Chống thất thu thuế TMĐT: Có nên giao quyền điều tra ban đầu cho Tổng cục Thuế?

Để chống thất thu thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT), kinh doanh trên nền tảng số, Tổng cục Thuế sẽ hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức theo hướng nâng cao vai trò của một số đơn vị có thể làm nhiệm vụ điều tra. Có ý kiến cho rằng, nên trao quyền điều tra cho cơ quan thuế để chống thất thu.

Đề xuất Tổng cục Thuế được quyền điều tra

Để quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử (TMĐT), Tổng cục Thuế đã trình Bộ Tài chính phê duyệt Đề án “Quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT tại Việt Nam”, trong đó tập trung vào các nhóm giải pháp quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT như: Xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý; phối hợp các bộ, ngành, doanh nghiệp, hiệp hội để quản lý hoạt động kinh doanh TMĐT; hiện đại hóa công tác quản lý thuế một cách toàn diện theo hướng áp dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo.

Đặc biệt, Tổng cục Thuế đã và đang từng bước củng cố địa vị pháp lý một số vụ, đơn vị của Tổng cục Thuế trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. Cụ thể, đề xuất sửa pháp luật liên quan (Luật Quản lý thuế, Luật Tổ chức các cơ quan điều tra, Luật Tố tụng hình sự…), trong đó cho phép Tổng cục Thuế có chức năng điều tra.

Liên quan đến đề xuất này, theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, gồm: Bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, cảnh sát biển, kiểm ngư, công an nhân dân, quân đội nhân dân. Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay đó là hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh trên nền tảng số diễn ra khá sôi động, đặt ra vấn đề quản lý thuế đối với hoạt động này.

“Để ngăn chặn, cũng như có biện pháp răn đe đối với những hành vi vi phạm pháp luật về thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, tôi cho rằng, nên trao thẩm quyền điều tra ban đầu cho cơ quan thuế”.

Giải thích về kiến nghị này, có ý kiến cho rằng, hiện nay cơ quan điều tra đang quá tải, không có nhiều cán bộ điều tra am hiểu chuyên sâu lĩnh vực thuế, vì đây là lĩnh vực chuyên ngành. “Như trên đã nêu, trong số những cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có cơ quan thuế. Trong khi đó, tội phạm liên quan đến thuế xuất hiện rất nhiều trong những năm gần đây, với những thủ đoạn rất tinh vi”.

Cần có lộ trình, cơ chế quản lý chặt chẽ

Cũng có ý kiến cho rằng, nếu cho phép Tổng cục Thuế có chức năng điều tra, thì có thể dẫn đến sự lạm quyền. Luật sư Lê Thị Hồng Vân cho rằng, sự lo lắng là đúng. Tuy nhiên, nếu đã đưa vào hệ thống pháp luật thì cũng phải có những mức độ và giới hạn nhất định.

“Sau khi có kết quả điều tra, cơ quan thuế sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để đề nghị truy tố, khởi tố vụ án. Cơ quan thuế sẽ phải chịu trách nhiệm về việc điều tra. Như vậy, không thể nói là cơ quan thuế lạm quyền, mà đây là chia sẻ trách nhiệm với cơ quan công an trong việc điều tra những hành vi vi phạm pháp luật về thuế”

Tái khẳng định quan điểm cần phải bổ sung chức năng điều tra cho cơ quan thuế, chuyên gia cho rằng, cơ quan thuế là đơn vị nắm rõ nhất hoạt động báo cáo thuế và phát hiện tức thời các hành vi vi phạm. Nếu nghiêm trọng có thể lấy lời khai, kết hợp với việc yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ, từ đó cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm sẽ được xử lý kịp thời, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và có tác dụng răn đe đối với những hành vi vi phạm trong tương lai. Cán bộ thuế đồng thời cũng là những điều tra viên sẽ hiểu và điều tra nhanh nhất, đúng chuyên môn, nghiệp vụ. Do đó, việc điều tra, phát hiện hành vi vi phạm pháp luật sẽ chính xác, hiệu quả.

Đề cập đến đề xuất cho phép Tổng cục Thuế được quyền điều tra, chuyên gia khác cho rằng, cần phải cân nhắc kỹ vấn đề này. Nếu cho phép cơ quan thuế có chức năng điều tra thì phải tính đến chất lượng nhân sự, phải tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo những cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ điều tra, am hiểu Luật Hình sự và tố tụng hình sự để có thể áp dụng trên thực tế.

“Tôi cho rằng cần phải cân nhắc kỹ vấn đề này, cần phải có thời gian và lộ trình để thực hiện, cần phải có cơ chế quản lý, phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan để thực hiện nhiệm vụ này”.

Để luật hóa chức năng này, các cơ quan liên quan phải tham mưu, xây dựng và sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan sao cho đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành, tránh chồng chéo, hoặc tránh việc thoái thác nhiệm vụ giữa các cơ quan chức năng; tránh việc phình to bộ máy hành chính, nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp.

Theo Báo mới.

Ví điện tử MoMo mua 49% cổ phần công ty chứng khoán

Ví điện tử MoMo công bố mua cổ phần công ty chứng khoán, trong bối cảnh nhiều bên đang nỗ lực tham gia thị trường cung cấp giải pháp đầu tư qua điện thoại.

Theo bản công bố thông tin của Công ty cổ phần Chứng khoán CV (CVS), đơn vị này vừa báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về việc thay đổi sở hữu của cổ đông lớn, nhà đầu tư nắm giữ từ 5% trở lên cổ phiếu.

Theo đó, Công ty cổ phần Dịch vụ di động trực tuyến (M-Service), đơn vị sở hữu Ví điện tử MoMo, đã hoàn tất giao dịch mua lại 4,4 triệu cổ phiếu của CVS (tương đương tỷ lệ nắm giữ 49%) từ hai nhà đầu tư cá nhân vào ngày 9-6 vừa qua.

MoMo đang muốn đẩy nhanh các sản phẩm đầu tư tài chính cá nhân trên ứng dụng.

Tiền thân của CVS là Công ty cổ phần Chứng khoán Hồng Bàng ra đời năm 2009, sau đó đổi tên thành Công ty Chứng khoán Hưng Thịnh vào năm 2017, rồi đổi thành CV như ngày nay.

Trên thị trường, CVS được giới thiệu là công ty không hoạt động theo mô hình môi giới như nhiều công ty chứng khoán khác. Công ty này tự giới thiệu chiến lược tập trung kết nối đầu tư Việt Nam – Trung Quốc dựa trên thế mạnh về nguồn vốn ngoại chủ yếu đến từ Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc).

Năm ngoái, CV ghi nhận lãi 164 triệu đồng trong doanh thu hơn tư vấn đầu tư chứng khoán 4,4 tỉ đồng, cao hơn nhiều so với con số lỗ hơn 5,5 tỉ đồng trong năm trước đó. Đơn vị kiểm toán cũng nêu vấn đề công ty đang lỗ lũy kế gần 80 tỉ đồng trong khi vốn điều lệ là 90 tỉ đồng.

MoMo được định giá là “kỳ lân công nghệ” với mức định giá khoảng 2,2 tỉ đô la Mỹ, qua vòng huy động vốn thứ 5 vào cuối năm ngoái, huy động thành công khoảng 200 triệu đô la.

Phía MoMo hiện vẫn chưa bình luận gì thêm về việc mua cổ phần công ty chứng khoán, nhưng đây có thể xem là động thái cho thấy ví điện tử này muốn tập trung nhiều hơn vào mảng sản phẩm đầu tư cá nhân, trong bối cảnh hàng loạt các sản phẩm mới tiếp tục được giới thiệu từ các thương vụ hợp tác.

Chẳng hạn như mới đây, Dragon Capital Việt Nam triển khai bán sản phẩm đầu tư chứng chỉ quỹ đầu tiên trên ví điện tử này. Người mua là chủ sở hữu, đứng tên trực tiếp chứng chỉ quỹ do mình đặt mua, được đảm bảo đầy đủ quyền lợi của một nhà đầu tư tại Dragon Capital.

Hồi tháng 4, MoMo cho biết các dịch vụ tài chính trên MoMo (bao gồm thanh toán các khoản vay, mua bảo hiểm, gửi tiết kiệm online, đầu tư tích lũy, tín dụng tiêu dùng,…) hiện đáp ứng đến 90% nhu cầu tài chính cá nhân trên thị trường. Trong vòng 1 năm qua, đã có hơn 4 triệu người sử dụng các dịch vụ đầu tư, tích lũy trên MoMo.

Tăng trưởng của MoMo cũng cho thấy tiềm năng rộng mở của thị trường dịch vụ tài chính tại Việt Nam. Theo hãng nghiên cứu và tư vấn McKinsey & Company, tỷ lệ người dùng dịch vụ của fintech (công nghệ tài chính) tại Việt Nam tăng từ mức 16% năm 2017 lên mức 56% trong năm 2021. Quy mô hệ sinh thái số Việt Nam ước đạt 50 tỉ đô la và có thể tăng gấp đôi lên 100 tỉ đô la vào năm 2025.

Theo Báo mới.

Tháo gỡ điểm nghẽn thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Với tỷ lệ thực hiện chỉ đạt 30% và 11% so kế hoạch đề ra cho cả giai đoạn 2016-2020 và có mức thấp kỷ lục trong hai năm đại dịch Covid-19, tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ không thể hoàn thành nếu không có giải pháp đột phá cho thời gian tới.

Nguyên nhân chậm tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn, về khách quan là do các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa, thoái vốn trong giai đoạn này có quy mô lớn, hoạt động trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, sử dụng nhiều đất đai nên cần nhiều thời gian, nguồn lực để thực hiện sắp xếp. Và cũng cần sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và năng lực quản trị, đầu tư tốt cho nên phải có nhiều thời gian chuẩn bị. Hơn nữa, tác động của dịch Covid-19 và bất ổn chính trị trong khu vực và thế giới cũng ảnh hưởng công tác sắp xếp lại doanh nghiệp trong thời gian qua.

Về mặt chủ quan có nguyên nhân từ khâu thực thi các văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống văn bản về cổ phần hóa, thoái vốn gần đây đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, nhất là các vấn đề liên quan đến định giá quyền sử dụng đất, giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển, kiểm kê xử lý tài sản chuyên ngành.

Ngoài ra, những nguyên nhân khác cũng được nhận diện là, việc xây dựng và phê duyệt phương án sử dụng đất trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định còn chậm; một số địa phương chưa kiên quyết thu hồi, xử lý đất đai của doanh nghiệp sử dụng không đúng mục đích, không đúng quy hoạch… Tại không ít doanh nghiệp hiện nay còn có tình trạng quản lý, sử dụng đất chưa hiệu quả, hồ sơ pháp lý về đất chưa được hoàn thiện theo quy định, thậm chí có tâm lý giữ lại toàn bộ diện tích đất đai như trước để khai thác mặc dù chưa đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất…

Có thể nói, điểm nghẽn lớn nhất trong tiến trình cổ phần hóa chính là vướng mắc về vấn đề đất đai. Trong thực tế, có những doanh nghiệp thực hiện không nghiêm việc sắp xếp lại nhà đất nhưng cũng có nhiều trường hợp muốn làm cũng không được vì hồ sơ pháp lý đất đai không đầy đủ, đất có tranh chấp, không có căn cứ xác định giá trị đất để tính vào giá trị doanh nghiệp sát với giá thị trường. Vì những lý do này, kết quả cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước rất chậm nhưng chưa có người đứng đầu nào bị xử lý trách nhiệm trong việc chậm trễ thực hiện nhiệm vụ được giao.

Để gỡ nút thắt, Bộ Tài chính đang xem xét, cân nhắc các kiến nghị về việc loại đất đai ra khỏi giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Trong thực tế, những bất cập trong công tác xác định giá trị sử dụng đất tính vào giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa không chỉ là lỗ hổng để những kẻ cơ hội trục lợi từ đất, gây thất thoát tài sản nhà nước mà còn là lực cản khiến những người chính trực không dám làm vì sợ sai. Phương án này nếu thực hiện sẽ đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa. Đây là vấn đề cần nhận diện một cách chính xác, đúng cốt lõi để tham mưu Chính phủ sửa đổi nhất quán về mặt luật pháp.

Theo Báo mới.

Chính thức trình Quốc hội 2 siêu dự án đường vành đai trị giá 161.191 tỷ đồng

Việc sớm hoàn thành đường Vành đai 4 Hà Nội và đường Vành đai 3 TP.HCM sẽ tạo động lực, sức lan tỏa nhằm khôi phục, phát triển KT – XH khu vực Vùng Thủ đô, Vùng TP.HCM.

Phối cảnh Dự án đường vành đai 4 – vùng Thủ đô.

Sáng nay (6/6), theo Chương trình Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày sẽ Tờ trình về chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM – hai công trình hạ tầng giao thông đô thị lớn nhất từng được triển khai tại Việt Nam.

Tại Tờ trình số 211/TTr – CP, Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM.

Đây là 2 dự án có vai trò liên kết vùng, thúc đẩy phát triển đô thị hóa, có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển KT- XH đã được dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2011 – 2022.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là sự hạn chế về nguồn lực nên chưa có điều kiện để triển khai trong giai đoạn này. Đến nay, các điều kiện về cơ sở pháp lý, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, nhu cầu thực tiễn và nguồn lực cơ bản đáp ứng yêu cầu, do vậy, việc triển khai 2 dự án trong giai đoạn 2021 – 2025 là hợp lý và cần thiết.

Theo đề xuất của Chính phủ, Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội có chiều dài 112,8 km, gồm 103,1 km đường Vành đai 4 và 9,7 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài – Hạ Long, đi qua địa phận TP. Hà Nội (58,2km); Hưng Yên (19,3km); Bắc Ninh (dài 25,6km). Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM dài 76,34 km, đi qua địa phận TP.HCM (47,51km); Đồng Nai (11,26km); Bình Dương (10,76km); Long An (6,81km).

Cả hai dự án đều tiến hành GPMB các tuyến đường theo quy mô quy hoạch (6-8 làn xe cao tốc) và hệ thống đường đô thị song hành 2 bên. Riêng đường Vành đai 4 sẽ GPMB dự trữ cho tuyến đường sắt vành đai. Trên cơ sở kết quả dự báo nhu cầu vận tải, phù hợp các giải pháp đầu tư và nguồn lực, giai đoạn 1 đầu tư theo quy mô 4 làn xe cao tốc hạn chế, vận tốc thiết kế 80 km/h; đầu tư xây dựng đường song hành 2 bên.

Với quy mô đầu tư như trên, Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội có diện tích đất chiếm dụng khoảng 1.341 ha; kinh phí GPMB, tái định cư khoảng 19.590 tỷ đồng; Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM là khoảng 642,7 ha, kinh phí GPMB, tái định cư khoảng 41.589 tỷ đồng, thực hiện GPMB một lần theo quy hoạc và GPMB theo quy mô hoàn chỉnh đối với các nút giao liên thông (đầu tư giai đoạn 1).

Tại Tờ trình số 211, Chính phủ kiến nghị Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô sẽ có hình thức đầu tư là đầu tư công kết hợp đầu tư theo phương thức PPP, được chia thành 7 dự án thành phần; tách riêng phần GPMB và xây dựng đường song hành triển khai độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương, thực hiện theo hình thức đầu tư công; riêng Dự án thành phần 2 gồm hệ thống đường cao tốc toàn tuyến và tuyến nối 9,7 km do UBND TP. Hà Nội là cơ quan có thẩm quyền.

Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM được kiến nghị đầu tư theo hình thức đầu tư công, chia thành 8 dự án thành phần; tách riêng phần GPMB và phần xây dựng triển khai độc lập theo địa giới giữa các địa phương.

Đối với Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô, sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85.813 tỷ đồng, sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước và vốn BOT của nhà đầu tư, trong đó vốn BOT 29.447 tỷ đồng. Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 75.378 tỷ đồng, sử dụng toàn bộ vốn Ngân sách Nhà nước, trong đó ngân sách Trung ương tham gia là 38.741 tỷ đồng.

Chính phủ dự kiến thời gian thực hiện 2 dự án là từ năm 2022 đến năm 2027. Để đàm bảo tiến độ đầu tư, Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép áp dụng các nhóm cơ chế, chính sách đặc biệt để triển khai đầu tư các dự án.

Tại Báo cáo tóm tắt kết quả thẩm tra Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM, Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với việc phân chia các Dự án thành các dự án thành phần. Ủy ban Kinh tế kiến nghị cần cụ thể hóa trách nhiệm “đầu mối” của TP. Hà Nội và TP.HCM tại dự thảo Nghị quyết của các Dự án khi quy định pháp luật hiện hành chưa có quy định về khái niệm cũng như trách nhiệm, quyền hạn cụ thể về vai trò này.

Đồng thời, do các dự án thành phần sẽ giao các địa phương tổ chức thực hiện nên có thể dẫn đến mỗi cơ quan tổ chức một cách khác nhau, không bảo đảm được tính đồng bộ, thống nhất và có thể dẫn đến tăng tổng mức đầu tư của các Dự án, vì vậy Ủy ban Kinh tế đề nghị giao cho một cơ quan có năng lực, kinh nghiệm thực hiện công tác thẩm định cho các dự án thành phần của 2 dự án.

Ủy ban Kinh tế cũng nên ý kiến đối với đề xuất của Chính phủ về việc Quốc hội cho phép Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc chỉ định thầu trong quá trình triển khai thực hiện Dự án đối với các gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ di dời hạ tầng kỹ thuật, gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư và áp dụng trong 2 năm (2022 – 2023); cho phép trong giai đoạn triển khai Dự án, nhà thầu thi công không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nằm trong Hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ Dự án; việc khai thác mỏ khoáng sản được thực hiện đến khi hoàn thành Dự án…

Theo đó, Ủy ban Kinh tế nhận thấy hai cơ chế này đã được quy định tại khoản 1 và 2 Điều 5 Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, chỉ áp dụng cho các gói dự án thuộc phạm vi Chương trình trong 2 năm (2022 – 2023). Do đó, đề nghị chỉ áp dụng các cơ chế này trong 2 năm 2022 và 2023. Một số ý kiến đề nghị áp dụng các cơ chế này trong 2 năm kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành.

Đối với cơ chế, chính sách Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội, trong đó có việc cho phép phần vốn nhà nước tham gia tối đa 66% tổng mức đầu tư Dự án, Ủy ban Kinh tế cho rằng, Dự án có sơ bộ tổng mức đầu tư rất lớn, do đó nếu áp dụng theo khoản 2 Điều 69 của Luật Đầu tư theo phương thức PPP sẽ không khả thi về phương án tài chính và khó thu hút được các nhà đầu tư tham gia đầu tư Dự án. Vì vậy, đa số ý kiến tán thành với đề xuất này.

Đối với cơ chế, chính sách Dự án Vành đai 3 TP.HCM, Ủy ban Kinh tế nhất trí với chủ trương Dự án sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng cần tổ chức thực hiện thu phí để thu hồi vốn đầu tư cho Ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ trong bước nghiên cứu khả thi cần xác định chính xác tỷ lệ góp vốn Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương đối với phần đường cao tốc để làm cơ sở xây dựng phương án thu hồi vốn đầu tư hoàn trả ngân sách.

PGS.TS. Trần Đình Thiên cho rằng, sau khi hai dự án này hoàn thành, có thể hình dung ra sự “bùng nổ” khá mạnh mẽ ở hai trung tâm tăng trưởng lớn nhất của Việt Nam. Từ sự ách tắc lâu nay chúng ta phải chịu, khi khai thông, “bùng nổ” sẽ hiện ra. PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng: Chân lý “đường thông” sẽ thể hiện ở 3 điểm chính.

Thứ nhất, hành lang công nghiệp sẽ phát triển, các khu công nghiệp sẽ được định hình rõ ràng, mạnh mẽ hơn. Công nghiệp theo tinh thần mới là khu công nghiệp đẳng cấp cao.

Thứ hai là vận tải và các tuyến logistic sẽ kết nối mạnh mẽ hơn, sôi động hơn. Mục đích là hình thành các đô thị và chuỗi đô thị đẳng cấp cao, hình thành nên không gian kết nối tốt, bảo đảm cuộc sống, theo đúng tiêu chuẩn bền vững.

Thứ ba, trong tầm nhìn xa hơn nữa là nối các hành lang này với các sân bay thì có thể hình dùng sự kết nối bầu trời với thế giới. Qua đó tận dụng cơ hội phục hồi để tạo ra đột phá, phát triển.

Theo Báo mới.

Bắt đầu triển khai chứng thực hợp đồng điện tử trong tháng 6/2022

Mục tiêu trong năm 2022 sẽ có 50% doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử trong hoạt động giao dịch. Bộ Công Thương đã sẵn sàng cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử trong tháng 6/2022.

Bộ Công Thương cho biết, những năm qua, thương mại điện tử Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, nhảy vọt với tốc độ tăng trưởng 16- 17%/năm. Các giao dịch thương mại điện tử được thực hiện thông qua sàn thương mại điện tử, mạng xã hội và website bán hàng trực tiếp của doanh nghiệp, người kinh doanh. Tuy phát triển với tốc độ đột phá, các giao dịch thương mại điện tử luôn ẩn chứa nhiều rủi ro cho cả người mua và người bán.

Hợp đồng điện tử là giải pháp giúp doanh nghiệp hoạt động tin cậy và hiệu quả.

Nhằm đảm bảo an toàn cho các giao dịch, giao kết hợp đồng cho chủ thể trên môi trường thương mại điện tử, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ ban hành hành lang pháp lý cho hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử trong các Nghị định 52/2013/NĐ-CP và gần đây nhất là Nghị định 85/2021/NĐ-CP về thương mại điện tử, chính thức tạo hành lang pháp lý cần thiết để cấp phép cho hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử tại Việt Nam.

Ông Đặng Hoàng Hải, Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương nhận định, lợi ích mang lại cho doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức rất lớn. Trước hết, giúp tiết kiệm chi phí. So với chi phí hiện nay, một hợp đồng truyền thống sẽ mất chi phí giấy tờ, in ấn, chi phí chuyển phát hợp đồng hoặc chi phí đi lại. Bên cạnh đó,giúp tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu suất.

Ngoài ra, với hợp đồng điện tử, các bên thứ 3 như ngân hàng, các tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước có thể căn cứ trên hợp đồng điện tử với xác thực của đơn vị được Bộ Công Thương cấp phép hoặc thông qua trục phát triển hợp đồng điện tử của Bộ Công Thương để xác minh giá trị bản gốc của hợp đồng. Việc này tiết kiệm nhiều thời gian xác minh và đảm bảo hạn chế chứng từ giả, chứng từ khống.

Ông Hải cũng cho biết thêm, việc lưu trữ hợp đồng dưới dạng điện tử sẽ giúp doanh nghiệp quản lý, tra cứu, tìm kiếm một cách dễ dàng mà vẫn đảm bảo được sự an toàn, bảo mật của nội dung hợp đồng.

Thông tin về lộ trình đưa hợp đồng điện tử vào thực tế, ông Hải cho hay, ngày 15/3/2022, Ủy ban quốc gia về Chuyển đổi số đã có Quyết định số 27/QĐ-UBQGCĐS về Ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2022, trong đó có mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử đạt 50%.

Mặt khác, hành lang pháp lý cũng sẵn sàng, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 01/2022/TT-BCT hướng dẫn Nghị định 85/2021/NĐ-CP. Trong quý I và II/2022, Bộ đã làm việc với các doanh nghiệp gửi đề nghị cấp đăng ký cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử và sẵn sàng cung cấp dịch vụ trong tháng 6/2022.

Song song với việc hoàn thiện hành lang pháp lý, căn cứ cấp phép cho các doanh nghiệp, Bộ Công Thương đã phát triển hệ thống Trục phát triển hợp đồng điện tử quốc gia.

Hệ thống trục sẽ là nơi cung cấp thông tin xác thực hợp đồng toàn quốc cho bên thứ 3, đồng thời là nền tảng hỗ trợ, kết nối các tổ chức chứng thực hợp đồng điện tử được cấp đăng ký, kết nối với nhà cung cấp dịch vụ dấu thời gian, chữ ký số, định danh và xác thực đã được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép.

Hệ thống trục phát triển hợp đồng điện tử quốc gia sẽ đóng vai trò xây dựng, phát triển thị trường ứng dụng thực tế của hợp đồng điện tử, kết nối các nền tảng công nghệ, các hạ tầng số tin cậy của Chính phủ đến doanh nghiệp, tổ chức, người dùng thông qua các giao dịch thương mại.

Theo Báo mới.

VCCI nói gì về Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ?

Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã triển khai được hơn 4 năm nhưng mới có dưới 8% doanh nghiệp nhận được hỗ trợ, 51,3% doanh nghiệp không biết đến Luật…

Trong quý I/2022 có 11,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể.

Theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, đóng góp tới 45% vào GDP, 31% vào tổng số thu ngân sách và thu hút hơn 5 triệu lao động.

Hiện nay, Việt Nam có khoảng 1,7 triệu doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Dự kiến đến năm 2030, con số này tăng lên khoảng 2,4 triệu doanh nghiệp. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và xung đột chính trị, trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa đã bị ảnh hưởng, rất cần sự hỗ trợ.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy, trong quý 1/2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 35,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 49,7% so với cùng kỳ năm trước. 11,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 0,1%.

Đặc biệt, hơn 4,3 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 16,7%, trong đó có 3,8 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 19,7% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy, sức chống chịu của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ rất hạn chế.

Khảo sát của VCCI cũng chỉ ra, hầu hết các nhà hàng nhỏ, quán cà phê, cửa hàng bán lẻ, các cơ sở sản xuất công nghiệp nhẹ và các công ty xây dựng đều phải vật lộn để tồn tại và tỏ ra thiếu lạc quan về triển vọng kinh doanh trong dài hạn.

Chính vì vậy, theo VCCI, cần thiết phải có những chính sách trợ giúp khác nhau cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt việc đẩy mạnh triển khai Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa vào thời điểm này là cực kỳ quan trọng.

Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông qua ngày 12/06/2017 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Như vậy, Luật đã triển khai được hơn 4 năm cho đến nay.

Đây là văn bản luật quan trọng khẳng định cam kết của Nhà nước Việt Nam về phát triển khu vực kinh tế tư nhân (mà trong đó đại đa số là các doanh nghiệp nhỏ và vừa), với mục tiêu đưa doanh nghiệp khu vực tư nhân trở thành động lực quan trọng cho phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, đánh giá về kết quả triển khai 10 chương trình trợ giúp doanh nghiệp trong khuôn khổ Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua dự án khảo sát Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2021 của VCCI cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp đã hưởng hỗ trợ từ các chương trình còn khá khiêm tốn.

Tỷ lệ doanh nghiệp cho biết đã nhận được hỗ trợ từ các chương trình đều dưới 8%. Chương trình hỗ trợ có tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận được cao nhất là cấp bảo lãnh tín dụng tại Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng cũng chỉ có 7,34% doanh nghiệp thực tế đã tiếp cận.

Chương trình có tỷ lệ doanh nghiệp được thụ hưởng thấp nhất là hỗ trợ giảm giá thuê mặt bằng tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, với chỉ khoảng 4,75% doanh nghiệp đã được thụ hưởng, do phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa nằm bên ngoài khu công nghiệp nên không được hưởng lợi từ hỗ trợ này.

Tín hiệu khả quan là trong số các doanh nghiệp đã thụ hưởng, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá thủ tục dễ thực hiện đối với từng chương trình đều đạt mức cao, trên 80%. “Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng đây là đánh giá của các doanh nghiệp đã đi qua đầy đủ các bước trong quy trình thủ tục để nhận được hỗ trợ”, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI nêu rõ.

Khoảng 51,3% doanh nghiệp trả lời khảo sát PCI 2021 không biết đến Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong số các doanh nghiệp biết đến Luật này, chỉ 36,8% doanh nghiệp đã thụ hưởng ít nhất một chương trình hỗ trợ.

Nhìn chung, bởi tỷ lệ cao các doanh nghiệp không biết đến Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nên mức độ khó khăn khi tuân thủ các thủ tục để hưởng trợ cấp có thể khó khăn hơn trên thực tế so với đánh giá của các doanh nghiệp đã được thụ hưởng.

Trước kết quả trên, nhiều ý kiến cho rằng, cần đưa ra các điều chỉnh phù hợp trong triển khai thực hiện Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong bối cảnh cộng đồng doanh nghiệp đang cần thêm những sự hỗ trợ kịp thời để phục hồi sau hơn hai năm chống chịu đại dịch Covid-19.

Theo Báo mới.

Giá xăng ở Việt Nam cao hơn Mỹ và Nhật Bản như thế nào?

Theo số liệu của Global Petrol Prices, tính tới ngày 23-5, giá xăng trung bình trên thế giới là 1,39 đô la Mỹ/lít. Trong khi đó, mỗi lít xăng RON95 tại Việt Nam ở thời điểm này là 1,349 đô la.

Theo số liệu của Global Petrol Price, mỗi lít xăng RON95 tại Việt Nam ở thời điểm này là 1,349 đô la, đứng thứ 86 trên 170 quốc gia được khảo sát. Ảnh người tiêu dùng đổ xăng.

Theo nguyên tắc chung, các nước giàu hơn có giá cao hơn trong khi các nước nghèo hơn và các nước sản xuất và xuất khẩu dầu có giá thấp hơn đáng kể. Tuy nhiên, theo thống kê nêu trên, Mỹ và Nhật Bản là 2 quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu trên thế giới nhưng có giá xăng thấp hơn Việt Nam.

Từ số liệu của Global Petrol Prices, giá xăng hiện tại của Việt Nam đang thấp hơn một chút so với mức trung bình trên thế giới, và đứng thứ 79/170 quốc gia và khu vực trên thế giới, tức nằm tầm giữa.

Nếu so với một số quốc gia khác trong khu vực, mỗi lít xăng của Việt Nam hiện cao hơn Malaysia (nước này chỉ 0,467 đô la, tức Việt Nam cao hơn đến 0,882 đô la) và Indonesia là 1,137 đô la (tức Việt Nam cao hơn 0,212 đô la).

Còn các nước như Singapore, Lào, Thái Lan, Philippines và Campuchia đều ghi nhận giá xăng cao hơn Việt Nam. Cụ thể, giá xăng RON95 của Singapore cao nhất với mức giá 2,249 đô la/lít; Lào là 1,672 đô la/lít; Thái Lan là 1,504 đô la/lít; Philippines là 1,490 đô la/lít và Campuchia là 1,391 đô la/lít.

Theo nguyên tắc chung, các nước giàu hơn có giá cao hơn trong khi các nước nghèo hơn và các nước sản xuất và xuất khẩu dầu có giá thấp hơn đáng kể.

Đáng chú ý Mỹ và Nhật Bản là 2 quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu trên thế giới nhưng có giá xăng thấp hơn giá xăng ở Việt Nam. Giá xăng ở Mỹ theo khảo sát của Global Petrol Price ở thời điểm nói trên có giá là 1,254 đô la và Nhật Bản là 1,286 đô la. Hồng Kông được ghi nhận có giá xăng cao nhất trong khảo sát của Global Petrol Price là 2,929 đô la.

Theo Global Petrol Prices, tất cả các quốc gia đều được tiếp cận với giá xăng dầu như nhau trên thị trường quốc tế nhưng sau đó quyết định áp các loại thuế khác nhau. Sự khác biệt về giá giữa các quốc gia là do các loại thuế và trợ cấp xăng dầu khác nhau. Do đó, giá bán lẻ xăng dầu có sự chênh lệch.

Mặt khác, thu nhập bình quân của người Việt lại thấp hơn nhiều các quốc gia trong khối ASEAN và rất thấp so với các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản…

Điều này cho thấy, có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, nhưng mỗi người dân Việt Nam lại đang phải bỏ lượng tiền nhiều hơn một số nước trong khu vực, hay các nước có thu nhập cao, để mua mỗi lít xăng.

Trong năm 2021, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 3.743 đô la/người/năm. Trong khi đó, GDP bình quân đầu người của Singapore là 62.113 đô la/người/năm, Malaysia (11.056 đô la/người/năm), Thái Lan (7.030 đô la/người/năm) và Indonesia (4.349 đô la/người/năm).

Với mức xăng hiện tại, 1 lít xăng đang chiếm khoảng 13,5% GDP bình quân đầu người/ngày của người Việt Nam. So với một số nước khác trong khu vực thì mức phần trăm này không phải là cao. Điển hình như Philippines, Lào hay Campuchia, giá của 1 lít xăng chiếm lần lượt 15,8%, 22,44% và 29.3% GDP bình quân đầu người/ngày.

Tuy nhiên, phần trăm giá xăng so với GDP bình quân đầu người một ngày ở các nước như Singapore, Indonesia, Thái Lan và Malaysia lần lượt là 1,32%, 1,78%, 7,8% và 2,9%.

Từ đầu năm đến nay, giá xăng bán lẻ của Việt Nam đã 10 lần tăng, ba lần giảm. Sắp tới, theo quy định, ngày 1-6 tới là đến chu kỳ điều hành giá xăng dầu. Mỗi lít xăng được dự báo tăng từ 300-700 đồng, khiến giá xăng RON 95 có khả năng chạm mốc 31.000 đồng/lít hoặc vượt con số này.

Xăng, dầu vừa là mặt hàng chiến lược, quan trọng, vừa là mặt hàng thiết yếu có tác động mạnh đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân, tác động trực tiếp đến ổn định kinh tế vĩ mô.

Hiện nay, ở trong nước, trong cơ cấu giá xăng, dầu cơ sở, mỗi lít xăng, dầu bán ra đang chịu 4 loại thuế gồm: Thuế giá trị gia tăng; nhập khẩu; tiêu thụ đặc biệt và bảo vệ môi trường. Ngoài các khoản thuế nêu trên, mỗi lít xăng còn phải cộng thêm chi phí kinh doanh định mức, lợi nhuận định mức, mức trích lập quỹ bình ổn và lợi nhuận của doanh nghiệp.

Trong kỳ điều chỉnh giá xăng dầu gần đây nhất hôm 23-5-2022, giá xăng E5 RON 92 được điều chỉnh tăng 674 đồng/lít; xăng RON 95 tăng 669 đồng/lít. Theo đó, giá xăng E5 RON 92 lên mức 29.630 đồng một lít, RON 95 là 30.650 đồng một lít.

Theo Báo mới.

ĐB Trần Hoàng Ngân: Cần kiểm soát giá xăng dầu, lạm phát, chứng khoán

Đại biểu Trần Hoàng Ngân kiến nghị cần tiếp tục giảm thuế bảo vệ môi trường và thuế tiêu thụ đặc biệt để kiềm chế lạm phát, tránh ảnh hưởng đến đời sống người dân.

Các doanh nghiệp đã trở lại ổn định sản xuất. 

Trao đổi bên lề kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV về tình hình kinh tế-xã hội, đại biểu Trần Hoàng Ngân (Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, giá xăng tăng cao tác động đến tình hình trong nước, nguy cơ lạm phát thì Quốc hội và Chính phủ cần sớm xem xét sử dụng các công cụ thuế để giảm giá xăng dầu, kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường chứng khoán càng sớm càng tốt.

Không để “té nước theo mưa”

– Ông đánh giá như thế nào về tình hình kinh tế-xã hội trong thời gian qua?

Đại biểu Trần Hoàng Ngân: Đại dịch COVID-19 đã tác động nghiêm trọng tới kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm trước khoảng 7%, tuy nhiên đến năm 2020 chỉ còn 2,9% và 2021 chỉ còn 2,6%. Dù vậy, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng dương và là một trong những điểm sáng trong kiểm soát phòng chống dịch, thích ứng an toàn với dịch.

Điều vui hơn là nước ta đã tận dụng được các mối quan hệ quốc tế trong việc khai thác tìm kiếm vaccine để tiêm cho người dân, đây là thành quả rất lớn.

Chính thành quả đó đã tạo cơ hội để các doanh nghiệp sớm quay trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh; trong đó có du lịch, giao thông được phục hồi và đến giờ gần như mọi thứ đã trở lại bình thường. Tình hình kinh tế của Việt Nam nhờ đó đã cải thiện rất rõ nét trong 5 tháng đầu năm.

Đặc biệt là chưa bao giờ nước ta thấy một khí thế, tinh thần dân tộc dâng cao lên khi Việt Nam tổ chức thành công SEA Game 31, ngoài việc giành được nhiều Huy chương Vàng, chúng ta chứng kiến lá cờ Tổ quốc Việt Nam tung bay khắp nơi trên các sân vận động. Cứ mỗi lần có Huy chương Vàng, bài hát Quốc ca lại vang lên, thể hiện một khát vọng chinh phục Huy chương Vàng, chinh phục đỉnh cao mới. Đấy là niềm vui và nó tạo đà cho nước ta khí thế để hoàn thành được các mục tiêu đặt ra trong năm 2022.

Ngoài ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quyết tâm rất lớn của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và địa phương trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc là đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Vì vậy, ngay từ đầu năm chúng ta đã triển khai Nghị quyết 01 và 02 của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, Quốc hội ban hành Nghị quyết 43 về gói giải pháp về tài khóa, tiền tệ hỗ trợ an sinh xã hội, hỗ trợ cho người lao động, hỗ trợ cho các doanh nghiệp gặp khó khăn do COVID-19.

Tuy nhiên trước diễn biến tình hình kinh tế-chính trị thế giới trở nên phức tạp, xung đột Nga-Ukraine và những biện pháp trừng phạt tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu, trực tiếp là giá nhiên liệu, năng lượng, lương thực, kéo theo lạm phát toàn cầu có xu hướng tăng cao. Tại Mỹ, lạm phát lên đến 8,5% cao gấp 4 lần lạm phát mục tiêu hay tại châu Âu, lạm phát đã lên cao nhất trong vòng 30 năm qua.

Trong bối cảnh đó, nước ta khi đang có cơ hội để kìm tốc độ tăng của lạm phát thì lại phải liên tục điều chỉnh giá xăng dầu, gây tác động tới tất cả các ngành hàng hóa, từ đó khó kiềm chế, kiểm soát lạm phát. Trong trường hợp phải sử dụng công cụ lãi suất để kiểm soát lạm phát thì cũng để lại những hậu quả tiêu cực.

Theo tôi, để giảm áp lực lên lạm phát, các gói tài khóa tiền tệ như gói hỗ trợ doanh nghiệp trong việc giảm thuế, phí… cần được triển khai thật nhanh. Do đó, chúng ta phải hành động gấp để lạm phát không tăng lên, tránh để khi bệnh nặng lại phải dùng “thuốc liều cao.”

– Vậy các biện pháp để kiềm chế lạm phát là gì thưa ông?

Đại biểu Trần Hoàng Ngân: Ngay tại kỳ họp này tôi sẽ có ý kiến phát biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ phải xem xét nhanh vấn đề này. Theo đó cần tiếp tục giảm thuế bảo vệ môi trường và thuế tiêu thụ đặc biệt.

Vì nếu giá cả tiếp tục tăng sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân, bởi trong 2 năm đại dịch đã lấy đi phần tích lũy, nay lại gặp “bão giá” người dân sẽ vô cùng vất vả. Đối với doanh nghiệp, các chi phí đầu vào cũng tăng cao như chi phí vận chuyển, logistic…

Đối với ngân sách nhà nước, khi đặt vấn đề giảm thuế bảo vệ môi trường và thuế tiêu thụ đặc biệt, nhiều người lo ngại sẽ gây thất thu ngân sách, nhưng thực tế nếu giảm thuế đó sẽ kéo giảm được lạm phát và chi ngân sách giảm theo. Vì giá cả lên thì chi ngân sách tăng lên, ngay cả dự án đầu tư đang chuẩn bị thông qua hoặc đã thông qua rồi, các dự toán sẽ tăng lên thì rất nguy kịch, công trình dự án sẽ đội vốn và lãng phí. Vì vậy, phải chặn ngay vấn đề này.

Tôi lấy ví dụ những năm lạm phát cao như năm 1986, 1987, 1988 là thời điểm Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, hạch toán kinh doanh, quy định tỷ giá sát thị trường và chấp nhận cơ chế giá thị trường. Bài học gần nhất là năm 2008, lúc đó biến động xăng dầu trên thế giới tăng tới 141 USD/thùng, cộng với giá lương thực thực phẩm tăng, lạm phát tăng nhanh và khi lạm phát tại Việt Nam lên tới 23%, lúc đó tất cả các chi phí giá cả hàng hóa và đời sống người dân vô cùng khó khăn.

Đại biểu Trần Hoàng Ngân (Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh) trả lời phỏng vấn bên lề Quốc hội. 

Khi lạm phát cao ở mức độ 2 con số, liều thuốc của các nước buộc phải chọn là thắt chặt chính sách tiền tệ. Hay nói cách khác, khi lạm phát cao thì phải “uống thuốc” liều cao. Việt Nam phải dùng lãi suất cao, có lúc lãi suất thị trường lên tới trên 20%. Việt Nam phải chấp nhận không quan tâm tới tăng trưởng kinh tế, ưu tiên hàng đầu là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và đảm bảo an sinh xã hội.

Tăng hình thức xử phạt đối với thị trường chứng khoán

– Ông đánh giá như thế nào về thị trường chứng khoán trong thời gian qua, làm thế nào để thị trường có thể minh bạch, hấp dẫn hơn?

Đại biểu Trần Hoàng Ngân: Theo tôi thị trường chứng khoán phải có lên, có xuống thì mới là thị trường hoạt động bình thường. Còn nếu thị trường bằng phẳng là “tim đã ngừng đập.”

Tuy nhiên, trong thời gian qua, giá của cổ phiếu bị đẩy lên quá cao không phản ánh đúng giá trị thực đã làm cho thị trường chứng khoán bị thao túng, gian lận.

Dù đã có xử phạt một số doanh nghiệp có hành vi lũng đoạn, thao túng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu trái quy định pháp luật nhưng theo tôi, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các bộ phận giám sát thị trường phải hoạt động mạnh mẽ hơn nữa để đảm bảo việc thông tin rộng rãi trên thị trường và ngăn ngừa kịp thời những hành động thao túng, lũng đoạn thị trường. Đây là những động thái giúp thị trường trở nên lành mạnh, minh bạch hơn.

Các quy định trong luật đã có nhưng tới đây nên sửa đổi, thêm vào một số điều khoản để tăng hình thức xử phạt vi phạm trên thị trường tài chính. Có như vậy mới thúc đẩy thị trường phát triển bền vững.

Chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế. Kinh tế phục hồi, tăng trưởng thì chứng khoán đi lên, còn kinh tế suy thoái do ảnh hưởng đại dịch thì chứng khoán đi xuống. Nhưng trong hoàn cảnh dịch bệnh, nhiều doanh nghiệp đóng cửa, ngừng hoạt động mà chứng khoán vẫn đi lên thì đó là dấu hiệu bất thường. Chính từ sự bất thường đó, cần phải thanh tra, kiểm tra ngay để phát hiện ra sai phạm.

Luật chơi của thị trường là lợi nhuận cao thì rủi ro cao. Người mua đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu có lợi nhuận cao thì phải chấp nhận rủi ro cũng cao. Còn nếu người chơi không chuyên nghiệp thì nên ủy thác cho các quỹ đầu tư. Vấn đề là phải minh bạch thông tin để nhà đầu tư biết được rủi ro thế nào, từ đó có quyền lựa chọn.

– Hiện tốc độ giải ngân đầu tư công thấp, ông đánh giá gì về vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển kinh tế?

Đại biểu Trần Hoàng Ngân: Đầu tư công luôn luôn có độ dẫn dắt, lan tỏa đến đầu tư xã hội. Đầu tư công là hướng vào đầu tư cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, hiện vướng mắc nhất hiện nay là thủ tục hành chính, quy trình, cho nên việc rà soát hệ thống luật pháp trong đầu tư công hiện nay là cần đẩy nhanh hơn nữa và phải ủy quyền cho các địa phương thì mới tránh được tình trạng đầu tư chậm như hiện nay. Ngoài ra, tăng trách nhiệm cho cấp dưới và chủ dự án phải chịu trách nhiệm.

Tuy nhiên, có một nguyên nhân khách quan đó là giải phóng mặt bằng gặp khó khăn vì giá bất động sản, giá đất đền bù cao, có thể vượt dự toán. Bên cạnh đó, giá nguyên nhiên vật liệu xây lắp cũng có khả năng vượt dự toán. Khi vượt dự toán như vậy phải tính lại các bước, dẫn đến giải ngân chậm. Đây là bài toán về thể chế và tác động của giá cả.

– Xin cảm ơn ông!

Theo Báo mới.

DN nước ngoài mở tài khoản có cần thị thực của người đại diện?

Trường hợp khách hàng ở nước ngoài, không gặp mặt trực tiếp, ngân hàng thực hiện xác minh thông tin nhận biết qua ngân hàng đại lý hoặc bên trung gian theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và không yêu cầu thị thực nhập cảnh.

Công ty ông Trần Văn Quang (TPHCM) có vốn đầu tư nước ngoài, giám đốc là người nước ngoài và chưa thể sang Việt Nam do ảnh hưởng của dịch. Hiện, công ty cần mở tài khoản vốn để góp vốn cũng như tài khoản thanh toán để hoạt động kinh doanh.

Ông Quang hỏi, khi thực hiện thủ tục mở tài khoản công ty thì có yêu cầu chủ tài khoản của doanh nghiệp là người đại diện theo pháp luật phải ở Việt Nam hay không? Giám đốc có cần cung cấp thị thực khi mở tài khoản cho công ty hay không?

Giám đốc công ty ông Quang thường xuyên di chuyển giữa các quốc gia khác nhau. Do vậy, nếu yêu cầu giám đốc phải có mặt khi thực hiện thủ tục hoặc cung cấp thị thực thì sẽ gây khó và gây trở ngại cho các doanh nghiệp nước ngoài như công ty ông.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời vấn đề này như sau:

Về hồ sơ, thủ tục mở tài khoản thanh toán cho tổ chức, Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 16/2020/TT-NHNN) quy định như sau:

– Tại Điều 12 về hồ sơ mở tài khoản thanh toán, đối với tài khoản thanh toán của cá nhân, bao gồm tối thiểu các giấy tờ sau:

“a) Giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán lập theo mẫu của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản;

b) Các giấy tờ tùy thân bao gồm thẻ căn cước công dân hoặc giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn hoặc giấy khai sinh (đối với cá nhân là công dân Việt Nam chưa đủ 14 tuổi và chưa có hộ chiếu); thị thực nhập cảnh còn thời hạn hoặc giấy tờ chứng minh được miễn thị thực nhập cảnh (đối với cá nhân là người nước ngoài), trừ trường hợp cá nhân là người nước ngoài mở tài khoản thanh toán theo quy định tại Khoản 4 Điều 14 Thông tư này”.

Đối với tài khoản thanh toán của tổ chức, bao gồm tối thiểu các giấy tờ sau:

“a) Giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán lập theo mẫu của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản;

b) Các giấy tờ chứng minh việc tổ chức mở tài khoản thanh toán được thành lập và hoạt động hợp pháp: Quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật;

c) Các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện hợp pháp kèm giấy tờ tùy thân của những người đó;

d) Quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán”.

– Tại Điều 14 về trình tự, thủ tục mở tài khoản thanh toán:

Đối với tài khoản thanh toán của tổ chức: “Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được gặp mặt hoặc không gặp mặt trực tiếp người đại diện hợp pháp của khách hàng khi giao kết thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán.

Trường hợp không gặp mặt trực tiếp người đại diện hợp pháp của khách hàng, ngân hàng phải áp dụng các biện pháp phù hợp để xác minh sự chính xác về chữ ký, dấu (nếu có), chứng thư số (nếu có) của người đại diện hợp pháp của chủ tài khoản trên thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán và đảm bảo sự khớp đúng với chữ ký, dấu (nếu có), chứng thư số (nếu có) của người đại diện 2 hợp pháp của chủ tài khoản trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán;…

4. Trường hợp khách hàng là cá nhân ở nước ngoài, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được mở tài khoản không gặp mặt trực tiếp khách hàng nhưng phải thực hiện xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua ngân hàng đại lý hoặc bên trung gian và phải đảm bảo xác minh chính xác về khách hàng mở tài khoản và chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với việc nhận biết, xác minh khách hàng mở tài khoản thanh toán tại đơn vị mình. Việc lựa chọn bên trung gian thực hiện xác minh thông tin nhận biết khách hàng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền”.

Căn cứ trích dẫn nêu trên, đối với khách hàng là tổ chức, ngân hàng được gặp mặt hoặc không gặp mặt trực tiếp người đại diện hợp pháp của khách hàng khi giao kết thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán.

Trường hợp khách hàng ở nước ngoài, không gặp mặt trực tiếp, ngân hàng thực hiện xác minh thông tin nhận biết qua ngân hàng đại lý hoặc bên trung gian theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và không yêu cầu thị thực nhập cảnh.

Ông Quang cần liên hệ với ngân hàng để được hướng dẫn thủ tục, hồ sơ mở tài khoản thanh toán phù hợp với quy định pháp luật.

Theo Baomoi.com

Cổ phiếu thép hưởng lợi gì từ chương trình đầu tư công?

Chương trình đầu tư công của chính phủ, mức định giá quay về mức hấp dẫn là những yếu tố thúc đẩy đà tăng của cổ phiếu thép, theo Chứng khoán BIDV.

Ngày 11/1, Quốc hội đã thông qua “Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội” với quy mô khoảng 347.000 tỷ đồng. Đây là chương trình có quy mô, tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng trong thời gian tới.

CTCP Chứng khoán BIDV (BSC) vừa công bố báo cáo đánh giá về kế hoạch và tiến độ giải ngân của gói phục hồi kinh tế. Báo cáo nhận định ngành thép là một trong 3 nhóm ngành chính hưởng lợi từ đầu tư công, đồng thời tập trung phân tích 3 cổ phiếu thép đầu ngành là HPG, HSG, NKG.

Cổ phiếu HPG

Đối với “anh cả” ngành thép HPG, BSC đánh giá sản lượng tiêu thụ thép nội địa duy trì ở mức cao nhờ các gói giải ngân vốn đầu tư công, tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng hoạt động xây dựng phục hồi khi dịch bệnh được kiểm soát. Bên cạnh đó, triển vọng tăng công suất thêm 66% kể từ năm 2024 khi dự án Dung Quất vận hành, tạo dư địa lớn cho tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận trong tương lai.

Ngoài ra, định giá cổ phiếu HPG trở về mức hấp dẫn với EPS 2022 dự báo ở mức 8.110 đồng, tương đương PE forward chỉ ở mức 5,7 lần (thấp hơn mức PE trung bình 5 năm của HPG).

Cổ phiếu HSG

Giới phân tích kỳ vọng sản lượng tiêu thụ tôn mạ và ống thép nội địa của HSG tăng trưởng trở lại nhờ nhu cầu xây dựng dân dụng và công nghiệp phục hồi sau dịch bệnh. HSG cũng sở hữu mạng lưới phân phối hơn 500 cửa hàng trải dài khắp cả nước và tiếp tục giữ vững thị phần ở nhóm dẫn đầu về tôn mạ và ống thép.

Cổ phiếu NKG

Đối với NKG, xuất khẩu sẽ là động lực tăng trưởng của cổ phiếu này, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của công ty. BSC nhận định cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu thép dự báo sẽ gia tăng khi dịch bệnh dần được kiểm soát, có thể khiến giá bán thép giảm từ mức nền cao của năm 2021,và khiến biên lợi nhuận suy giảm trong năm 2022.

Nhóm cổ phiếu thép đã trải qua đà tăng mạnh trong tuần giao dịch đầu tiên sau Tết âm lịch. Trong vòng một tuần qua, giá cổ phiếu HPG tăng gần 12%, giá cổ phiếu HSG tăng hơn 22%, cổ phiếu NKG tăng gần 23%, cổ phiếu TLH tăng gần 16%, cổ phiếu VGS và TVN cùng tăng hơn 16%.

Theo Baomoi.com

Sở hữu của khối ngoại như thế nào tại 3 ngân hàng ‘big four’?

Theo số liệu cập nhật mới nhất của Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam có hiệu lực đến ngày 14/2, tỷ lệ sở hữu của khối ngoại tại 3 ngân hàng thuộc nhóm ‘big four’ hiện nay như thế nào?

Tỷ lệ sở hữu của khối ngoại với 3 ngân hàng thuộc nhóm big four:

Khách hàng đến giao dịch tại Hội sở chính của Vietcombank ở 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. 

1. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank, mã chứng khoán VCB): Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ hơn 1,1 tỷ cổ phiếu VCB, tương đương với tỷ lệ 23,63% trên tỷ lệ 30% được sở hữu tối đa.

Trong phiên giao dịch cuối tuần trước vào ngày 11/2, cổ phiểu VCB đi ngang và đóng cửa ở mức 90.000 đồng/cổ phiếu.

2. Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV, mã chứng khoán BID): Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ hơn 676 triệu cổ phiếu BID, tương đương với tỷ lệ 16,82% trên tỷ lệ 30% được sở hữu tối đa.

Trong phiên giao dịch cuối tuần trước ngày 11/2, cổ phiểu BID đi ngang và đóng mở cửa ở mức 47.900 đồng/cổ phiếu.

3. Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank, mã chứng khoán: CTG): Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ gần 1,25 tỷ cổ phiếu CTG, tương đương với tỷ lệ 26% trên tỷ lệ 30% được sở hữu tối đa.

Trong phiên giao dịch cuối tuần trước vào ngày 11/2, cổ phiểu CTG đi ngang và đóng cửa ở mức 36.800 đồng/cổ phiếu/

Theo Baomoi.com

Không để doanh nghiệp thua lỗ, nợ xấu, vốn ít phát hành trái phiếu

Doanh nghiệp thua lỗ, nợ xấu, vốn ít, không có tài sản đảm bảo nhưng vẫn phát hành trái phiếu sẽ ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư và nền kinh tế đất nước.

Năm 2021, thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ và là kênh đầu tư hấp dẫn. Tính đến cuối năm 2021, vốn hóa thị trường đạt hơn 7,5 triệu tỉ đồng, tăng trên 45% so với cuối năm 2020 và xấp xỉ đạt gần 100% GDP. VN-Index lần đầu vượt mốc 1.500 điểm vào ngày 26.11, đánh dấu đỉnh lịch sử về chỉ số trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Bộ trưởng yêu cầu siết điều kiện để doanh nghiệp phát hành trái phiếu thời gian tới 

Đáng chú ý, năm 2021, các chỉ số chứng khoán tăng lên vùng đỉnh lịch sử, thanh khoản cũng tăng mạnh mẽ, liên tục là những phiên giao dịch hơn 1 tỉ USD, thậm chí có những phiên hơn 2 tỉ USD. Tài khoản chứng khoán mở mới năm 2021 bằng 4 năm trước đó cộng lại.

Huy động vốn trên thị trường chứng khoán năm 2021 tăng 25% so với năm 2020, đặc biệt là phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp đạt 155.588 tỉ đồng, tăng 2 – 3 lần so với năm 2020.

Trong phiên giao dịch chứng khoán đầu năm 2022 ngày hôm nay (4.1), Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc nhìn nhận, thị trường trái phiếu vẫn có những “lỗ hổng” cần phải “bịt” lại. Nếu doanh nghiệp thua lỗ, nợ xấu, vốn ít, không có tài sản đảm bảo nhưng vẫn phát hành trái phiếu sẽ ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư, đến nền kinh tế đất nước. Do vậy, cần phải hoàn thiện khung pháp lý để chấn chỉnh điều này.

Bộ trưởng cho biết, Bộ Tài chính đang đề xuất sửa Nghị định số 153/2020/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế, nhằm siết lại các điều kiện về phát hành trái phiếu doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo để đảm bảo sự minh bạch và phù hợp với năng lực của doanh nghiệp. Qua đó, các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh lành mạnh trên thị trường chứng khoán.

Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cũng cho biết, tình trạng nghẽn lệnh giao dịch tại sàn TP.HCM (HOSE) đã được xử lý triệt để, phục vụ kịp thời nhu cầu đầu tư tăng cao vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu không tiếp tục cải tiến hệ thống thì trong tương lai gần có thể sẽ tiếp tục xảy ra nghẽn lệnh. Do đó, Bộ trưởng yêu cầu Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam chỉ đạo HOSE, cùng với Công ty cổ phần FPT luôn chủ động để không xảy ra nghẽn lệnh giao dịch.

Bộ trưởng yêu cầu ngành chứng khoán tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tăng cường thanh kiểm tra, xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán.

Ở một diễn biến khác, trong phiên giao dịch đầu tiên của năm mới 2022, VN-Index đã lập đỉnh lịch sử của chính mình sau 21 năm hoạt động với 1.525,58 điểm. Thanh khoản thị trường tăng đáng kể với giá trị giao dịch trên HOSE vượt 28.600 tỉ đồng.

Cụ thể, chốt phiên giao dịch đầu tiên trong năm mới 2022, sàn HOSE có 332 mã tăng và 137 mã giảm, VN-Index tăng 27,30 điểm (tăng 1,82%), lên 1.525,58 điểm.

Trên sàn HNX, chỉ số HNX-Index tăng 0,11 điểm (tăng 0,02%), lên 474,1 điểm với 144 mã tăng và 89 mã giảm. Tổng khối lượng khớp lệnh đạt hơn 97,1 triệu đơn vị, giá trị 2.787,8 tỉ đồng.

Trên UpCoM, chỉ số UpCoM-Index chạm mốc cao nhất ngày khi đóng cửa. Chốt phiên giao dịch ngày 4.1, UpCoM-Index tăng 1,03 điểm (tăng 0,91%), lên 113,72 điểm. Tổng khối lượng khớp lệnh đạt hơn 111,4 triệu đơn vị, giá trị 2.526 tỉ đồng.

Theo Baomoi.com