Hải Phòng có thêm 3 dự án vốn đầu tư gần 10.000 tỷ đồng

TP Hải Phòng khẳng định sức hút khi ngay từ đầu năm đã thu hút thêm gần 10.000 tỷ đồng đầu tư 3 dự án mới.

Gần 10.000 tỷ đồng vốn đầu tư vào Hải Phòng 

Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị, UBND TP. Hải Phòng đã được trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 3 dự án mới với tổng vốn gần 10.000 tỷ đồng.

Trong đó, Dự án Đầu tư xây dựng Khu nhà ở xã hội tại Tổng kho 3 Lạc Viên, 142 Lê Lai do Công ty cổ phần Thái-Holding làm chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư gần 4.900 tỷ đồng.

Mục tiêu của Dự án là đầu tư xây dựng khu nhà ở xã hội để bán và cho thuê (bán tối đa 80%, cho thuê tối thiểu 20%), nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển về nhà ở xã hội của Thành phố và Nghị quyết số 04/NQ-HĐND ngày 12/4/2022 của HĐND Thành phố về Đề án xây dựng nhà ở xã hội kết hợp giải quyết nhà ở cho các hộ dân sinh sống tại các chung cư cũ trên địa bàn.

Dự án nghiên cứu, phát triển và sản xuất Cell Pin 1 do Công ty cổ phần Giải pháp năng lượng VinES làm chủ đầu tư, với tổng vốn đầu tư gần 3.300 tỷ đồng.

Dự án sản xuất pin và ắc quy tại nhà xưởng thuê trong Tổ hợp sản xuất ô tô VinFast, đảo Cát Hải, huyện Cát Hải, thuộc Khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải. Nhà xưởng diện tích khoảng 27.000m³; sản phẩm, dịch vụ cung cấp là Cell pin và các linh phụ kiện đi kèm với công suất thiết kế 2,2 GWh/năm.

Dự án khai thác tàu container do Zim Integrated shipping services Ltd., (Isarel) và Công ty cổ phần Xếp dỡ Hải An làm chủ đầu tư. Với tổng vốn đầu tư 1.383,3 tỷ đồng, Dự án hình thành với mục tiêu cung cấp các loại hình dịch vụ vận tải biển, dự kiến vận hành, khai thác từ quý IV/2023.

Theo Báo mới.

Chuyển nhượng bất động sản có thể sẽ phải thanh toán qua ngân hàng

Bộ Tài chính sẽ tham mưu, đề xuất với Chính phủ bổ sung quy định thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tại Điều 16 Luật kinh doanh Bất động sản.

Bộ Tài chính sẽ tham mưu, đề xuất với Chính phủ bổ sung quy định thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tại Điều 16 Luật kinh doanh Bất động sản.

Thông tin trên được Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc nêu tại báo cáo một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ ba, vừa đến tay các vị đại biểu Quốc hội.

Các biện pháp chống thất thu thuế, nhất là trong hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản là nội dung nhỏ nằm trong nhóm vấn đề Quốc hội quyết định chất vấn người đứng đầu ngành tài chính, bắt đầu từ sáng 8/6.

Đây cũng là vấn đề được một số vị đại biểu Quốc hội nêu tại phiên thảo luận về kinh tế, xa hội với phân tích, khi kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản, người dân chịu mức thuế cao hơn, theo giá thị trường, nhưng khi bị thu hồi đất, đền bù thì áp theo giá nhà nước dẫn đến những bất bình đẳng trong mối quan hệ này.

Bộ trưởng Hồ Đức Phớc, trong báo cáo mới nhất cho biết, thời gian qua, Bộ Tài chính đã triển khai nhiều giải pháp chống thất thu thuế trong hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản.

Cụ thể Bộ Tài chính có văn bản gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các cơ quan có liên quan rà soát, ban hành kịp thời quyết định điều chỉnh bổ sung bảng giá đất cụ thể đối với từng vị trí, đảm bảo phù hợp với giá giao dịch thực tế trên thị trường và giá bán của chủ đầu tư.

Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan thuế không được gây khó khăn, phiền hà cho người nộp thuế trong quá trình xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản. Đồng thời đã quán triệt cán bộ, công chức ngành thuế tham gia vào công tác xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản thực hiện nghiêm túc các quy định về trình tự, thủ tục xử lý hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính và quy trình làm việc trực tiếp với người nộp thuế theo quy định và có cơ chế giám sát cán bộ, công chức trong quá trình tuyên truyền, hướng dẫn việc kê khai giá chuyển nhượng bất động sản cho người nộp thuế. Bộ cũng chỉ đạo các Cục Thuế triển khai rà soát các hồ sơ chuyển nhượng bất động sản và yêu cầu giải quyết, xử lý kịp thời cho người dân và doanh nghiệp đúng theo quy định của pháp luật.

Kết quả đạt, số thu thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản năm 2021 đạt 21 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 4,9 nghìn tỷ đồng (tỷ lệ tăng 30%) so với năm 2020. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2022, kết quả thu từ thuế thu nhập cá nhân của hoạt động chuyển nhượng bất động sản dự kiến đạt được 16 nghìn tỷ đồng; tăng 68,6% so với 5 tháng đầu năm 2021, tương ứng tăng 6,6 nghìn tỷ đồng.

Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng chỉ ra hạn chế trong quá trình thực hiện, đó là hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật thuế về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế.

Công tác thu thuế đối với hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản còn gặp một số khó khăn, như các chính sách liên quan đến đất đai đã được quy định, các văn bản này được quy định bởi nhiều cơ quan, ban ngành quản lý nhà nước, các quy định này chưa đồng bộ nên việc xác định giá thị trường của bất động sản vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Khó nhất hiện nay là Luật Đất đai quy định bảng giá đất ổn định 5 năm, trong khi thực tế giá thị trường bất động sản lại biến động liên tục, vì vậy dẫn đến việc giá đất do UBND cấp tỉnh quy định không sát với giá của thị trường.

Công tác phối hợp với các cơ quan, ban, ngành liên quan cũng gặp không ít khó khăn, Bộ trưởng nhìn nhận.

Khó khăn tiếp theo là văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định cơ chế kiểm soát dòng tiền đối với các giao dịch chuyển nhượng bất động sản. Ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của người dân chưa cao. Nhận thức chưa đầy đủ về chính sách pháp luật thuế và pháp luật có liên quan, chưa nhận thức được hậu quả khi khai thuế với giá không đúng với giá thực tế chuyển nhượng.

Văn phòng đăng ký đất đai chuyển hồ sơ đến cơ quan thuế thường sát ngày hẹn trả kết quả hoặc chậm dẫn đến áp lực về thời gian trả kết quả xác định nghĩa vụ tài chính về đất, gây chậm trễ về thủ tục hành chính, theo Bộ trưởng cũng là một khó khăn.

Thời gian tới, Bộ trưởng cho biết sẽ sẽ tiếp tục tham mưu, đề xuất với Chính phủ hai giải pháp. Một là tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài chính để sửa đổi, bổ sung đảm bảo thống nhất, đồng bộ.

Giải pháp thứ hai là bổ sung quy định thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tại Điều 16 Luật kinh doanh bất động sản số 66/2014/QH13 ngày 25/11/2014.

Theo Báo mới.

Đang bị tạm giam, công chứng hợp đồng bán nhà ra sao?

Theo chuyên gia, người đang bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù vẫn được quyền mua bán, chuyển nhượng nhà đất.

Như Pháp Luật TP.HCM đã đưa tin, VKSND quận Phú Nhuận (TP.HCM) vừa qua đã hoàn tất cáo trạng, truy tố bị can Nguyễn Trần Hoàng Phong (tài xế lái xe Mercedes tông nữ tiếp viên hàng không) để tòa cùng cấp chuẩn bị xét xử sơ thẩm lần hai.

Trước đó, vào ngày 22-4-2021, TAND TP.HCM đã xử phúc thẩm và tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để làm rõ nguồn gốc hình thành căn hộ ở chung cư Dream Home (phường 14, quận Gò Vấp) là tài sản của ai để đảm bảo việc bồi thường cho các bị hại.

Một điểm đáng chú ý trong vụ án này được nhiều người quan tâm là mặc dù đang bị tạm giam nhưng Phong vẫn có thể ký công chứng hợp đồng để sang tên căn hộ nêu trên cho mẹ mình. Điều này đặt ra các vấn đề pháp lý về việc một người đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù thì liệu có được mua bán, chuyển nhượng nhà đất hay không và thủ tục ra sao?

Phong đã ký hợp đồng để sang tên căn hộ cho mẹ trong thời gian bị tạm giam. 

Đang bị giam, giữ vẫn có thể bán nhà

Liên quan đến vấn đề nêu trên, tại Điều 122 Luật Nhà ở quy định hợp đồng mua bán nhà ở phải được công chứng, chứng thực; trừ trường hợp mua bán, cho thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở phục vụ tái định cư…

Trong đó, điều kiện để nhà ở được mua bán bao gồm: Có sổ hồng (trừ một số trường hợp như mua bán nhà ở hình thành trong tương lai…); không thuộc diện đang có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về quyền sở hữu; đang trong thời hạn sở hữu nhà ở đối với trường hợp sở hữu nhà ở có thời hạn; không bị kê biên để thi hành án hoặc không bị kê biên để chấp hành quyết định hành chính đã có hiệu lực và không thuộc diện đã có quyết định thu hồi đất, có thông báo giải tỏa, phá dỡ nhà ở.

Tương tự, Luật Đất đai 2013 cũng quy định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp một bên là tổ chức kinh doanh bất động sản. Và nếu đất đã được cấp sổ, không bị tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án và đang trong thời hạn sử dụng đất thì đủ điều kiện chuyển nhượng.

Như vậy, trường hợp nhà đất có đủ các điều kiện nêu trên thì chủ tài sản dù đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù vẫn được quyền mua bán, chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.

Khi đó, theo khoản 2 Điều 44 Luật Công chứng 2014, việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở và tại chính cơ sở giam giữ, nơi chủ tài sản đang bị tạm giam, tạm giữ hoặc đang chấp hành án phạt tù.

Đồng quan điểm, TS Thái Thị Tuyết Dung, Trường ĐH Kinh tế – Luật TP.HCM, cho biết luật không cấm người đang bị tạm giữ, tạm giam chuyển nhượng bất động sản. Khi có yêu cầu công chứng ngoài trụ sở thì người có yêu cầu làm đơn gửi văn phòng công chứng hoặc phòng công chứng nêu rõ lý do.

Kèm theo đơn là hồ sơ pháp lý (gồm CMND/CCCD, hộ khẩu, sổ hồng, kết luận điều tra/cáo trạng/bản án có hiệu lực/lệnh tạm giam/sổ thăm nuôi, gặp mặt…) để công chứng viên xem xét và có quyết định giải quyết hay từ chối.

Trong trường hợp hồ sơ phù hợp với quy định của pháp luật (được phép công chứng) thì trưởng văn phòng công chứng hoặc phòng công chứng sẽ gửi công văn kèm theo hồ sơ pháp lý và bản dự thảo văn bản dự kiến công chứng đến cơ quan có thẩm quyền cho phép gặp mặt người đang bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù.

“Nếu những cơ quan này xem xét hồ sơ và đồng ý thì sẽ ra lệnh trích xuất hoặc giải quyết cho công chứng viên vào gặp mặt để thực hiện thủ tục công chứng và xác nhận vào đơn (trong trường hợp cần thiết)” – TS Dung nói.

Ủy quyền mua bán sẽ thuận lợi hơn

Khi nhà đất đủ điều kiện mua bán, chuyển nhượng thì chủ sở hữu có thể trực tiếp ký hợp đồng hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện các thủ tục. Cách thức công chứng viên chứng nhận hợp đồng ủy quyền tại nơi chủ sở hữu tài sản đang bị tạm giam, chấp hành án phạt tù được thực hiện tương tự như trên.

Tuy nhiên, theo TS Thái Thị Tuyết Dung, việc ủy quyền sẽ phù hợp và thuận lợi hơn, đảm bảo có sự thương lượng, thỏa thuận giữa cả bên mua và bên bán.

TS Dung cho biết nếu lựa chọn phương án hai bên cùng ký trực tiếp vào hợp đồng thì không đảm bảo yếu tố thương lượng, thỏa thuận giữa hai bên của hợp đồng. Bởi về lý thuyết, trại giam có thể cho bị can, bị cáo, phạm nhân được gặp mặt bên còn lại để thỏa thuận nhưng điều này hiếm khi xảy ra (trừ người thân, luật sư, công chứng viên…).

Đã kê biên căn hộ của tài xế xe Mercedes

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 14-2-2022, Cơ quan CSĐT Công an quận Phú Nhuận (TP.HCM) đã ra lệnh kê biên đối với căn hộ là tài sản của Nguyễn Trần Hoàng Phong để đảm bảo trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các bị hại.

Trao đổi với PV Pháp Luật TP.HCM về thông tin này, chị Nguyễn Thị Bích Hường (nữ tiếp viên hàng không – bị hại của vụ án) cho biết: “Tôi vui mừng vì cơ quan chức năng đã kê biên căn hộ, có như vậy thì mới có cơ sở để bồi thường cho chúng tôi”.

Ngoài ra, chị Hường mong phiên tòa sắp tới sẽ xét xử công tâm, đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi chính đáng của những bị hại.

Theo Báo mới.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ra Chỉ thị về sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn vừa ra Chỉ thị số 643/CT- BGDĐT về việc sử dụng sách giáo khoa và sách tham khảo trong các cơ sở giáo dục phổ thông.

Học sinh không viết, vẽ vào SGK để SGK được sử dụng lại lâu bền 

Để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng sách giáo khoa (SGK), tăng tỷ lệ SGK được sử dụng lại nhiều lần; không ép buộc học sinh, gia đình học sinh mua sách tham khảo, sách bài tập, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT yêu cầu Giám đốc các Sở GD&ĐT chỉ đạo các Phòng GD&ĐT, các cơ sở giáo dục phổ thông ở địa phương tổ chức quán triệt, tuyên truyền đến từng cán bộ quản lý giáo viên và học sinh về việc giữ gìn, bảo quản SGK; không viết, vẽ vào SGK để SGK được sử dụng lại lâu bền.
Các đơn vị thực hiện nghiêm quy định tại Thông tư số 21/2014/TT-BGDĐT ngày 7/7/2014 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định về quản lý và sử dụng xuất bản phẩm tham khảo trong các cơ sở giáo dục mầm non giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, trong đó có việc: “Giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục các cấp không được lạm dụng vị trí công tác của mình để thực hiện hoặc tham gia thực hiện việc ép buộc, vận động học sinh, học viên hoặc cha mẹ học sinh, học viên mua xuất bản phẩm tham khảo dưới bất kì hình thức nào” tại khoản 4 Điều 5 của Thông tư này.
Thêm nữa, giám đốc các Sở GD&ĐT chỉ đạo cơ sở giáo dục không được vận động học sinh, hoặc cha mẹ học sinh, học viên mua xuất bản phẩm ngoài danh mục SGK đã được Bộ GD&ĐT phê duyệt và các địa phương đã lựa chọn dưới bất kì hình thức nào; không thực hiện việc lập danh mục, đóng gói thành bộ SGK kèm sách bài tập, sách tham khảo và các tài liệu khác ngoài danh mục SGK đã được phê duyệt, lựa chọn để học sinh, phụ huynh học sinh mua và sử dụng.

Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đề nghị bố trí nguồn kinh phí hợp lý để mua SGK cho các thư viện trường học, tổ chức cho học sinh mượn SGK để học tập; vận động học sinh quyên góp, ủng hộ SGK cũ vào thư viện để học sinh các lớp sau tiếp tục được mượn và sử dụng.

Đối với Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam và các nhà xuất bản có SGK đã được phê duyệt, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đề nghị tổ chức rà soát, đánh giá cụ thể việc in ấn, phát hành SGK nhằm tiết kiệm, giảm giá thành SGK; kịp thời in ấn, phát hành SGK bảo đảm đủ số lượng, chất lượng, phục vụ nhu cầu của giáo viên và học sinh.

Các đơn vị báo cáo Bộ GD&ĐT về kết quả rà soát, đánh giá và phương án giảm giá thành SGK trước khi phát hành hoặc tái bản.

Sở GD&ĐT phối hợp với các ban, ngành liên quan tổ chức việc thanh tra, kiểm tra việc phát hành và sử dụng SGK, sách bài tập, xuất bản phẩm tham khảo trong các cơ sở giáo dục phổ thông; xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Bộ trưởng cũng đề nghị Chỉ thị này được quán triệt đến tất cả cán bộ, công chức, viên chức ở các cấp quản lý giáo dục, nhà giáo ở các cơ sở giáo dục phổ thông và các tổ chức, cá nhân có liên quan để thực hiện.

Theo Báo mới.

Văn phòng thừa phát lại bị chấm dứt hoạt động trong trường hợp nào?

Nhiều bạn đọc ở Hà Nội hỏi: Văn phòng thừa phát lại bị chấm dứt hoạt động trong trường hợp nào?
Luật sư xin tư vấn như sau:

Điều 30 Nghị định 08/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08 tháng 01 năm 2020 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại quy định về chấm dứt hoạt động Văn phòng Thừa phát lại

1. Văn phòng Thừa phát lại bị chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau đây:

a) Tự chấm dứt hoạt động;

b) Bị thu hồi Quyết định cho phép thành lập theo quy định tại Điều 31 của Nghị định này;

c) Bị hợp nhất, bị sáp nhập.

2. Trường hợp chấm dứt hoạt động theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì chậm nhất là 30 ngày trước thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động, Văn phòng Thừa phát lại phải có báo cáo bằng văn bản gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động. Trước thời điểm chấm dứt hoạt động, Văn phòng Thừa phát lại có nghĩa vụ nộp đủ số thuế còn nợ, thanh toán các khoản nợ khác, hoàn thành thủ tục chấm dứt hợp đồng đã ký với người lao động, thực hiện xong các hợp đồng dịch vụ đã ký kết; trường hợp không thể thực hiện xong các hợp đồng dịch vụ đã ký kết thì phải thỏa thuận với người yêu cầu về việc thực hiện các hợp đồng đó.

Sở Tư pháp nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở có trách nhiệm thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng Thừa phát lại, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi Quyết định cho phép thành lập, đăng tải thông tin về việc chấm dứt hoạt động của Văn phòng Thừa phát lại trên cổng thông tin điện tử Sở Tư pháp và thông báo bằng văn bản cho các cơ quan quy định tại Điều 23 của Nghị định này.

3. Trường hợp Văn phòng Thừa phát lại chấm dứt hoạt động theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày có Quyết định thu hồi Quyết định cho phép thành lập, Sở Tư pháp nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở có trách nhiệm thu hồi Giấy đăng ký hoạt động Văn phòng Thừa phát lại, đăng tải thông tin về việc chấm dứt hoạt động của Văn phòng Thừa phát lại trên cổng thông tin điện tử Sở Tư pháp và thông báo bằng văn bản cho các cơ quan quy định tại Điều 23 của Nghị định này.

Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày bị thu hồi Quyết định cho phép thành lập, Văn phòng Thừa phát lại có nghĩa vụ nộp đủ số thuế còn nợ, thanh toán xong các khoản nợ khác, làm thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với người lao động; đối với hợp đồng dịch vụ đã ký kết mà chưa thực hiện hoặc chưa thực hiện xong thì phải chấm dứt hợp đồng. Hết thời hạn này mà Văn phòng Thừa phát lại chưa hoàn thành các nghĩa vụ về tài sản hoặc trường hợp Văn phòng Thừa phát lại chấm dứt hoạt động do bị thu hồi Quyết định cho phép thành lập vì Trưởng Văn phòng hoặc toàn bộ Thừa phát lại hợp danh của Văn phòng Thừa phát lại chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì tài sản của Văn phòng Thừa phát lại, của Thừa phát lại hợp danh được sử dụng để thanh toán các khoản nợ của Văn phòng Thừa phát lại theo quy định của pháp luật dân sự.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến các trường hợp văn phòng thừa phát lại bị chấm dứt hoạt động.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

09 trường hợp miễn nhiệm Thừa phát lại

Thừa phát lại có thể được miễn nhiệm theo nguyện vọng cá nhân hoặc bị miễn nhiệm khi thuộc các trường hợp quy định tại Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 08/1/2020, cụ thể:

(1) Thừa phát lại được miễn nhiệm theo nguyện vọng của cá nhân:

– Theo đó, Thừa phát lại nộp trực tiếp hoặc gửi qua hệ thống bưu chính 01 bộ hồ sơ đề nghị miễn nhiệm đến Sở Tư pháp nơi đăng ký hành nghề. Hồ sơ bao gồm:

+ Đơn đề nghị miễn nhiệm Thừa phát lại theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định;

+ Bản sao có chứng thực hoặc bản chụp kèm bản chính Quyết định bổ nhiệm Thừa phát lại để đối chiếu.

– Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp có văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp miễn nhiệm Thừa phát lại kèm theo hồ sơ đề nghị miễn nhiệm.

– Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị và hồ sơ đề nghị miễn nhiệm của Sở Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định miễn nhiệm Thừa phát lại.

Thừa phát lại bị miễn nhiệm trong các trường hợp sau đây:

(2) Không còn đủ tiêu chuẩn làm Thừa phát lại theo quy định, trừ tiêu chuẩn về độ tuổi, cụ thể:

– Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, chấp hành tốt Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt.

– Có bằng tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chuyên ngành luật.

– Có thời gian công tác pháp luật từ 03 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chuyên ngành luật.

– Tốt nghiệp khóa đào tạo, được công nhận tương đương đào tạo hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề Thừa phát lại theo quy định.

– Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Thừa phát lại.

(3) Thuộc một trong các trường hợp sau:

– Người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật Dân sự;

– Người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.

(4) Không đăng ký và hành nghề Thừa phát lại trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm;

(5) Không hành nghề Thừa phát lại liên tục từ 02 năm trở lên;

(6) Hết thời hạn tạm đình chỉ hành nghề Thừa phát lại tối đa quy định tại khoản 2 Điều 12 của Nghị định này mà lý do tạm đình chỉ vẫn còn;

(7) Vi phạm nghiêm trọng Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Thừa phát lại; bị xử phạt vi phạm hành chính đến lần thứ hai trong hành nghề Thừa phát lại mà còn tiếp tục vi phạm;

(8) Đang là Thừa phát lại mà kiêm nhiệm hành nghề công chứng, luật sư, thẩm định giá, đấu giá tài sản, quản lý, thanh lý tài sản;

(9) Bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Theo đó:

– Bộ trưởng Bộ Tư pháp miễn nhiệm Thừa phát lại theo đề nghị của Sở Tư pháp nơi Thừa phát lại đăng ký hành nghề hoặc tự mình quyết định việc miễn nhiệm Thừa phát lại khi có căn cứ cho rằng Thừa phát lại thuộc một trong các trường hợp quy định tại mục (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8) và (9) nêu trên.

– Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát, kiểm tra việc hành nghề của Thừa phát lại tại địa phương mình. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ cho rằng Thừa phát lại thuộc trường hợp bị miễn nhiệm, Sở Tư pháp có văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp miễn nhiệm Thừa phát lại kèm theo tài liệu làm căn cứ cho việc đề nghị miễn nhiệm.

– Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị và tài liệu làm căn cứ cho việc đề nghị miễn nhiệm của Sở Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định miễn nhiệm Thừa phát lại. Khi cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề nghị Sở Tư pháp, các cơ quan, tổ chức xác minh hoặc tự mình xác minh bảo đảm các căn cứ miễn nhiệm đúng quy định của pháp luật.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Chấn chỉnh hoạt động đấu giá tài sản

UBND thành phố Hà Nội ban hành Văn bản số 1509/UBND-NC (ngày 19-5-2022) về việc rà soát, chấn chỉnh hoạt động đấu giá tài sản trên địa bàn thành phố. Để hoạt động đấu giá tài sản nói chung, hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất được minh bạch, tránh thất thu ngân sách, hiện cơ quan chuyên môn, các quận, huyện, thị xã đang có kế hoạch triển khai nghiêm túc việc đấu giá tài sản bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

Một phiên đấu giá quyền sử dụng đất được tổ chức tại Trung tâm Văn hóa, thông tin, thể thao và du lịch quận Cầu Giấy. 

Giám đốc Sở Tài chính Hà Nội Nguyễn Xuân Lưu:
Rà soát quy định về xác định giá để làm giá khởi điểm

Thực hiện Văn bản số 1509/UBND-NC, Sở sẽ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát quy định của pháp luật về xác định giá để làm giá khởi điểm đối với tài sản đấu giá là tài sản công, bảo đảm giá khởi điểm của tài sản đấu giá sát với giá thị trường. Đồng thời tập trung chỉ đạo bộ phận chuyên môn thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quy định của pháp luật về đấu giá tài sản; chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu giá tài sản; quyết định của UBND thành phố ban hành quy định về đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn thành phố. Tham mưu với UBND thành phố việc xác định giá khởi điểm quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản để đưa ra đấu giá, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội Mai Trọng Thái:
Tăng cường kiểm tra việc đấu giá quyền sử dụng đất

Để khắc phục tình trạng bỏ cọc sau khi giá đấu giá đất bị đẩy lên cao bất thường, gây thất thu ngân sách, ảnh hưởng lớn đến tiến độ phát triển đô thị, trên cơ sở Văn bản số 1509/UBND-NC, Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính và các sở, ngành liên quan tham mưu việc xác định giá khởi điểm quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản để đưa ra đấu giá, bảo đảm đúng quy định của pháp luật, sát với giá thị trường. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật trong việc đưa quyền sử dụng đất ra đấu giá của UBND các quận, huyện, thị xã. Chủ động lấy ý kiến góp ý của các sở, ngành liên quan đối với phương án đấu giá quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản do Sở dự thảo để hoàn thiện trước khi trình UBND thành phố ban hành.

Chủ tịch UBND quận Hoàng Mai Nguyễn Minh Tâm:
Chú trọng công khai, minh bạch thông tin

Xác định rõ công tác đấu giá tài sản, đấu giá quyền sử dụng đất bảo đảm hiệu quả, đúng quy định của pháp luật, từ chỉ đạo của UBND thành phố, quận sẽ xây dựng phương án lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản để thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất, đấu giá tài sản công theo đúng quy định. Việc lựa chọn, công bố thông tin liên quan đến việc đấu giá bảo đảm công khai, minh bạch. Đồng thời, cung cấp thông tin về tổ chức hành nghề đấu giá đến các cơ quan, đơn vị liên quan để chủ động trong việc phối hợp, theo dõi, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động đấu giá tài sản theo thẩm quyền. Tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động đấu giá tài sản, đấu giá quyền sử dụng đất.

Ông Nguyễn Ngọc Anh, Công ty cổ phần Kinh doanh dịch vụ bất động sản Thành Phát (quận Nam Từ Liêm):
Cần giải pháp ngăn chặn thông đồng, dìm giá hiệu quả

Trên địa bàn cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng, công tác đấu giá quyền sử dụng đất vẫn gặp nhiều khó khăn và xảy ra tình trạng “lách luật”. Về mặt luật pháp, các quy định, chế tài về đấu giá tài sản, đấu giá quyền sử dụng đất đều rất chặt chẽ, rõ ràng. Vấn đề còn lại chỉ là cách thức thực hiện sao cho đúng, trong đó yếu tố công khai, minh bạch phải được đặt lên hàng đầu. Do đó, cần có cơ chế giám sát, kiểm tra chéo nhằm bảo đảm các bước triển khai đấu giá tài sản; có giải pháp hiệu quả trong việc ngăn chặn tình trạng “sân sau”, thông đồng, dìm giá, “quân xanh, quân đỏ” trong đấu giá…

Ông Lại Văn Tuấn, ngõ 48 phố Tạ Quang Bửu (phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng):
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin

Theo tôi, cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đấu giá. Trước mắt, cần vận hành và sử dụng ổn định, hiệu quả Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản. Đây là nơi phát huy hiệu quả lớn trong việc công khai, minh bạch việc đấu giá tài sản; đồng thời là kênh thông tin hữu hiệu để cơ quan quản lý nhà nước tiếp nhận các phản ánh, kiến nghị về các hành vi vi phạm trong hoạt động đấu giá. Thực tế, nơi nào có sự giám sát chặt chẽ của người có tài sản; sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời của cơ quan quản lý nhà nước thì nạn thông đồng, dìm giá, gây thất thoát tài sản… được hạn chế tối đa.

Theo Báo mới.

Có thể thỏa thuận ‘ai ngoại tình thì không được nuôi con và mất luôn tài sản’?

Có thể thỏa thuận ai ngoại tình là không được nuôi con, mất luôn tài sản được không? Phòng công chứng có chứng nhận hợp đồng kiểu này không?

* Tại Việt Nam, các cặp vợ chồng có được phép lập hợp đồng hôn nhân hay không?

Hiện pháp luật Việt Nam cho phép lập hợp đồng hôn nhân để thỏa thuận về tài sản của vợ, chồng trước khi kết hôn.

* Nội dung của hợp đồng hôn nhân xoay quanh những vấn đề gì?

– Các hợp đồng hôn nhân được lập để xác định cái chế độ tài sản. Điều này có nghĩa là chúng ta được quyền xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng.

Nếu hai vợ chồng thỏa thuận không có hợp đồng hôn nhân thì khi có vấn đề liên quan đến phân chia tài sản thì tài sản nào trước hôn nhân sẽ là tài sản riêng, trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung, ngoại trừ trong thời điểm kết hôn vợ/chồng được tặng cho riêng hoặc chứng minh bản thân dùng tiền riêng trước khi kết hôn để mua tài sản (được bố ẹm tặng riêng nhà, lấy tiền để dành trước khi kết hôn mua nhà…) thì sẽ được công nhận là tài sản riêng.

Nếu hai vợ chồng không có một thỏa thuận nào, thì khi ly hôn, tài sản chung sẽ được chia trên nguyên tắc đầu tiên là chia đôi, sau đó có xét đến công sức đóng góp và lỗi của các bên dẫn đến việc ly hôn.

Nhưng nếu chúng ta không muốn chọn chế độ tài sản theo luật như trên thì có thể lập hợp đồng hôn nhân. Hợp đồng này cả hai bên có thể thỏa thuận khi kết hôn với nhau thì tất cả tài sản trước, trong thời kì hôn nhân thì đó đều là tài sản riêng của mỗi người. Hoặc là tài sản riêng của mỗi người trước kết hôn hay tài sản được thừa kế, tặng cho riêng nhưng sau khi kết hôn đều trở thành tài sản chung…

* Trong hợp đồng hôn nhân, vợ/chồng liệu có thể đưa ra điều kiện nếu nửa kia ngoại tình sẽ bị mất tài sản và quyền nuôi con được không?

– Không được và không bao giờ được. Pháp luật Việt Nam thừa nhận chế độ thiết lập tài sản, chứ không có nói về chế độ phân chia tài sản. Nên sau khi cả hai vợ chồng đã có thỏa thuận thiết lập chế độ tài sản chung và riêng thì việc phân định tài sản như thế nào thì sẽ được tòa án phân chia dựa trên luật định. Đây là vấn đề về tài sản.

Vấn đề thứ 2 là vấn đề con chung khi các bên ly hôn, dù bên nào ngoại tình, lỗi thuộc về phía nào… thì người được phép nuôi dưỡng con cái đều phải căn cứ theo nguyên tắc của pháp luật.

Theo đó, con dưới 3 tuổi ưu tiên cho mẹ nuôi dưỡng, con từ 3 đến dưới 7 tuổi nếu ly hôn sẽ xét xem vợ hay chồng có điệu kiện chăm sóc con tốt nhất (kinh tế, tài chính, tạo môi trường thuận lợi cho con học hành…) và con từ 7 tuổi trở lên thì căn cứ theo nguyện vọng của con.

* Làm thế nào để hợp đồng hôn nhân được pháp luật công nhận?

– Muốn làm hợp đồng hôn nhân, các cặp vợ chồng có thể ra phòng công chứng để tạo lập.

Một hợp đồng được thừa nhận có giá trị pháp lý thì phải đáp ứng hai yêu cầu: đầu tiên là các nội dung trong hợp đồng phải có căn cứ pháp luật, sau đó mới xét đến phần hình thức (đưa ra văn phòng công chứng ký). Cho nên, bất kỳ các thỏa thuận nào của hai vợ chồng cho rằng nửa kia ngoại tình không được quyền nuôi con, nhận tài sản… thì hoàn toàn không phù hợp với căn cứ pháp luật, đồng nghĩa với việc các phòng công chứng sẽ từ chối chứng nhận.

Theo Báo mới.

Ly hôn để tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ dân sự là hành vi vi phạm pháp luật

Đối với những vụ ly hôn giả mạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, cơ quan chức năng cần làm rõ và có thể hủy bỏ quyết định, bản án ly hôn trái pháp luật, thu hồi tài sản do phạm tội mà có để xử lý theo quy định.

Ly hôn là một trong những quyền cơ bản của công dân, thể hiện quyền tự do trong hôn nhân. Khi ly hôn thường sẽ giải quyết các vấn đề như: nuôi con sau khi ly hôn, chia tài sản chung vợ chồng, nghĩa vụ trả nợ chung…. Hiện, phần lớn các vụ ly hôn do “cơm không lành, canh không ngọt”, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng mà không có lối thoát, ly hôn là hành động giải thoát cho nhau. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều những cuộc ly hôn “đầy toan tính” như hành vi ly hôn để kết thúc một thủ tục kết hôn giả trước đó (kết hôn để nhập quốc tịch) hoặc ly hôn giả để trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự khi trong cuộc hôn nhân đó có người lâm vào tình trạng vỡ nợ, phá sản hoặc sắp bị xử lý hình sự.

Liên quan đến vấn đề này, Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định: Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định hành vi ly hôn giả tạo. Theo đó, ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân. Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định rõ cấm hành vi kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo.

Như vậy, hành vi ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân thì đây là hành vi bị cấm theo luật hôn nhân và gia đình. Kết quả ly hôn giả tạo này sẽ bị tòa án xem xét hủy bỏ, phục hồi lại các quyền lợi của các bên, người trốn tránh nghĩa vụ sẽ không còn lý do để trốn tránh theo bản án, quyết định ly hôn.

Ngoài ra, nếu cả hai còn yêu thương nhau, còn quan tâm, quý trọng nhau thì có muốn ly hôn, tòa cũng không chấp nhận. Tòa án chỉ cho ly hôn đơn phương khi tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu là thuận tình ly hôn thì việc tự nguyện li hôn đó phải không trái pháp luật đạo đức xã hội, không nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ dân sự . Với các cán bộ, người có chức vụ quyền hạn, có vị thế trong xã hội hoặc là các doanh nhân, đại gia lâm vào tình trạng khó khăn phá sản hoặc phải đối mặt với chế tài của pháp luật thì người vợ, người chồng của họ thường sẽ sẵn sàng “chung lưng, đấu cật” chứ không mấy ai quay đầu, bỏ mặc… Nếu cuộc sống đang hạnh phúc, một người bị xác minh về hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến ly hôn thì cũng cần làm rõ động cơ của các cuộc ly hôn chóng vánh này.

Cụ thể, thời gian gần đây cơ quan chức năng liên tục phát hiện xử lý nhiều cán bộ vi phạm pháp luật về tham nhũng và chức vụ, nhiều người đã bị khởi tố, bị kết án và phải bồi hoàn cho nhà nước số tiền rất lớn. Tuy nhiên, điều mà dư luận không khỏi băn khoăn là trước khi bị khởi tố, không ít cán bộ đã ly hôn, chuyển hết tài sản cho vợ, cho chồng của mình và “tay trắng” vào tù khiến cơ quan chức năng sẽ gặp những khó khăn trong việc thi hành án đối với phần dân sự trong vụ án hình sự.

Thông thường đối với những người có chức vụ quyền hạn bị xử lý hình sự về các tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; tội “Vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí”; tội “Vi phạm quy định về quản lý đất đai”; tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”; tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”,… và các tội danh khác thuộc nhóm tội về tham nhũng, chức vụ thì người phạm tội ngoài việc phải chịu chế tài hình sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, bị tịch thu tài sản, thu giữ tài sản do phạm tội mà có… Bởi vậy, nhiều bị can trước khi bị khởi tố thường tìm cách tẩu tán tài sản, che giấu tài sản do phạm tội mà có bằng nhiều cách khác nhau.

Những người thực hiện hành vi tham ô tài sản, hưởng lợi từ các hành vi vi phạm pháp luật khi thi hành công vụ thường tìm cách giấu giếm tài sản, nhờ người khác đứng tên tài sản để che giấu hành vi phạm tội và tránh việc phát hiện xử lý của cơ quan chức năng. Đối với những tài sản họ trực tiếp đứng tên thì khi bị thanh tra kiểm tra, bị xác minh mà có nguy cơ bị xử lý hình sự, nguy cơ bị phát hiện, thu giữ thì họ cũng tìm cách sang tên, tẩu tán bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có cách ly hôn để chia tài sản.

Luật Hôn nhân và gia đình quy định vợ chồng có thể tự nguyện thỏa thuận về việc chia tài sản chung khi ly hôn, nếu không thỏa thuận được thì có thể nhờ Tòa án giải quyết. Trong trường hợp hai bên thỏa thuận được về việc phân chia tài sản khi ly hôn cũng có thể yêu cầu Tòa án công nhận sự tự nguyện thỏa thuận đó. Lợi dụng quy định này mà nhiều người vi phạm pháp luật, chưa bị xử lý đã tìm cách ly hôn giả để sang tên toàn bộ tài sản cho vợ hoặc cho chồng của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước. Thủ tục ly hôn như vậy là trái pháp luật, nếu phát hiện thì Tòa án sẽ không công nhận thuận tình ly hôn, sẽ không cho ly hôn và không đồng ý giải quyết chia tài sản khi ly hôn. Tuy nhiên, nếu người giải quyết ly hôn thiếu thận trọng hoặc không khách quan thì có thể tiếp tay cho hành vi trốn tránh nghĩa vụ dân sự, sẽ xuất hiện trường hợp ly hôn giả.

“Rất nhiều trường hợp người phạm tội tham nhũng và chức vụ khi bị kết án thì họ không còn đứng tên tài sản nào cả bởi trước đó đã có các giao dịch bán, chuyển nhượng, chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn khiến họ trở thành “vô sản” khi là bị can, bị cáo. Nếu cơ quan chức năng tin vào các giao dịch đó mà không xác minh, không làm rõ để xử lý thì bạn án về phần dân sự sẽ không có khả năng thi hành, nhà nước sẽ không thu hồi được tài sản do phạm tội mà có, không thể thực hiện được phần dân sự trong vụ án hình sự khi bản án có tiền về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc phạt tiền”

Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định là các giao dịch dân sự về chuyển quyền sở hữu tài sản mà trái pháp luật, đạo đức xã hội, nhằm trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự thì giao dịch đó sẽ vô hiệu. Bởi vậy, trong trường hợp các giao dịch về dân sự để chuyển quyền sở hữu tài sản của bị can, bị cáo được thực hiện trước khi khởi tố có dấu hiệu tẩu tán tài sản thì cơ quan chức năng cũng có quyền đề nghị tòa án xem xét tuyên bố hủy bỏ các giao dịch dân sự đó để trả lại tài sản cho bị can, bị cáo nhằm đảm bảo cho việc thực hiện trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự.

Đối với những vụ ly hôn giả mạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, nghĩa vụ bồi hoàn tài sản cho nhà nước, nhằm tổ tán tài sản do phạm tội mà có, luật sư Cường cho rằng, cơ quan chức năng cần làm rõ và có thể hủy bỏ quyết định, bản án ly hôn trái pháp luật, thu hồi tài sản do phạm tội mà có để xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp phát hiện ra người vợ, người chồng của bị can giúp sức cho bị can trong việc tẩu tán tài sản do phạm tội mà có hoặc sử dụng tài sản vào mục đích khác để hợp thức hóa nguồn gốc tài sản thì người này còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm và tội rửa tiền theo quy định của bộ luật hình sự. Trường hợp quá trình điều tra vụ án hình sự mà bị can có nghĩa vụ trả tiền cho tổ chức cá nhân phải bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra nhưng trước đó đã thực hiện các hành vi tẩu tán tài sản bằng các hợp đồng, giao dịch hoặc ly hôn giả thì cơ quan chức năng cũng có thể kiến nghị với tòa án xem xét hủy bỏ các giao dịch, thủ tục đó theo quy định của pháp luật.

Vấn đề thu hồi tài sản do phạm tội mà có vẫn là vấn đề nan giải của nhiều năm nay. Theo thống kê từ các bạn án trong các vụ án thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng và chức vụ thì tỷ lệ thu hồi tài sản do phạm tội mà có rất thấp trong đó có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là người phạm tội không còn tài sản. Bởi vậy đối với những vụ án gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước hoặc chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản thì cơ quan chức năng cần làm rõ những tài sản mà bị can bị cáo đứng tên trước đó, làm rõ các giao dịch chuyển nhượng, tặng cho, phân chia tài sản chung vợ chồng và các giao dịch khác để chuyển dịch quyền sở hữu tài sản có vi phạm điều cấm của pháp luật không, có dấu hiệu tẩu tán tài sản hay không để hủy bỏ các giao dịch này, thu hồi tài sản cho nhà nước.

Ngoài ra với những người thân thích của bị can bị cáo mà lại đứng tên các tài sản lớn nhưng không chứng minh được thu nhập nguồn gốc thì cũng có thể xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật, trong đó có thể tịch thu phải xử lý về hành vi rửa tiền, che giấu tội phạm nếu hành vi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành của các tội danh này.

Dẫn chứng trường hợp cựu Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương, trước khi bị bắt, ông Trần Văn Nam và vợ đã làm thủ tục ly hôn. Bà P.M.H – vợ ông Nam là người đệ đơn ly hôn. Theo thông tin nắm được, đến nay cơ quan điều tra xác định trước khi bị bắt thì ông Nam đã ly hôn với vợ. Vấn đề này cơ quan điều tra cũng cần làm rõ việc ly hôn này có kèm theo thỏa thuận phân chia tài sản chung vợ chồng hay không, việc thỏa thuận này có ngay tình hay không, có dấu hiệu tẩu tán tài sản để trốn tránh trách nhiệm dân sự hay không.

Trong trường hợp có căn cứ cho thấy việc ly hôn này có kèm theo việc thỏa thuận phân chia tài sản phần lớn cho người vợ thì cơ quan chức năng cũng sẽ làm rõ động cơ mục đích của hành vi này là gì?. Đồng thời làm rõ trách nhiệm dân sự của bị can này đối với vụ án hình sự đang xử lý. Trong trường hợp tòa án kết tội và tuyên về trách nhiệm dân sự bồi thường, khắc phục hậu quả, phải hoàn trả tài sản do phạm tội mà có mà trước đó bị can này đã có các giao dịch nhằm chuyển quyền sở hữu tài sản hoặc thỏa thuận phân chia tài sản chung vợ chồng thì cơ quan chức năng cũng có thể xem xét đánh giá tính hợp pháp của các giao dịch này, nếu có căn cứ cho thấy có động cơ tẩu tán tài sản để trốn tránh trách nhiệm dân sự thì tòa án có quyền hủy bỏ các giao dịch này theo quy định pháp luật./.

Theo Báo mới.

Nhiều khó khăn trong hoạt động Thừa phát lại Hà Nội

Với 8 Văn phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội, thời gian qua đã cho những kết quả tích cực, tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều khó khăn cần khắc phục.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền

Ngay từ những ngày đầu, Sở Tư pháp, cơ quan quản lý hoạt động của Thừa phát lại đã có nhiều hình thức đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức và tăng cường sự tiếp cận của người dân đối với dịch vụ này, đồng thời nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức trong việc thực hiện chế định TPL. Các hình thức tuyên truyền như tổ chức hội nghị giới thiệu văn bản, biên soạn, phát hành các tờ gấp về thừa phát lại, tuyên truyền trên các cơ quan báo chí truyền thông..

Về phía các Văn phòng cũng có sự chủ động nhất định trong công tác tuyên truyền. Ví dụ như Văn phòng Thừa phát lại Hai Bà Trưng đã tự xây dựng cho mình đội ngũ báo cáo viên có đủ trình độ, năng lực, chủ động đăng ký phối hợp với các Phòng Tư pháp UBND quận, huyện, UBND cấp phường, xã, và các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, đứng ra tổ chức tập huấn, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thừa phát lại cho cán bộ chủ chốt, cán bộ Tư pháp, Địa chính, Thanh tra xây dựng, Ban quản lý dự án, tổ trưởng tổ dân phố, tổ hòa giải; Gửi thư ngỏ đến ngân hàng, phòng giao dịch thuộc hệ thống ngân hàng; cơ quan tòa án, các văn phòng luật sư, công chứng, đấu giá, giám định, trọng tài kinh tế trên địa bàn thành phố; các tổ chức xây dựng, kinh doanh bất động sản…

Các Văn phòng cũng đã xây dựng cho mình một Website riêng; qua đó cung cấp những thông tin cần thiết về hoát động của thừa phát lại trên các lĩnh vực để người dân biết, các cơ quan, tổ chức tăng cường phối hợp.

Tại Hà Nội, theo thống kê, đến nay đă có 8 văn phòng, với 75 Thừa phát lại đang hoạt động trên địa bàn TP (trong số hơn 150 người đã được bổ nhiệm). Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp và xã hội hóa một số hoạt động trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp của Đảng và Chính phủ, hoạt động Thừa phát lại trên địa bàn Hà Nội được triển khai thực hiện và đã có được những kết quả tích cực. Số liệu của UBND TP Hà Nội cho thấy, trong 3 năm (từ 2018-2020), các văn phòng thừa phát lại trên địa bàn Hà Nội đã lập gần 36 ngàn vi bằng. Đây là con số đã được đăng ký tại Sở Tư pháp.

Trong 3 năm, 8 văn phòng đã tống đạt 225.614 ngàn văn bản của Tòa án; 3418 văn bản của cơ quan Thi hành án. Doanh thu trực tiếp tổ chức thi hành án là 393.746.000 đồng…Hoạt động của Thừa phát lại góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự, trong quan hệ với cơ quan, tổ chức nhà nước và trong hoạt động tố tụng; góp phần tạo dựng môi trường pháp lý lành mạnh, an toàn cho các giao dịch dân sự, kinh tế, giảm tải công việc của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố theo quy định của pháp luật.

Tuyển chọn nhân sự khó khăn

Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động thừa phát lại còn nhiều khó khăn. Công tác tuyên truyền về Thừa phát lại còn đơn điệu, chưa có chiều sâu, thiếu cán bộ có kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn, thiếu cơ sở vật chất và kinh phí. Hoạt động tống đạt chưa được tổ chức chuyên môn hóa; Chi phí cho việc tống đạt rất thấp so với chi phí thực tế của các văn phòng; Việc niêm yết văn bản tại một số UBND phường còn gặp khó khăn trong khâu xác nhận của UBND phường, dẫn đến vi phạm về thời gian niêm yết.

Đối với công việc xác minh điều kiện thi hành án: một số cơ quan quản lý về đất đai trả lời xác minh rất chậm; người dân không biết quy định Thừa phát lại được tiến hành xác minh điều kiện thi hành án đối với các bản án thuộc thẩm quyền thi hành án của Cơ quan Thi hành án Dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW; Còn tồn tại nhận thức không đồng nhất về Vi bằng; chưa có sự trao đổi, hướng dẫn cụ thể khi có những vướng mắc về vi bằng.

Nhiều cán bộ công chức của các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự hiểu về giá trị của Vi bằng. Đặc biệt, kết quả các công việc của Thừa phát lại, đặc biệt là Vi bằng chưa được quy định trong Bộ luật Dân sự, Luật đất đai, Luật Thi hành án các văn bản luật khác nên người dân và cán bộ công chức chưa biết về công việc của Thừa phát lại, giá trị của các công việc do Thừa phát lại làm.

Do chưa có Luật về Thừa phát lại nên người dân không biết Thừa phát lại được thi hành bản án dân sự và công việc này của Thừa phát lại cũng chưa được ghi nhận trong Luật Thi hành án; Tòa án nhân dân cũng chưa có hướng dẫn để Thẩm phán sau khi xét xử có thể thông báo cho đương sự nội dung thể hiện: ngoài Cơ quan THA, người dân có thể lựa chọn Thừa phát lại để thi hành bản án đối với những địa phương có Văn phòng Thừa phát lại.

Bên cạnh đó, hoạt động Thừa phát lại mang tính đặc thù, rất khó khăn, chủ yếu làm ngoài Văn phòng và không phân biệt thời gian nên phần lớn nhân lực về ngành luật chưa yêu thích nghề do ngại khó, ngại khổ; việc tuyển chọn nhân sự rất khó, tìm được người yêu thích nghề lại càng khó khăn hơn

Theo Baomoi.com

Đăng ký xe nếu sai sót phần phiên dịch tiếng Anh sẽ được chỉnh sửa ra sao?

Cục CSGT đang rà soát lại phần phiên dịch tiếng Anh trên đăng ký ô tô, nếu có sai sót sẽ chỉnh sửa phù hợp.

Mới đây, độc giả gọi điện thoại về đường dây nóng của Báo Giao thông phản ánh mẫu cà vẹt xe (giấy đăng ký xe) của Việt Nam do CSGT cấp đăng kí xe tại Hà Nội, Hải Phòng, TP.HCM… dùng từ tiếng Anh không chính xác. Cụ thể, phần tiếng Anh của mục “số chỗ ngồi” được dùng là “sit”.

Trong tiếng Anh, “sit” là động từ để diễn tả hành động ngồi. Danh từ được sử dụng chính xác để diễn tả chỗ ngồi là “seat”.

Một giấy đăng kí của Phòng CSGT Công an TP Hà Nội cấp năm 2017

Trung tá Phạm Việt Công, Phó Cục trưởng Cục CSGT cho biết, Cục đã nắm được thông tin và đang cho rà soát, lấy ý kiến các bên liên quan. Trong trường hợp nếu có sai sót hoặc chưa phù hợp, nội dung này sẽ được chỉnh sửa.

Được biết, đây là phôi đăng ký xe dùng chung trên cả nước được quy định tại Thông tư 58/2020. Việc rà soát, sửa sai sót (nếu có) sẽ thực hiện trên phần mềm cho các xe đăng ký mới.

Tuy nhiên, nếu có sai sót, việc chỉnh sửa sẽ không thực hiện cho những đăng ký xe đã được cấp trước đó. Những đăng ký xe đã được cấp trước đó vẫn sẽ được sử dụng.

Theo Baomoi.com

Người lao động được hỗ trợ tiền thuê nhà trong trường hợp nào?

Hiện cơ quan BHXH TP.HCM đã thực hiện xác nhận BHXH gần 80.000 NLĐ tại 4.645 đơn vị để thực hiện thủ tục nhận hỗ trợ tiền thuê nhà.

Thời gian vừa qua, PLO nhận được nhiều câu hỏi của bạn đọc liên quan đến việc hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động như: Doanh nghiệp (DN) đang nợ đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) thì người lao động (NLĐ) có được nhận hỗ trợ tiền thuê nhà? Hồ sơ làm thủ tục hỗ trợ ra sao? Người lao động được hỗ trợ tiền thuê nhà trong trường hợp nào?…

Liên quan đến thắc mắc trên, cơ quan BHXH TP.HCM trả lời: Việc DN chậm đóng, nợ đóng BHXH và việc xác nhận NLĐ có tham gia BHXH là hai quan hệ khác nhau. Đối với NLĐ có tham gia BHXH thì cơ quan BHXH sẽ xác nhận việc có tham gia BHXH chứ không liên quan đến việc DN chậm đóng, nợ BHXH.

Như vậy, đối với DN đang nợ đóng, chậm đóng BHXH mà NLĐ đủ điều kiện hưởng hỗ trợ tiền thuê nhà theo Quyết định 08/2022 của Thủ tướng Chính phủ thì vẫn được giải quyết hỗ trợ tiền thuê nhà.

Trong vòng hai ngày khi nhận được danh sách NLĐ từ DN thì cơ quan BHXH sẽ xác nhận danh sách.

Cơ quan BHXH TP.HCM cũng lưu ý:

– Đối với NLĐ đang làm việc quy định tại Điều 4 Chương II Quyết định 08, chậm nhất đến hết ngày 15-8. Đơn vị có thể nộp hàng tháng hoặc gộp hai tháng hoặc ba tháng.

– Đối với NLĐ quay trở lại thị trường lao động quy định tại Điều 8 Chương III Quyết định 08, chậm nhất đến hết ngày 15-8.

Về hình thức nộp hồ sơ:

– Đơn vị lập danh sách gửi cơ quan BHXH nơi quản lý thu BHXH qua giao dịch điện tử hoặc Cổng Dịch vụ công của BHXH Việt Nam, Cổng Dịch vụ công Quốc gia hoặc gửi hồ sơ giấy qua dịch vụ bưu chính.

– Trường hợp đơn vị thực hiện lập hồ sơ không đúng đối tượng theo quy định, chậm trễ hồ sơ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ, đơn vị hoàn toàn chịu trách nhiệm.

– Trong thời hạn hai ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của đơn vị, cơ quan BHXH đang quản lý đơn vị sẽ xác nhận việc tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ và chuyển trả cho đơn vị theo hình thức đơn vị đã nộp cho cơ quan BHXH.

Trường hợp danh sách đơn vị không khớp đúng so với dữ liệu cơ quan BHXH đang quản lý thì cơ quan BHXH trả lại danh sách kèm phiếu hướng dẫn gửi cho đơn vị để bổ sung, hoàn chỉnh và nộp lại kịp thời.

Theo thống kê của cơ quan BHXH TP.HCM, tính đến ngày 2-6, cơ quan này đã thực hiện xác nhận cho 70.979 NLĐ tại 4.645 đơn vị. Trong đó, đối với NLĐ đang làm việc được quy định tại Quyết định 08 cơ quan BHXH đã xác nhận cho 4.192 đơn vị với 69.146 NLĐ.

Số NLĐ quay trở lại thị trường lao động được xác nhận hỗ trợ tiền thuê theo quy định tại Điều 8, Quyết định 08 là 1.833 NLĐ.

Điều kiện và mức hỗ trợ tiền thuê nhà

Theo Quyết định 08/2022 của Thủ tướng Chính phủ, có hai đối tượng được nhận hỗ trợ tiền thuê nhà gồm: NLĐ đang làm việc trong doanh nghiệp và NLĐ trở lại làm việc.

Phạm vi áp dụng hỗ trợ tiền thuê nhà là NLĐ làm việc trong khu công nghiệp, khu chế xuất; khu kinh tế trọng điểm được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ (trong đó có TP.HCM).

Để được hỗ trợ tiền thuê nhà, NLĐ trong các doanh nghiệp này phải đáp ứng một số điều kiện nhất định:

– Ở thuê, ở trọ trong khoảng thời gian từ ngày 1-2-2022 đến ngày 30-6-2022.

– Có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ một tháng trở lên được giao kết và bắt đầu thực hiện trước ngày 1-4-2022.

– Đang tham gia BHXH bắt buộc (có tên trong danh sách tham gia BHXH bắt buộc của cơ quan BHXH) tại tháng liền kề trước thời điểm doanh nghiệp lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.

Trường hợp NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 115/2015 thì phải có tên trong danh sách trả lương của doanh nghiệp của tháng liền kề trước thời điểm doanh nghiệp lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.

Mức hỗ trợ tiền thuê nhà đối với NLĐ đang làm trong các doanh nghiệp là 500.000 đồng/người/tháng. Thời gian hỗ trợ tối đa 3 tháng và được chi trả hằng tháng.

Đối với NLĐ trở lại làm việc thì mức hỗ trợ là 1 triệu đồng/người/tháng. Thời gian hỗ trợ tối đa 3 tháng và được chi trả hằng tháng.

Theo PLO.