Phụ lục thì lợi nhuận được hưởng là 10%/năm và lợi ích nhận thêm 1% tương đương với số tiền lợi ích: 110.000.000 đồng.

Xét khoản yêu cầu về lãi chậm thanh toán: Nguyên đơn yêu cầu mức lãi chậm thanh toán là có căn cứ. HĐXX áp dụng theo Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự, tính mức lãi suất chậm thanh toán là 10%/năm. Như vậy:

Đối với HĐ hợp tác kinh doanh số ITLH00041902 ngày 23/2/2022 tiền lãi phát sinh kể từ ngày 24/02/2022 tính trên khoản đầu tư gốc chưa trả với mức lãi suất 10%/năm tính đến ngày xét xử là 29/5/2024 là: 300.000.000 đồng x 10% x 96 ngày chậm thanh toán/365 = 7.890.410 đồng.

Đối với HĐ hợp tác kinh doanh số IHRH00178211 ngày 11/8/2022 tiền lãi phát sinh kể từ ngày 12/8/2022 tính trên khoản đầu tư gốc chưa trả với mức lãi suất 10%/năm tính đến ngày xét xử là 29/5/2024 là: 1.000.000.000 đồng x 10% x 292ngày chậm thanh toán/365 = 80.000.000 đồng.

Đối với HĐ đặt mua bất động sản số CTTL00045257 ngày 10/10/2022 tiền lãi phát sinh kể từ ngày 11/10/2022 tính trên khoản đầu tư gốc chưa trả với mức lãi suất 10%/năm tính đến ngày xét xử là 29/5/2024 là: 1.000.000.000 đồng x 10% x 232 ngày chậm thanh toán/365 = 63.561.644đồng.

Đối với HĐ đặt chỗ giao dịch bất động sản số CFSH00016087 ngày 22/8/2022 tiền lãi phát sinh kể từ ngày 11/10/2022 tính trên khoản đầu tư gốc chưa trả với mức lãi suất 10%/năm tính đến ngày xét xử là 29/5/2024 là: 1.000.000.000 đồng x 10% x 281 ngày chậm thanh toán/365 = 76.986.301 đồng…”.

Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính lại số tiền lợi ích trong hạn còn lại và tiền chậm thanh toán trong các hợp đồng 02 hợp đồng hợp tác kinh doanh và 02 hợp đồng đặt mua bất động sản. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm phía bị đơn không kháng cáo nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét yêu cầu này của phía bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm tính tổng số tiền gốc, lợi ích phát sinh và lãi chậm thanh toán bị đơn phải thanh toán cho bà Yến (đối với cả 4 Hợp đồng) là: 3.904.342.191 đồng là có căn cứ.

3.2. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Yến buộc Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo thư bảo lãnh ngày 16/12/2022.

Ngày 16/12/2022, Công ty cổ phần phát triển Tập đoàn Sunshine đã phát hành 01 Thư bảo lãnh cho các hợp đồng được ký kết giữa bà Nguyễn Phạm Kim Ngân – Nguyên đơn và Công ty cổ phần đầu tư KSFinance bị đơn. Theo các nội dung trong Thư bảo lãnh thể hiện:

“1. Phạm vi bảo lãnh: Các nghĩa vụ thanh toán của bên được bảo lãnh (kể cả nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền bảo đảm đặt mua, chi trả lợi ích, bồi hoàn và bồi thường thiệt hại) cho bên nhân bảo lãnh phát sinh từ Hợp đồng.

2. Hiệu lực bảo lãnh: Thư bảo lãnh có hiệu lực kể từ ngày phát hành và hết hạn sau khi toàn bộ nghĩa vụ được bảo lãnh nêu tại Mục I đã được thực hiện hoặc giải trừ đầy đủ: Khi bên nhận bảo lãnh chuyển nhượng Hợp đồng theo đúng quy định thì Thư bảo lãnh này cũng được tự động chuyển nhượng theo và có hiệu lực ràng buộc với bên nhận chuyển nhượng của bên nhận bảo lãnh”.

Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm thể hiện Bà Yến đã giao nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm Thư bảo lãnh của Công ty cổ phần phát triển Tập đoàn Sunshine phát hành ngày 16/12/2022. Như đã phân tích ở trên, khi chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn buộc Công ty cổ phần phát triển Tập đoàn Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khoản tiền phát sinh từ 02 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.

Còn đối với các hợp đồng đặt mua bất động sản được ký kết giữa bà Nguyễn Phạm Kim Ngân – Nguyên đơn và Công ty cổ phần K- Bị đơn phía Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine không có thư bảo lãnh nên Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khoản tiền phát sinh từ 02 Hợp đồng đặt mua bất động sản được ký kết giữa bà Nguyễn Phạm Kim Ngân và Công ty cổ phần KSHome Plus; Hội đồng xét xử xem xét sửa án sơ thẩm ở nội dung này.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và sửa án sơ thẩm.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4]. Về án phí:

4.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án. Công ty cổ phần Đầu tư KS Finance và Công ty cổ phần Kphải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Lương Thị Bạch Y không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty cổ phần phát triển Tập đoàn Sunshine không phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

Bởi các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ:
– Khoản 2 Điều 308; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

– Điều 280, Điều 357; Điều 513; Điều 466 của Bộ luật Dân sự;

– Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 29+31/5/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội và quyết định cụ thể như sau:

1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lương Thị Bạch Y đối với Công ty cổ phần đầu tư KS Finance và Công ty cổ phần KSHome Plus.

1.2. Buộc Công ty cổ phần đầu tư KS Finance trả cho bà Lương Thị Bạch Y các khoản tiền phát sinh từ 02 hợp đồng hợp tác kinh doanh tính đến ngày 29/5/2024 tổng cộng: 1.550.794.246 đồng, trong đó: Khoản đầu tư gốc: 1.300.000.000 đồng; Khoản lợi ích: 162.903.836 đồng; Tiền lãi chậm thanh toán: 87.890.410 đồng.

1.3. Buộc Công ty cổ phần Ktrả cho bà Lương Thị Bạch Y các khoản tiền phát sinh từ 02 hợp đồng đặt mua bất động sản tính đến ngày 29/5/2024 tổng cộng: 2.353.547.945 đồng, trong đó: Khoản đầu tư gốc: 2.000.000.000 đồng; Khoản lợi ích: 213.000.000 đồng; Tiền lãi chậm thanh toán: 140.547.945 đồng.

1.4. Trường hợp Công ty cổ phần Đầu tư KS Finance không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì buộc Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine phải trả thay cho Công ty cổ phần Đầu tư KS Finance theo Thư bảo lãnh ngày 16/12/2022 đã ký.

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án dân sự của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi chậm trả đối với số tiền chưa thi hành xong theo mức lãi suất quy định tại khoản 2Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn bà Lương Thị Bạch Y không phải chịu án phí dân sự sơ

thẩm.
Công ty Cổ phần Đầu tư KS Finance phải chịu 58.523.827 đồng án phí

dân sự sơ thẩm. Công ty cổ phần Kphải chịu 79.070.959 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

2.2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0009934 ngày 08/8/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm (bút lục 167).

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

– VKSNDTP Hà Nội;
– TAND quận Nam Từ Liêm;
– Chi cục THADS quận Nam Từ Liêm; – Các đương sự;
– Lưu văn phòng;
– Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Đinh Như Lâm