Vợ chồng bình đẳng về quyền đối với tài sản chung

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

Do đó, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung thì vợ chồng bình đẳng trong quyết định, định đoạt.

* Quyền đối với tài sản chung và riêng

“Cha mẹ bên chồng có cho vợ chồng chúng tôi 700m2 đất. Vậy đất này có được xem là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của chồng tôi. Tôi có quyền gì đối với tài sản này?” – bà Nguyễn Thị Liên (ngụ P.Tân Hạnh, TP.Biên Hòa) hỏi.

Về nội dung này, Luật sư Nguyễn Hào Hiệp – Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiệp Thành cho biết, tài sản tặng cho là tài sản chung của vợ chồng khi tài sản đó được tặng cho chung vợ chồng. Tài sản tặng cho là tài sản riêng của vợ hoặc chồng khi tài sản đó được tặng cho riêng vợ hoặc chồng dù là trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, một khi cha mẹ chồng cho vợ chồng bà diện tích đất trên theo đúng quy định và trình tự pháp luật thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng nên bà và chồng có quyền ngang nhau về tài sản này.

“Pháp luật chỉ cho phép vợ chồng bình đẳng nhau trong việc quyết định, định đoạt khối tài sản chung. Còn tài sản riêng của người nào thì người đó có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung”

Cũng theo Luật sư Nguyễn Hào Hiệp, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định, tài sản chung của vợ chồng bao gồm: tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Tài sản riêng của vợ, chồng gồm: tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.

Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

“Tôi ở nhà làm vườn, vợ tôi kinh doanh nông sản để cùng tôi nuôi con ăn học, chăm lo hạnh phúc gia đình, tạo lập kinh tế. Trong quá trình kinh doanh, ngoài số tiền 200 triệu đồng của vợ chồng tôi bỏ ra, vợ tôi còn vay mượn bên ngoài thêm 70 triệu đồng để làm ăn mà tôi không biết. Vậy tôi có phải cùng vợ chịu trách nhiệm trả số tiền này hay không?” – ông Trần Văn Trí (thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) hỏi.

Trao đổi về nội dung này, Luật sư Nguyễn Hào Hiệp cho hay, theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây: nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cha mẹ phải bồi thường. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Đồng thời, Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định rõ trách nhiệm liên đới của vợ, chồng như sau: vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1, Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của luật này. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của luật này.

Theo Luật sư Nguyễn Hào Hiệp, vấn đề ông Trí thắc mắc có khả năng xảy ra 2 trường hợp. Trường hợp thứ nhất, nếu số tiền vợ ông mượn được dùng vào mục đích kinh doanh để chăm lo cho gia đình thì ông cũng có phần trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc cùng vợ trả khoản nợ này. Trường hợp thứ hai, vợ ông Trí vay mượn tiền, thiếu nợ người khác mà ông không hề hay biết, không đồng thuận; vợ của ông dùng số tiền vay sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân, không phải nhu cầu thiết yếu của gia đình (là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình) thì ông Trí không phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ.

“Tuy vậy, để không chịu trách nhiệm liên đới trả nợ, ông Trí phải chứng minh được 2 vấn đề: vợ của ông vay mượn tiền để chi tiêu cá nhân, không dùng để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Ông không hề hay biết, liên quan tới số tiền này” – Luật sư Nguyễn Hào Hiệp lưu ý

“Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ” – Luật sư Nguyễn Hào Hiệp cho biết.

Trên đây là nội dung liên quan đến quyền của vợ chồng đối với tài sản chung . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Chồng vay tiền mua nhà, có phải là tài sản riêng?

Câu hỏi:  Vợ chồng tôi đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2006. Năm 2009, tôi vay ngân hàng 2 tỷ đồng để mua nhà nhưng không nói với vợ. Hợp đồng vay tiền chỉ một mình tôi ký, đứng tên. Vậy căn nhà này có phải là tài sản riêng của tôi không?”- Nguyễn Anh Tuấn, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư xin tư vấn như sau:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”.
Ngoài ra, Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về tài sản riêng của vợ, chồng:
“Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này”.
Như vậy, theo quy định nêu trên, căn nhà mà bạn vay tiền ngân hàng để mua vào năm 2009 là tài sản chung của vợ chồng bạn được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, dù căn nhà đó chỉ đứng tên một mình bạn.

Trên đây là nội dung liên quan đến câu hỏi chồng vay tiền mua nhà có phải là tài sản riêng hay không . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Chung sống như vợ chồng và có con thì có làm đơn ly hôn được không?

Câu hỏi:

Tôi và chồng chung sống với nhau đã hơn 5 năm nhưng không đăng ký kết hôn. Vợ chồng tôi đã có con chung là một bé gái 2 tuổi, ngoài ra không có tài sản chung đáng giá. Nay do bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn phát sinh không thể hòa giải được, thêm vào đó, tôi phát hiện chồng mình đã có nhân tình. Luật sư cho tôi hỏi, tôi muốn làm đơn ly hôn có được không? (Chị Trang – Việt Yên – Bắc Giang)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 quy định như sau:

1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, nghĩa là không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết như sau:

– Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.

– Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

Theo quy định trên, chị Trang có thể làm đơn ly hôn và được Tòa án thụ lý, kết quả giải quyết là tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng của anh chị.

Trên đây là nội dung liên quan đến câu hỏi chung sống như vợ chồng và có con thì có ly hôn được hay không . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Một nhà được tách thành nhiều hộ khẩu

Bạn đọc hỏi: Con gái tôi vừa kết hôn. Do chưa có điều kiện ra ở riêng nên vợ chồng con gái tôi sống chung cùng vợ chồng tôi và vợ chồng anh trai. Nay tôi muốn tách hộ khẩu mới cho con gái và con rể thì có đúng quy định không thưa luật sư? Ông Minh Thanh (Đồ Sơn – Hải Phòng)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Khoản 1 điều 25 và điều 23 Luật Cư trú năm 2020 quy định, thành viên hộ gia đình được tách hộ để đăng ký thường trú tại cùng một chỗ ở hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện sau:

Thứ nhất, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; trường hợp có nhiều thành viên cùng đăng ký tách hộ để lập thành một hộ gia đình mới thì trong số các thành viên đó có ít nhất một người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Thứ hai, được chủ hộ, chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đồng ý, trừ trường hợp thành viên hộ gia đình đăng ký tách hộ là vợ, chồng đã ly hôn mà vẫn được cùng sử dụng chỗ ở hợp pháp đó.

Thứ ba, nơi thường trú của hộ gia đình không thuộc các trường hợp:

– Chỗ ở nằm trong địa điểm cấm, khu vực cấm xây dựng hoặc lấn, chiếm hành lang bảo vệ quốc phòng, an ninh, giao thông, thủy lợi, đê điều, di tích lịch sử – văn hóa đã được xếp hạng…

– Chỗ ở mà toàn bộ diện tích nhà ở nằm trên đất lấn, chiếm trái phép hoặc chỗ ở xây dựng trên diện tích đất không đủ điều kiện xây dựng theo quy định của pháp luật.

– Chỗ ở đã có quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chỗ ở là nhà ở mà một phần hoặc toàn bộ diện tích nhà ở đang có tranh chấp, khiếu nại liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng nhưng chưa được giải quyết; Chỗ ở bị tịch thu, phá dỡ theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền…

Như vậy, nếu ngôi nhà bạn đang sống thỏa mãn các điều kiện nêu trên thì sẽ được phép tách thành các hộ riêng và có địa chỉ thường trú tại căn nhà đó.

Theo Baomoi.com

Cha mẹ phải bồi thường khi con chưa thành niên phạm tội

Bạn đọc hỏi: Xin hỏi luật sư, pháp luật quy định thế nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bố mẹ khi con chưa đủ 18 tuổi phạm tội? Mai Uyên (Vĩnh Phúc)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo quy định khoản 1, Điều 21 – Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi.

Theo đó, Điều 584 – BLDS 2015 đã nêu rõ căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đối với người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi), khoản 2, 3, Điều 586 – BLDS 2015 có quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:

– Người chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.

– Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

Ngoài ra, Điều 599 – BLDS 2015 cũng quy định trường hợp khác về bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian trường học trực tiếp quản lý như sau: Người chưa đủ 15 tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Trường học không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý; trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi phải bồi thường.

Như vậy, người chưa đủ 18 tuổi phạm tội mà gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác thì cha, mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định trên.

Trên đây là nội dung liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bố mẹ khi con chưa đủ 18 tuổi phạm tội. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tạm ngừng áp dụng các Chỉ thị 15, 16 và 19 trên toàn quốc

Ngày 12/10, Chính phủ ban hành Nghị quyết quy định tạm thời ‘Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19’ với 4 cấp độ dịch. Quy định này được áp dụng thống nhất trên toàn quốc.

Tối 12/10, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam thay mặt Chính phủ đã ký Nghị quyết 128 ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”. Nghị quyết nêu rõ khi áp dụng quy định mới, tạm thời không áp dụng các quy định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết 86 ngày 6/8/2021 của Chính phủ và các Chỉ thị số 15 ngày 27/3/2020, Chỉ thị số 16 ngày 31/3/2020, Chỉ thị số 19 ngày 24/4/2020 của Thủ tướng, Quyết định số 2686 ngày 31/5/2021 của Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống dịch COVID-19.

Trường hợp cần thiết phải áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch trên quy mô toàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cao hơn các biện pháp tại Quy định này thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Bộ Y tế.

Căn cứ vào các hướng dẫn của Bộ Y tế và các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố quyết định các biện pháp hành chính phù hợp bao gồm các quy định, hướng dẫn cụ thể về công suất, số lượng người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, văn hóa, văn nghệ, sự kiện tập trung đông người… và có thể linh hoạt áp dụng các biện pháp bổ sung cụ thể nhưng không trái với quy định của trung ương, không gây ách tắc lưu thông hàng hóa, sản xuất kinh doanh và đi lại, sinh hoạt của nhân dân.

Trường hợp các quy định, hướng dẫn của Trung ương không phù hợp, khả thi thì kịp thời báo cáo cơ quan ban hành quy định, hướng dẫn. Cơ quan ban hành quy định, hướng dẫn phải có chỉ đạo ngay để tháo gỡ vướng mắc đồng thời nghiên cứu sửa đổi quy định, hướng dẫn.

Nghị quyết mới của Chính phủ đề ra mục tiêu bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của người dân; hạn chế đến mức thấp nhất các ca mắc, ca chuyển bệnh nặng, tử vong do COVID-19; khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; thực hiện mục tiêu kép, đưa cả nước chuyển sang trạng thái bình thường mới sớm nhất có thể, phấn đấu trong năm 2021.

Nghị quyết nhấn mạnh, bảo đảm mục tiêu kép nhưng đặt sức khỏe, tính mạng người dân lên trên hết, trước hết; các giải pháp phòng, chống dịch phải dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với thực tiễn và điều kiện của đất nước; đảm bảo người dân được bảo vệ tốt nhất trước dịch bệnh, được tiếp cận dịch vụ y tế sớm nhất, nhanh nhất, ngay từ cơ sở; nhưng không gây ách tắc cho lưu thông, sản xuất.

Các giải pháp y tế phải đồng bộ giữa cách ly với xét nghiệm, điều trị, vaccine, theo phương châm “cách ly, xét nghiệm là then chốt, vaccine, thuốc điều trị là điều kiện tiên quyết”.

Nghị quyết mới phân chia rõ ràng 4 cấp độ dịch: Cấp 1 là nguy cơ thấp (bình thường mới) tương ứng với màu xanh; cấp 2 là nguy cơ trung bình tương ứng với màu vàng; cấp 3 là nguy cơ cao tương ứng với màu cam; cấp 4 là nguy cơ rất cao tương ứng với màu đỏ.

Cấp độ dịch được phân loại dựa trên ba tiêu chí, gồm tỉ lệ ca mắc mới tại cộng đồng/số dân/thời gian, độ bao phủ vaccine (lưu ý nhóm tuổi có nguy cơ cao, tỉ lệ tiêm mũi thứ nhất, tỉ lệ tiêm đủ liều) và khả năng thu dung, điều trị của các tuyến (lưu ý xác định rõ khả năng thu dung, điều trị hiện có và kế hoạch bổ sung).

Phạm vi đánh giá cấp độ dịch được chia nhỏ quy mô cấp xã. Quy định còn khuyến khích đánh giá từ phạm vi, quy mô nhỏ nhất có thể (dưới cấp xã) nhằm đảm bảo linh hoạt, hiệu quả.

Quy định nêu rõ, Bộ Y tế là cơ quan hướng dẫn các tiêu chí, phương pháp đánh giá và xác định cấp độ dịch. Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Y tế, UBND tỉnh/TP quyết định chuyển đổi cấp độ dịch. Trong trường hợp nâng cấp độ dịch thì phải thông báo trước tối thiểu 48 giờ cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp biết, có sự chuẩn bị trước khi áp dụng.

Đặc biệt, ngoài các biện pháp được nêu trong quy định, các tỉnh/TP có thể linh hoạt áp dụng các biện pháp bổ sung cụ thể nhưng không trái với quy định của trung ương, không gây ách tắc lưu thông hàng hóa, sản xuất, kinh doanh và đi lại, sinh hoạt của nhân dân.

Theo quy định, ở cấp độ 1, 2 và 3, việc đi lại của người dân đến từ các địa bàn có cấp độ dịch khác nhau sẽ không bị hạn chế, riêng ở cấp độ 3 thì cần tuân thủ điều kiện về tiêm chủng, xét nghiệm theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

Nếu dịch ở cấp độ 4, việc đi lại sẽ bị hạn chế, người dân cần tuân thủ các điều kiện về tiêm chủng, xét nghiệm, cách ly theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Trường hợp Bộ Y tế hướng dẫn cách ly tại nhà nhưng địa phương có địa điểm cách ly tập trung đảm bảo an toàn và được cá nhân người thuộc diện cách ly đồng ý thì có thể tổ chức cách ly tập trung thay vì cách ly tại nhà.

Cũng theo quy định, việc lưu thông, vận chuyển hàng hóa nội tỉnh hoặc liên tỉnh được phép hoạt động ở cả bốn cấp độ dịch. Riêng cấp độ 4, trong trường hợp cần thiết, UBND cấp tỉnh có thể quy định về số lượng người vận chuyển hàng bằng xe máy sử dụng công nghệ cùng tham gia lưu thông trong một thời điểm.

Đối với vận tải hành khách công cộng đường bộ, đường thủy nội địa, hàng hải (đảm bảo phòng chống dịch COVID-19), được phép hoạt động bình thường ở cấp độ 1; cấp độ 2 vẫn được hoạt động nhưng kèm theo điều kiện; cấp độ 3 và 4 thì dừng hoạt động hoặc hoạt động hạn chế và có điều kiện.

Ngoài ra, ở cấp độ 1, 2 và 3, các cơ sở kinh doanh dịch vụ bao gồm trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện ích, chợ đầu mối, nhà hàng, quán ăn, chợ truyền thống được hoạt động nếu đảm bảo các biện pháp phòng, chống dịch. Khi dịch ở cấp độ 4, các hoạt động này sẽ phải hạn chế.

Riêng cơ sở kinh doanh các dịch vụ có nguy cơ lây nhiễm cao như vũ trường, karaoke, massage, quán bar, Internet, trò chơi điện tử, làm tóc (bao gồm cắt tóc), làm đẹp… sẽ được hoạt động ở cấp độ 1, ngừng hoạt động hoặc hoạt động hạn chế ở cấp độ 2 và 3, bắt buộc ngừng hoạt động ở cấp độ 4.

Đáng chú ý, ở cả bốn cấp độ dịch, việc điều trị tại nhà đối với người nhiễm COVID-19 đều được áp dụng. Việc điều trị được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Y tế và quyết định của chính quyền địa phương phù hợp với điều kiện thu dung, điều trị tại địa phương và điều kiện ăn ở, sinh hoạt, nguyện vọng của người bị nhiễm.

Theo Baomoi.com

Đến bệnh viện khám, điều trị làm gì để tránh lây nhiễm Covid-19?

Khi đến bệnh viện, người bệnh cần khai báo y tế trung thực và đo thân nhiệt theo hướng dẫn. Người dân cũng phải tuân thủ khoảng cách an toàn trên 2m, đặc biệt tại các khu vực Khám bệnh cấp cứu, Khu vực bếp ăn…

Khám chữa bệnh là nhu cầu thiết yếu và không nên trì hoãn tuy nhiên đến bệnh viện, người dân phải đối mặt nguy cơ lây nhiễm Covid-19. Đặc biệt, thời gian qua, nhiều ổ dịch đã xuất hiện tại bệnh viện. Vì vậy, vấn đề làm thế nào để bảo vệ an toàn khi đến bệnh viện sau dịch Covid-19 được nhiều người dân quan tâm.

Theo hướng dẫn của Khoa Y, ĐH Y dược TP.HCM, trước khi đi khám chữa bệnh, người dân cần chuẩn bị đầy đủ các hồ sơ. Đó là hồ sơ, tóm tắt bệnh án của những lần khám bệnh trước, giấy hẹn tái khám (có thể bằng tin nhắn SMS của các bệnh viện) hoặc chỉ định của bác sĩ điều trị.

Xét nghiệm tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Hiện tại, liên quan đến bệnh viện này có 78 ca dương tính SARS-CoV-2 tại Hà Nội và các tỉnh.

Ngoài ra, người dân chuẩn bị đơn thuốc có ghi ngày hẹn khám lại, giấy chỉ định, giới thiệu thực hiện cận lâm sàng. Tùy trường hợp, người dân chuẩn bị thêm giấy giới thiệu, chuyển tuyến khám chữa bệnh. Giấy chỉ định nhập viện điều trị, giấy xác nhận của địa phương về tình trạng sức khỏe và cần đi khám chữa bệnh.

Đặc biệt, người dân cũng cần chuẩn bị các loại giấy tờ tùy thân. Trong trường hợp không có các giấy tờ trên, người đến khám có thể liên hệ trực tiếp với nơi đến khám để được hỗ trợ cung cấp lại và hướng dẫn đăng ký khám bệnh.

Khi nhập viện, người bệnh chỉ được phép có 1 người nhà theo cùng để chăm sóc (trừ khi có những lý do khác phù hợp). Khi đến viện khám bệnh, người bệnh nếu cần người giúp nâng đỡ, cũng chỉ được 1 người nhà đi theo hỗ trợ.

Đối với người bệnh đến thăm khám: Người bệnh cần khai báo y tế trung thực và đo thân nhiệt theo hướng dẫn. Những trường hợp nghi nhiễm Covid-19 có triệu chứng và yếu tố dịch tễ rõ ràng, được cách ly tạm thời và nhanh chóng chuyển đến cơ sở điều trị Covid-19 theo quy định.

Người dân cần tuân thủ khoảng cách an toàn trên 2m đối với người bệnh đến khám khác và nhân viên y tế, đặc biệt tại các khu vực Khám bệnh cấp cứu, Khu vực Bếp ăn…Người bệnh điều trị nội trú được 1 người chăm sóc.

Đối với người nhà chăm sóc bệnh nhân: Thực hiện đo thân nhiệt mỗi ngày theo hướng dẫn của nhân viên y tế. Người nhà đeo khẩu trang trong quá trình chăm sóc người bệnh và khi di chuyển tại các khoa, phòng trong bệnh viện. Người nhà cần rửa tay thường xuyên với dung dịch sát khuẩn khuẩn tay nhanh và hạn chế đi ra ngoài khu vực bệnh viện trong thời gian chăm sóc người bệnh.

Ngoài ra, mỗi bệnh viện sẽ có những quy trình khám bệnh khác nhau, người dân có thể tham khảo quy trình khám bệnh của từng bệnh viện trên các kênh thông tin chính thức của bệnh viện (facebook, web…).

Theo Baomoi.com

Quy định mới về điều kiện để ra vào 12 tỉnh, thành phố

Tới thời điểm hiện tại, phần lớn các tỉnh, thành đều yêu cầu người dân cần có giấy xét nghiệm PCR âm tính trong vòng 48 đến 72 giờ mới được lưu thông vào địa phương.

Hà Nội

Các chốt kiểm soát cửa ngõ cho phép người dân vào thành phố với các điều kiện sau:

– Có giấy xác nhận công tác, giấy đi đường của công ty, địa phương đến và giấy xét nghiệm PCR âm tính trong 72 giờ…

– Xe vận tải hàng hóa có mã nhận diện luồng xanh được vào Hà Nội theo quy định trước đó.

TPHCM

Người dân TPHCM từ các tỉnh, thành phố khác trở về phải đảm bảo các điều kiện:

– Có giấy tờ chứng minh thường xuyên cư trú, làm việc tại TPHCM như: Hộ khẩu, giấy tạm trú, căn cước công dân hoặc chứng minh thư, giấy khai sinh (đối với trẻ em).

– Có giấy chứng nhận kết quả xét nghiệm âm tính Covid-19 còn hiệu lực (trong vòng 72 giờ).

Người dân từ TPHCM đi tới các tỉnh, thành phố khác trong trường hợp cấp bách (đưa đón người bệnh hiểm nghèo, con nhỏ, phụ nữ mang thai;… ), cần đáp ứng các điều kiện:

– Là người mắc Covid-19 đã khỏi bệnh dưới 06 tháng hoặc đã tiêm vaccine phòng Covid-19 (ít nhất một mũi và đã đủ 14 ngày sau tiêm).

– Có kết quả xét nghiệm Covid-19 âm tính còn hiệu lực.

Đà Nẵng

Công dân từ các địa phương khác có nhu cầu đi vào TP Đà Nẵng phải đảm bảo các điều kiện như sau:

– Công dân đến/về từ các khu vực (tổ/xóm/thôn/ấp…) không có ca mắc Covid-19 trong cộng đồng trong vòng 14 ngày;

– Khu vực không phải là khu vực cách ly, phong tỏa;

– Xã, phường không đang áp dụng Chỉ thị số 15, Chỉ thị số 16 của Thủ tướng Chính phủ;

– Khu vực không phải là khu vực nguy cơ cao, nguy cơ rất cao theo Quyết định 2686/QĐ-BCĐQG ngày 31/5/2021 của Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid-19.

– Có kết quả xét nghiệm âm tính với SARS-CoV-2 trong vòng 72 giờ kể từ khi lấy mẫu đến khi vào TP Đà Nẵng (kết quả xét nghiệm bằng phương pháp RT-PCR hoặc test nhanh).

Trước khi vào TP Đà Nẵng, công dân thực hiện đăng ký trực tuyến vào TP Đà Nẵng để được cấp mã QR vào thành phố. Mã QR này thay thế cho khai báo y tế vào thành phố. Trường hợp tổ chức có nhiều người đi vào Đà Nẵng, mỗi thành viên phải đăng ký để có mã QR.

Để vào TP Đà Nẵng, công dân đăng ký trên hệ thống trực tuyến (vào mục “Đăng ký vào Đà Nẵng” trên app mobile Danang Smart City; hoặc vào mục “Người dân khai báo, đăng ký vào TP Đà Nẵng” trên trang https://khaibaoyte.danang.gov.vn) và lưu lại mã QR được cấp (bằng hình ảnh trên điện thoại di động hoặc in trên giấy) để sử dụng khi di chuyển vào TP Đà Nẵng. Công dân cần đăng ký và được cấp mã QR trước khi rời khỏi nơi lưu trú để đến TP Đà Nẵng.

Nam Định

Tỉnh Nam Định dừng tiếp nhận người dân từ các địa phương đang giãn cách theo Chỉ thị 16; không tiếp nhận người dân về từ tỉnh Hà Nam (trừ những người cư trú trên địa bàn các huyện Bình Lục, Lý Nhân, Thanh Liêm).

– Các trường hợp về từ khu vực chưa có dịch: Phải có giấy xét nghiệm âm tính bằng phương pháp PCR trong vòng 72 giờ hoặc test nhanh trong 48 giờ; thực hiện nghiêm việc khai báo y tế với chính quyền địa phương.

– Các trường hợp về từ vùng thực hiện Chỉ thị 15:

+ Tiêm đủ 2 mũi vaccine phải cách ly tập trung 7 ngày, sau đó cách ly tại nhà 14 ngày.

+ Chưa tiêm hoặc chưa tiêm đủ mũi vaccine: cách ly tập trung 14 ngày, sau đó tiếp tục cách ly tại nhà 14 ngày.

Người dân từ vùng dịch (kể cả Hà Nội) đi/về tỉnh Nam Định, nếu đã tiêm đủ 2 mũi vaccine phòng Covid-19 vẫn phải cách ly tại nhà 7 ngày, sau đó tiếp tục tự theo dõi sức khỏe 14 ngày; chưa tiêm hoặc tiêm 1 mũi vaccine phòng Covid-19 phải cách ly tại nhà 14 ngày.

Trường hợp người già, trẻ nhỏ, người bệnh nặng được phép cách ly tại nhà theo quy định của ngành y tế.

Kinh phí liên quan đến công tác cách ly, xét nghiệm do người dân tự chi trả.

Người dân ở các địa phương đã qua 14 ngày chưa có ca mắc mới Covid-19 khi đi/về tỉnh Nam Định phải tự theo dõi sức khỏe tại nhà, nơi lưu trú.

Hải Phòng

TP Hải Phòng cách ly tập trung 14 ngày người về từ địa phương đang thực hiện Chỉ thị 16 (nếu chưa tiêm vaccine hoặc đã tiêm mũi 2 nhưng chưa đủ 14 ngày); cách ly tại nhà 14 ngày với người tiêm đủ hai liều vaccine.

Người về từ nơi giãn cách theo Chỉ thị 15, Chỉ thị 19 phải cách ly tại nhà 7 ngày nếu đã tiêm đủ hai liều vaccine; cách ly tại nhà 14 ngày đối với người chưa tiêm vaccine, tiêm một mũi hoặc tiêm mũi hai nhưng chưa qua 14 ngày. Người về từ nơi không có dịch chỉ cần khai báo y tế.

Quảng Ninh

Tỉnh Quảng Ninh yêu cầu người dân ra, vào địa bàn phải có kết quả xét nghiệm âm tính bằng phương pháp PCR không quá 48 giờ, tiêm đủ hai mũi vắc xin.

Tài xế, phụ xe của xe tải, xe container chở hàng hóa liên tỉnh phải có kết quả xét nghiệm bằng phương pháp PCR âm tính tối đa 48 giờ kể từ giờ lấy mẫu. Trường hợp này không bắt buộc tiêm đủ hai mũi vaccine.

Người về từ các địa phương đang áp dụng Chỉ thị 15 và 16 phải cách ly tập trung có trả phí 14 ngày, sau đó cách ly tại nhà 7 ngày.

Đối với người ra khỏi địa bàn tỉnh được sử dụng kết quả xét nghiệm PCR tối đa 24 giờ kể từ khi có kết quả xét nghiệm đến khi trở về tỉnh. Trong trường hợp trở về Quảng Ninh nhưng đã quá 24 giờ kể từ khi có kết quả xét nghiệm trước khi đi khỏi tỉnh, thì phải xét nghiệm lại.

Thái Bình

Tỉnh Thái Bình yêu cầu người và phương tiện ra, vào địa phương phải có kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 âm tính trong vòng 72 giờ kể từ khi có kết quả xét nghiệm. Cần xuất trình một trong các giấy tờ tùy thân như: Chứng minh thư nhân dân, thẻ căn cước công dân, hộ chiếu, giấy phép lái xe, giấy khai sinh để đối chiếu với giấy xét nghiệm và phân loại vùng dịch.

Đối với người từ các tỉnh, thành phố, địa phương, khu vực có dịch đang áp dụng biện pháp giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 15/CT-TTg, Chỉ thị số 19/CT-TTg khi vào tỉnh cần tiêm đủ liều vaccine phòng Covid-19; liều cuối cùng nằm trong thời gian từ đủ 14 ngày để dưới 12 tháng tính đến thời điểm đến, về tỉnh.

Ngoài ra, phải thực hiện cách ly y tế tại nhà hoặc nơi lưu trú 7 ngày kể từ ngày đến, về địa phương, tự trả phí xét nghiệm 02 lần vào ngày đầu, ngày thứ 7 và tự theo dõi sức khỏe tại nhà 7 ngày tiếp theo.

Đối với lái xe, phụ xe tải, xe container chở hàng hóa liên tỉnh phải có giấy xét nghiệm âm tính với SARS-CoV-2 trong vòng 2 giờ kể từ khi lấy mẫu xét nghiệm, khuyến khích đã tiêm 2 mũi vaccine phòng Covid-19, không chở quá 2 người trên ca bin.

Vĩnh Phúc

Tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị những người dân quê ở tỉnh này hiện cư trú tại địa phương áp dụng Chỉ thị 16 không về quê; trường hợp không tuân thủ sẽ phải cách ly tập trung.

Những người ở địa phương giãn cách theo Chỉ thị 15 vào Vĩnh Phúc phải thuộc diện cán bộ, công chức, chuyên gia, người lao động có hợp đồng với các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và có 3 loại giấy tờ gồm: giấy tờ tùy thân, giấy xác nhận của đơn vị, doanh nghiệp và giấy test nhanh hoặc PCR âm tính Covid-19 trong 72 giờ.

Những người về từ địa phương không có dịch không cần phải có xét nghiệm Covid-19, nhưng phải có giấy tờ tùy thân, giấy xác nhận của cơ quan, doanh nghiệp, địa phương và viết bản cam kết.

Lào Cai

Tỉnh Lào Cai yêu cầu người dân ra, vào tỉnh bằng phương tiện vận tải hàng không, đường sắt, hàng hải (trừ tuyến từ bờ ra đảo) và phải tuân thủ “Thông điệp 5K”; khai báo y tế theo quy định của Bộ Y tế; xét nghiệm SARS-CoV-2 có kết quả âm tính trong vòng 72 giờ (kể từ khi nhận kết quả) bằng PCR hoặc test kháng nguyên nhanh.

Lào Cai không yêu cầu xét nghiệm đối với người đã tiêm một liều vaccine sau 3 tuần hoặc đã tiêm đủ liều vaccine, đã khỏi bệnh Covid-19 trong vòng 6 tháng.

Vĩnh Long

Để được đi ra ngoài tỉnh, người dân cần có đơn và các giấy tờ liên quan chứng minh nhu cầu đi ra ngoài tỉnh của mình là rất cấp thiết, được chính quyền cấp cơ sở xác nhận và nộp tại UBND cấp huyện, để trình Chủ tịch UBND tỉnh cho phép và có văn bản đề nghị UBND tỉnh nơi đến đồng ý tiếp nhận.

Khi người dân từ vùng dịch trở về tỉnh phải thực hiện cách ly y tế tập trung và xét nghiệm như đối với trường hợp F1 và trả các chi phí theo quy định.

Riêng nhà đầu tư đến làm việc, đầu tư tại tỉnh; công nhân tham gia thực hiện các công trình, dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh; giáo viên từ các địa phương “vùng xanh” trở về nếu đã được tiêm đủ liều vaccine phòng Covid-19 hoặc có giấy xác nhận khỏi bệnh Covid-19 thì tự theo dõi sức khỏe tại nhà, nơi lưu trú theo quy định. Đồng thời, thực hiện nghiêm quy tắc “5K”, khai báo với cơ quan y tế.

Đồng Tháp

– Đối với những người trở về từ các tỉnh, thành phố có dịch Covid-19 ở mức nguy cơ rất cao hoặc đang áp dụng giãn cách theo tinh thần Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ:

Chưa được phép trở về tỉnh, trừ lý do đặc biệt được cấp có thẩm quyền đồng ý (thực hiện nhiệm vụ được cơ quan có thẩm quyền phân công, vận chuyển hàng hóa, sản xuất, kinh doanh, xúc tiến, đầu tư, tư vấn, xây dựng, phương tiện phục vụ việc cách ly, chăm sóc sức khỏe, tỉnh tổ chức đón, rước…) và phải thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định.

– Đối với những người trở về từ các tỉnh, thành phố có dịch Covid-19 còn lại:

+ Những người đã tiêm đủ liều vaccine phòng Covid-19 sau ít nhất 10 ngày hoặc đã khỏi bệnh Covid-19 trong thời gian 6 tháng phải có kết quả xét nghiệm RT-PCR âm tính với SARS-CoV-2 trong thời hạn 3 ngày trước khi vào địa bàn tỉnh; tự theo dõi sức khỏe tại nhà, nơi lưu trú trong 7 ngày; thực hiện xét nghiệm 2 lần vào ngày đầu và ngày thứ 7 do người về địa phương tự chi trả.

+ Những người chưa tiêm hoặc tiêm chưa đủ liều vaccine phải có kết quả xét nghiệm RT-PCR âm tính với SARS-CoV-2 trong thời hạn 3 ngày trước khi vào địa bàn tỉnh; thực hiện cách ly y tế tại nhà, nơi lưu trú 14 ngày kể từ ngày trở về địa phương, tiếp tục tự theo dõi sức khỏe trong thời gian 14 ngày tiếp theo.

Thực hiện xét nghiệm 3 lần vào ngày đầu, ngày thứ 7 và ngày thứ 14 trong thời gian cách ly y tế tại nhà, nơi lưu trú do người trở về địa phương tự chi trả.

Trường hợp có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-COV-2 thì xử lý theo quy định.

Hậu Giang

Người dân không tự ý đi ra ngoài tỉnh, trường hợp cấp bách phải được sự cho phép (bằng văn bản) của Sở Chỉ huy phòng, chống dịch Covid-19.

Đối với các nhà đầu tư đến làm việc tại tỉnh Hậu Giang phải có văn bản gửi đến UBND tỉnh trước và đảm bảo các điều kiện:

– Tiêm đủ liều vaccine phòng Covid-19 theo quy định;

– Có kết quả xét nghiệm âm tính còn hiệu lực;

– Được bố trí ở và làm việc tại địa điểm lưu trú có phương án phòng, chống dịch theo quy định.

Đối với người dân đã tiêm đủ liều vaccine phòng Covid-19 hoặc đã khỏi bệnh Covid-19 (có giấy xác nhận khỏi bệnh Covid-19 hoặc giấy ra viện) và có kết quả xét nghiệm âm tính còn hiệu lực được vào tỉnh nhưng khi đến/về địa phương phải thực hiện theo dõi sức khỏe tại nơi cách ly tập trung trong thời gian 7 ngày, thực hiện quy định 5K; thực hiện xét nghiệm 2 lần vào ngày thứ 2, ngày thứ 7, sau đó tiếp tục tự theo dõi sức khỏe 7 ngày.

Trường hợp người chưa tiêm hoặc tiêm một liều vaccine phòng Covid-19 hoặc người đã hoàn thành thời gian cách ly tập trung từ ngoài tỉnh tự về, có kết quả xét nghiệm âm tính còn hiệu lực thì phải cách ly tập trung 14 ngày tại các cơ sở cách ly tập trung trong tỉnh; thực hiện xét nghiệm 3 lần vào ngày thứ 2, ngày thứ 7 và ngày thứ 14, sau đó tiếp tục theo dõi sức khỏe tại nơi cư trú 14 ngày.

Theo Dantri.com

Bản án ly hôn có hiệu lực, vợ có thể yêu cầu chồng ra khỏi nhà không?

Bạn đọc Nguyễn Thị Thanh Huyền (TP Bắc Ninh) hỏi: Tôi và chồng sống với nhau không hạnh phúc nên tôi đã nộp đơn ly hôn. Tòa đã tuyên án và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật tôi có quyền yêu cầu chồng ra khỏi nhà hay không? Căn nhà là tài sản riêng của tôi, có trước hôn nhân.

Luật sư xin tư vấn như sau:

Căn cứ điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn như sau:

Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Như vậy, khi một trong hai bên gặp khó khăn về chỗ ở, đáp ứng điều kiện nêu trên thì sẽ được quyền lưu cư trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, điều này sẽ không mặc nhiên chồng phải dọn đi ngay khi bản án có hiệu lực hay quan hệ hôn nhân chấm dứt.

Trên đây là nội dung liên quan đến câu hỏi của chị Huyền. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ bị xử lý hình sự

Với mục đích nhân đạo, giúp những phụ nữ không thể mang thai nhưng muốn có con được làm mẹ, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã công nhận việc mang thai hộ với mục đích nhân đạo là hợp pháp. Tuy nhiên, trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại bị cấm và bị xử lý hình sự.

Pháp luật chỉ công nhận việc mang thai hộ với mục đích nhân đạo. 

* Cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại

Thời gian qua, cơ quan chức năng của một số tỉnh, thành đã triệt phá những đường dây mang thai hộ gây bức xúc trong dư luận. Điển hình như ngày 20-4, Công an TP.Nam Định bắt giữ Bùi Thị Hiền (33 tuổi, TP.Nam Định, tỉnh Nam Định) và Khổng Thị Lan (34 tuổi, quê H.Yên Bình, tỉnh Yên Bái) để điều tra về hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Theo điều tra bước đầu của cơ quan công an, biết nhiều người có nhu cầu tìm người mang thai hộ nên Hiền đã tổ chức đường dây mang thai hộ để trục lợi bất chính. Sau khi tìm được những phụ nữ chấp nhận “đẻ thuê”, Hiền và Lan đứng ra kết nối, giao dịch với người có nhu cầu với giá 850 triệu đồng/trường hợp. Trong đó, người “đẻ thuê” được Hiền trả 250 triệu đồng. Thời điểm các đối tượng bị bắt, cơ quan chức năng phát hiện trong đường dây này có 9 phụ nữ đang mang thai hộ từ 12-16 tuần.

Việc tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật và còn kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng (dễ phát sinh tranh chấp, nguy hiểm đến quyền lợi, sức khỏe, tính mạng của phụ nữ…). Do đó, Điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ bị phạt tiền từ 50-200 triệu đồng hoặc bị xử phạt hình sự lên đến 5 năm tù.

Tương tự, vào tháng 1-2021, Công an Q.Long Biên (TP.Hà Nội) cũng đã bắt giữ Hoàng Tuệ Tâm (27 tuổi, ngụ H.Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên) để điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tại cơ quan công an, Tâm khai đã tổ chức cho nhiều người mang thai hộ với mức giá từ 620-750 triệu đồng/trường hợp. Trong đó, những người mang thai hộ chủ yếu là sinh viên. Ngoài ra, một số bị hại vì tin tưởng Tâm nên đã chuyển tiền thuê người mang thai hộ và bị Tâm chiếm đoạt hàng trăm triệu đồng.

Tại Đồng Nai, thời gian qua tuy chưa phát hiện trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại, nhưng nhiều người vẫn không biết rằng hành vi thuê người mang thai hộ vì mục đích thương mại là phạm pháp và sẽ bị xử lý hình sự.

Chị L. (ngụ H.Trảng Bom) cho biết, chị lấy chồng đã 7 năm, sau nhiều năm chữa hiếm muộn, vô sinh vẫn không hiệu quả nên chị quyết định lên mạng tìm thông tin về việc nhờ mang thai hộ. Theo chị L., để có thể nhờ người mang thai hộ, chị sẽ phải tốn nhiều tiền nhưng quy trình khá nghiêm ngặt và nhiều quy định vợ chồng chị không thể đáp ứng. Vì quá khao khát có con nên chị đã thử tìm hiểu “dịch vụ” đẻ thuê. Chị không hề biết hành vi thuê người mang thai hộ bị pháp luật nghiêm cấm.

* Mang thai hộ vì mục đích thương mại là phạm pháp

Một cán bộ Viện KSND tỉnh cho biết, hiện có nhiều phụ nữ do không có khả năng mang thai nhưng khao khát làm mẹ nên mới phát sinh quan hệ pháp luật quy định về việc mang thai hộ. Tuy nhiên, việc mang thai hộ hiện khá phức tạp, khó để xác định hành vi phạm pháp, nhất là khi có sự hỗ trợ, giúp sức của bác sĩ, nhân viên y tế.

Theo cán bộ này phân tích, pháp luật quy định về việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mục đích thương mại. Tại mục 2, chương V, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 công nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là hợp pháp. Tuy nhiên, tại Điều 13 Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28-1-2015 của Chính phủ quy định, việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chỉ có một số cơ sở y tế có đủ điều kiện thực hiện.

Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có một số quy định cơ bản như: các bên phải tự nguyện; có xác nhận người nhờ mang thai hộ không có khả năng sinh con ngay cả khi đã áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng không có con chung… Riêng người mang thai hộ phải là thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc chồng; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; nếu đã có chồng phải được sự đồng ý của chồng. Ngoài ra, còn có một số quy định khắt khe khác… Đây cũng là những lý do khiến tình trạng mang thai hộ vì mục đích thương mại khá phổ biến.

Trong khi đó, việc tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại bị pháp luật nghiêm cấm và là loại tội phạm mới lần đầu tiên được quy định tại Điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015. Các đối tượng thường hoạt động biến tướng và tinh vi nên quá trình điều tra sẽ gặp nhiều khó khăn.

Do đó, theo vị đại diện Viện KSND tỉnh, trong trường hợp phát hiện các vụ việc liên quan đến hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại, cơ quan điều tra ngay từ đầu phải thu thập chứng cứ nhanh, chính xác như: xác định nhân thân, mối quan hệ giữa người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ và người đứng ra tổ chức; yêu cầu các cơ quan y tế cung cấp đầy đủ hồ sơ, thủ tục trước khi các bên làm thủ tục mang thai hộ; trưng cầu giám định ADN giữa đứa bé và các bên. Đặc biệt, loại tội phạm này thường giao dịch qua mạng xã hội nên cần nhanh chóng truy xuất dữ liệu, tránh tình trạng các đối tượng xóa tài khoản và các thông tin cần thiết cho quá trình điều tra. Người có nhu cầu mang thai hộ cũng phải tìm hiểu thật kỹ về các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động này, luôn tỉnh táo để không bị các đối tượng lợi dụng, lừa đảo nhằm trục lợi.

Theo Baomoi.com

TAND tối cao lưu ý một số nội dung trong xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài

Để tạo điều kiện thuận tiện cho Tòa án xem xét thụ lý đơn, giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, mới đây, TAND tối cao đã ban hành công văn số 114/TANDTC-HTQT lưu ý các Tòa án một số vấn đề về việc xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Liên quan đến thông tin mà đương sự phải cung cấp cho Tòa án để xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, theo TAND tối cao, khi đề nghị Tòa án xác minh địa chỉ của người nước ngoài, công ty, doanh nghiệp có trụ sở ở nước ngoài, công dân Việt Nam ở nước ngoài, người khởi kiện, người yêu cầu, đương sự phải cung cấp cho Tòa án các thông tin có được về cá nhân, doanh nghiệp đó.

Trong đó phải có các thông tin đối với việc xác minh địa chỉ của người nước ngoài như: Họ và tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, giới tính, số hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế hộ chiếu, số căn cước công dân của người nước ngoài cần được xác minh địa chỉ. Những thông tin này có trên các tài liệu, giấy tờ bao gồm: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài: giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú, giấy chứng nhận kết hôn, giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân của người nước ngoài… do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp và các tài liệu, giấy tờ khác có các thông tin nêu trên mà đương sự có được.

Đối với việc xác minh địa chỉ của doanh nghiệp, công ty nước ngoài: Tên doanh nghiệp, công ty, mã số đăng ký doanh nghiệp, công ty, mã số thuế của doanh nghiệp, công ty cần được xác minh địa chỉ. Những thông tin này có thể tồn tại trong các tài liệu, giấy tờ như: Hợp đồng, thư tín giao dịch, telegram, fax, telex, thư điện tử… và các tài liệu, giấy tờ khác có các thông tin nêu trên mà đương sự có được.

Đối với việc xác minh địa chỉ của công dân Việt Nam ở nước ngoài: Khi đề nghị Tòa án xác minh địa chỉ của công dân Việt Nam ở nước ngoài, người khởi kiện, người yêu cầu hoặc đương sự đề nghị Tòa án đưa công dân Việt Nam ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải cung cấp cho Tòa án các thông tin như: Họ và tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, quốc tịch, số hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế hộ chiếu, số căn cước công dân hoặc số chứng minh thư nhân dân của người cần được xác minh địa chỉ.

Những thông tin này có trên các tài liệu, giấy tờ bao gồm: Hộ chiếu Việt Nam, thẻ căn cước công dân, chứng minh thư nhân dân, giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp và các giấy tờ, tài liệu khác có các thông tin nêu trên.

Trường hợp đương sự không đề nghị nhưng Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự, thì Tòa án yêu cầu đương sự đã có ý kiến hoặc cung cấp tài liệu, giấy tờ về sự liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài cung cấp địa chỉ của đương sự ở nước ngoài đó.

Trong trường hợp không cung cấp được địa chỉ, đương sự phải cung cấp một trong các thông tin nêu tại Tiểu mục 3.1 Mục 3 của công văn này để Tòa án tiến hành xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài.

Về các trường hợp không ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự, TAND tối cao cho rằng, đối với các nước cùng với Việt Nam là thành viên Hiệp định tương trợ tư pháp, Công ước tống đạt giấy tờ, Công ước thu thập chứng cứ nêu tại công văn này đã cho biết không có thẩm quyền xác minh địa chỉ của đương sự, thì Tòa án giải thích cho đương sự không có cơ sở pháp lý để Tòa án Việt Nam ủy thác cho các nước này xác minh địa chỉ của đương sự trên lãnh thổ nước đó. Đương sự phải tự tìm kiếm địa chỉ của đương sự ở nước ngoài để cung cấp cho Tòa án.

Tòa án không ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự ở nước đó trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu, người đề nghị đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cung cấp được cho Tòa án một trong các thông tin nêu tại Mục 3 của công văn này.

Tòa án không ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ nếu đương sự nêu tại Tiểu mục 3.2 Mục 3 của công văn này không cung cấp được thông tin về đương sự ở nước ngoài theo yêu cầu của Tòa án.

Trường hợp nguyên đơn, bị đơn hoặc đương sự khác cung cấp được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, không phân biệt địa chỉ đó đương sự có được từ nhiều năm về trước hoặc tại thời gian gần nhất so với thời điểm cung cấp địa chỉ này cho Tòa án, thì Tòa án tiến hành tống đạt văn bản tố tụng hoặc thu thập chứng cứ đối với đương sự ở nước ngoài theo địa chỉ đã được cung cấp mà không thực hiện việc ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự.

Trường hợp Tòa án muốn xác minh địa chỉ của đương sự ở các nước khác nêu tại công văn này, thì cần liên hệ trước với Bộ Tư pháp (Cơ quan Trung ương đầu mối của Việt Nam theo quy định tại các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp mà Việt Nam là thành viên), để được hỗ trợ, cung cấp thông tin.

Ngoài các nội dung trên, TAND tối cao còn lưu ý về một số nội dung khác như: Cơ sở pháp lý và thực tiễn để Tòa án yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài; các trường hợp Tòa án có thể ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự; thủ tục ủy thác tư pháp cho nước ngoài, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự…

Theo Baomoi.com

Làm thế nào để giành quyền nuôi con khi ly hôn?

Câu hỏi: Hiện tôi đang muốn ly hôn với chồng. Luật sư cho tôi hỏi làm thế nào để giành quyền nuôi con khi ly hôn ạ? Mong Luật sư tư vấn (Chị Mai Anh, Hòa Bình)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

  1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
  2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
  3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Với những điều luật trên có thể thấy, theo nguyên tắc việc nuôi con khi ly hôn trước tiên là vấn đề của mỗi bên sau khi thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Con dưới 36 tháng tuổi sẽ do người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Tuy nhiên, để công bằng mọi mặt về quyền lợi cho con, Tòa án sẽ xem xét các yếu tố cần thiết để đưa ra quyết định sẽ giao con cho ai nuôi dưỡng. Chính vì vậy, cách giành quyền nuôi con khi ly hôn là bạn cần chứng minh được mình có đủ điều kiện để nuôi con tại Tòa án.

Như vậy, với trường hợp con cái dưới 36 tháng tuổi được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng (trừ những trường hợp đã được thỏa thuận khác giữa bố và mẹ).

Nếu con trên 36 tháng tuổi thì quyền nuôi con của bố và mẹ là ngang nhau. Lúc này, Tòa án sẽ xem xét đến những yếu tố về vật chất và tinh thần để đưa ra quyết định.

Đề giành quyền nuôi con, bạn cần chứng minh được bạn có đủ những điều kiện sau đây:

– Điều kiện về vật chất để giành quyền nuôi con:

+ Chứng minh thu nhập thực tế của bạn.

+ Có công việc ổn định, môi trường sinh hoạt, điều kiện học tập cho con, có nhà ở hợp pháp.

Để có thể chứng minh được điều kiện vật chất của mình, cần có mức thu nhập cao hơn chồng mình để đảm bảo nuôi dưỡng tốt cho con. Ngoài ra, để giành quyền nuôi con cần cung cấp các giấy tờ chứng thực đi kèm như: hợp đồng lao động, sổ đỏ…

– Điều kiện về mặt tinh thần để giành quyền nuôi con:

Với điều kiện này sẽ xét trên tình cảm dành cho con cái, nhân cách đạo đức, thời gian dạy dỗ, chăm sóc con, thời gian vui chơi cùng con…của bố hoặc mẹ.

Chính vì vậy, để có thể giành quyền nuôi con, bạn cần chứng minh được bạn có đầy đủ điều kiện về mặt vật chất và tinh thần. Nếu bạn không đủ điều kiện hoặc chồng bạn không đủ điều kiện, hoặc không có tài sản nào, việc đó đồng nghĩa với việc không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con cũng như giành quyền nuôi con. Lúc này, quyền lợi sẽ dành cho người đủ điều kiện hơn.

Một số lưu ý khi giành quyền nuôi con sau khi ly hôn:

Bên cạnh những điều kiện cho con về mặt vật chất và tinh thần, cũng có một số lưu ý khi giành quyền nuôi con sau ly hôn mà bạn cần biết.

Với trường hợp bạn muốn giành quyền nuôi con, ngoài việc chứng minh với Tòa án khả năng và điều kiện vật chất, tinh thần của mình thì bạn cũng phải chứng minh được chồng bạn hoàn toàn không nuôi dưỡng và chăm sóc tốt cho con cái, ví dụ: đối phương có những hành vi bạo lực với con, hay những thái độ không quan tâm, bỏ mặc con, để có thể giành quyền nuôi con.

Trên đây là nội dung liên quan đến việc làm thế nào để giành quyền nuôi con khi ly hôn. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com