Ông Tất Thành Cang tiếp tục hầu tòa

Hôm nay (6/6), TAND Cấp cao tại TPHCM mở phiên phúc thẩm xét xử vụ Công ty TNHH MTV Phát triển công nghiệp Tân Thuận (IPC), Công ty CP phát triển Nam Sài Gòn (SADECO), phát hành giá rẻ 9 triệu cổ phiếu cho Công ty CP Đầu tư và Phát triển Nguyễn Kim (Nguyễn Kim), gây thất thoát tài sản nhà nước.

Trong vụ án này, ông Tất Thành Cang (cựu phó Bí thư Thường trực Thành ủy TPHCM) kháng cáo bản án sơ thẩm, không đồng ý cáo buộc ông tội danh “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”.

Ông Tất Thành Cang cùng các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm. 

Phiên phúc thẩm dự kiến kéo dài 12 ngày, do thẩm phán Trần Thị Thu Thủy (Chánh tòa lao động, TAND cấp cao tại TPHCM) làm chủ tọa.

Vụ án này vào tháng 1/2022, TAND TPHCM xử sơ thẩm, phạt ông Tất Thành Cang 10 năm tù về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”. Ông Tề Trí Dũng (cựu Tổng giám đốc Công ty IPC) 20 năm tù về 2 tội “Tham ô tài sản” và “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”. 18 bị cáo còn lại bị phạt từ 3 năm 6 tháng tù đến 16 năm tù về một hoặc cả hai tội danh trên.

Theo nội dung bản án sơ thẩm, SADECO là công ty con của IPC – 100% vốn của Nhà nước. Các bị cáo đã đồng ý hoặc trực tiếp thực hiện việc bán 9 triệu cổ phần của SADECO cho Nguyễn Kim với giá 40.000 đồng/cổ phần mà không thông qua thẩm định giá và đấu giá, gây thiệt hại cho SADECO hơn 1.103 tỷ đồng, trong đó gây thất thoát 669 tỷ đồng cho nhóm cổ đông Nhà nước. Riêng cá nhân ông Cang bị xác định đã gây thất thoát 184 tỷ đồng cho Thành ủy TPHCM. Ngoài ra, ông Tề Trí Dũng đã chỉ đạo thuộc cấp tổ chức chi tiền của SADECO cho nhiều cá nhân đi du lịch nước ngoài dưới danh nghĩa đi tham quan, khảo sát, gây thất thoát hơn 2,1 tỷ đồng, tham ô 4,6 tỷ đồng từ quỹ thù lao khen thưởng.

Sau án khi có bản án sơ thẩm, ông Tất Thành Cang kháng cáo không đồng tình với cáo buộc ông vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí, khi chấp thuận cho SADECO bán rẻ 9 triệu cổ phần. Ông Tất Thành Cang cho rằng hậu quả của vụ án là do việc làm, báo cáo không trung thực, gian dối của đại diện vốn Văn phòng Thành ủy TPHCM tại SADECO… 10 bị cáo có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hoặc đổi tội danh, xin hưởng án treo. SADECO được xác định là bị hại, có kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm buộc các bị cáo bồi thường 2,8 tỷ đồng thay vì 1,3 tỷ đồng như án sơ thẩm đã tuyên…

Theo Báo mới.

Nhận diện nguyên nhân khó khăn trong theo dõi thi hành án hành chính

Công tác Thi hành án hành chính (THAHC) nói chung, theo dõi THAHC nói riêng thời gian qua đạt nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên công tác này còn nhiều khó khăn do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Nguồn lực dành cho công tác THAHC chưa tương xứng

Theo Vụ nghiệp vụ 3 Tổng cục THADS thì những khó khăn đó có thể được kể đến như một số cơ quan THADS chưa thực hiện đầy đủ, kịp thời trách nhiệm được giao; việc thực hiện trách nhiệm theo dõi THAHC còn mang nặng tính hình thức; một số quy định của pháp luật về THAHC chưa được quy định rõ ràng…

Vụ Nghiệp vụ 3 chỉ ra rằng, nhận thức của một bộ phận Thủ trưởng cơ quan THADS về công tác THAHC và trách nhiệm theo dõi THAHC theo Luật TTHC năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP còn chưa đầy đủ, dẫn đến chưa dành sự quan tâm chỉ đạo đúng mức đối với công tác theo dõi THAHC và chưa chủ động tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo quản lý nhà nước và tổ chức THAHC. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hạn chế trong công tác theo dõi THAHC của các cơ quan THADS hiện nay.

Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan thi hành án dân sự được giao làm nhiệm vụ THAHC còn tương đối hạn chế; việc bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức thực hiện theo dõi THAHC còn khó khăn, chủ yếu là kiêm nhiệm và thường xuyên thay đổi nên trong quá trình tổ chức theo dõi THAHC còn có phần lúng túng, hiệu quả chưa cao.

Công tác phối hợp giữa các cơ quan THADS với các cơ quan, đơn vị hữu quan, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp đôi khi còn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời phối hợp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác theo dõi THAHC. Nhiều nơi, cơ quan THADS chưa tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương.

Trong bối cảnh Nhà nước thực hiện tinh giản biên chế, số lượng các vụ việc THADS thuộc trách nhiệm tổ chức thi hành của các cơ quan THADS ngày càng tăng cao cả về việc và về tiền, tạo áp lực lớn đối với đội ngũ công chức THADS trong việc hoàn thành chỉ tiêu THADS được giao. Điều này dẫn đến các nguồn lực của Hệ thống THADS dành cho công tác THAHC hiện nay chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra của công tác theo dõi THAHC.

Về khách quan, hiện nay cơ chế THAHC theo Luật TTHC năm 2010 đến Luật TTHC năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP là cơ chế tự thi hành, do đó, đối với những trường hợp bản án, quyết định bị chậm hoặc không được tổ chức thi hành vẫn chưa có những cơ chế cụ thể, mạnh mẽ để buộc người phải thi hành án tổ chức thi hành.

Thể chế pháp luật về THAHC đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho công tác THAHC, tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện phát sinh những vấn đề chưa được quy định rõ, còn nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan, thậm chí là các cơ quan ở Trung ương, điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện theo dõi THAHC của các cơ quan THADS.

THAHC là lĩnh vực rất phức tạp, đặc biệt là khi việc THAHC liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, các quyết định giải quyết tranh chấp, giải quyết khiếu nại về đất đai (chiếm tỷ lệ 90% các vụ việc hành chính bị khiếu kiện) để thi hành dứt điểm đòi hỏi phải trải qua nhiều công đoạn, thủ tục với sự tham gia của nhiều cơ quan, đơn vị do pháp luật quản lý hành chính chuyên ngành quy định dẫn đến quá trình THAHC thường bị kéo dài. Cùng đó, còn một số bản án hành chính của Tòa án có nội dung tuyên chung chung, chưa rõ ràng, không cụ thể, thiếu tính thuyết phục và không khả thi trên thực tế.

Nâng cao vai trò của Chấp hành viên

Một trong những giải pháp được đưa ra là đối với công chức được giao theo dõi THAHC, theo Vụ Nghiệp vụ 3 Chấp hành viên cần nhận thức đầy đủ, rõ ràng vai trò, ý nghĩa của công tác THAHC và theo dõi THAHC, trên cơ sở đó nghiên cứu, nắm vững và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về theo dõi THAHC.

Chấp hành viên khi được phân công thực hiện theo dõi THAHC cần phải chủ động lập hồ sơ theo dõi THAHC, nghiên cứu, nắm rõ nội dung vụ việc, lý do phát sinh khiếu kiện, trách nhiệm của người phải thi hành án theo bản án tuyên trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch và đề ra giải pháp thực hiện đối với từng hồ sơ theo dõi THAHC; cập nhật và bổ sung đầy đủ các tài liệu thể hiện quá trình THAHC và theo dõi THAHC vào hồ sơ vụ việc theo đúng quy định của Luật TTHC năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP.

Chấp hành viên cần tích cực, chủ động trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo dõi THAHC theo đúng quy định của Luật TTHC năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP. Quá trình thực hiện, cần thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật, tránh việc ngại va chạm, nể nang, né tránh, nhất là khi thực hiện hoạt động tổ chức làm việc với người phải thi hành án và đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo, xử lý trách nhiệm người phải thi hành án theo quy định của pháp luật. Trường hợp phát sinh khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ theo dõi THAHC, Chấp hành viên cần kịp thời báo cáo Lãnh đạo đơn vị để có biện pháp, hướng giải quyết.

Sắp xét xử phúc thẩm cựu Chủ tịch TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung

Theo tin từ TAND cấp cao tại Hà Nội, ngày 20/6, cơ quan này sẽ mở phiên tòa hình sự phúc thẩm xem xét đơn kháng cáo kêu oan của cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung trong vụ mua chế phẩm Redoxy – 3C của Cộng hòa Liên bang Đức.

HĐXX phúc thẩm TAND cấp cao tại Hà Nội gồm 3 người, do Thẩm phán Nguyễn Văn Sơn, Chánh Tòa kinh tế làm chủ tọa phiên tòa. Dự kiến, phiên tòa phúc thẩm diễn ra trong 3 ngày (từ 20/6 – 22/6).

Trong đơn kháng cáo, cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung cho rằng, bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội tuyên bị cáo phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” là không đúng nên bị cáo có đơn kháng cáo kêu oan.

Với bị cáo Nguyễn Trường Giang (Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Arktic) kháng cáo cho rằng, bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội xử phạt bị cáo 4 năm 6 tháng tù về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” là quá nặng. Do đó, bị cáo Nguyễn Trường Giang có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung.

Bị cáo Võ Tiến Hùng (cựu Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội) cũng kháng cáo cho rằng, bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội xử phạt bị cáo 4 năm tù là quá nặng nên có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngoài ra, bị cáo Hùng cũng kháng cáo về số tiền mà Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo phải bồi thường là quá nhiều nên kháng cáo đề nghị giảm tiền bồi thường cho bị cáo. Tuy nhiên sau đó, bị cáo Võ Tiến Hùng đã rút toàn bộ hai nội dung kháng cáo nên HĐXX phúc thẩm TAND cấp cao tại Hà Nội đã đình chỉ xét xử đối với bị cáo này.

Trước đó, từ ngày 10 đến ngày 13/12/2021, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ liên quan đến vụ mua chế phẩm Redoxy – 3C của Cộng hòa Liên bang Đức.

HĐXX sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Đức Chung 8 năm tù, bị cáo Nguyễn Trường Giang 4 năm 6 tháng tù và bị cáo Võ Tiến Hùng 4 năm tù cùng về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Về trách nhiệm dân sự, HĐXX sơ thẩm tuyên buộc các bị cáo phải có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn dân sự là Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội số tiền hơn 36 tỷ đồng. Trong đó, bị cáo Nguyễn Đức Chung phải bồi thường 25 tỷ đồng, bị cáo Võ Tiến Hùng bồi thường 4 tỷ đồng và bị cáo Nguyễn Trường Giang bồi thường hơn 7 tỷ đồng.

HĐXX sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện của gia đình bị cáo Nguyễn Đức Chung đã nộp 10 tỷ đồng, gia đình bị cáo Nguyễn Trường Giang đã nộp 1 tỷ đồng cho Cục Thi hành án dân sự TP Hà Nội để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

Bị cáo Nguyễn Trường Giang.

Theo bản án sơ thẩm, năm 2016, UBND TP Hà Nội đã chỉ đạo các đơn vị liên quan triển khai thực hiện công tác xử lý, cải tạo, khắc phục ô nhiễm nước các sông, hồ trên địa bàn thành phố bằng cách tìm kiếm các công nghệ tiên tiến phù hợp để xử lý ô nhiễm nước hồ trên địa bàn thành phố.

Bị cáo Nguyễn Đức Chung khi đó là Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã lựa chọn công nghệ xử lý nước ô nhiễm của Công ty Watch Water (Cộng hòa Liên bang Đức) tổ chức đoàn tham quan, thử nghiệm, đặt hàng sản xuất ra chế phẩm Redoxy-3C để sử dụng vào việc xử lý ô nhiễm nước tại thành phố Hà Nội.

Sau đó, bị cáo Nguyễn Đức Chung chỉ đạo bị cáo Võ Tiến Hùng mua chế phẩm Redoxy-3C, thông qua Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Arktic (công ty gia đình của bị cáo Nguyễn Đức Chung) do Nguyễn Trường Giang làm Giám đốc, với động cơ vụ lợi gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, với tổng giá trị thiệt hại hơn 36 tỷ đồng.

Theo Báo mới.

Quy định của pháp luật về hành vi quảng cáo các trang mạng cá độ bóng đá bất hợp pháp

Bạn đọc hỏi: Mới đây, trong trận bóng đá Việt Nam – Trung Quốc tại Sân vận động Mỹ Đình, lực lượng Công an Hà Nội phát hiện, bắt giữ hàng chục đối tượng mặc áo trên đó quảng cáo nhiều trang mạng cá độ bóng đá. Ngoài ra, cơ quan công an còn thu giữ của những đối tượng này cả bao tải cờ, khẩu trang đều có nội dung quảng cáo các trang mạng cá độ bóng đá. Xin hỏi luật sư, việc quảng cáo các trang mạng cá độ bóng đá bất hợp pháp nêu trên hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác có vi phạm pháp luật không; chế tài xử lý đối với hành vi này thế nào? Nguyễn Bích Vân (Hải Phòng).

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, cá độ bóng đá là hành vi đánh bạc trái phép. Do đó, việc mặc áo hoặc sử dụng các sản phẩm khác mà trên đó quảng cáo trang mạng cá độ bóng đá là hành vi vi phạm pháp luật.

Cụ thể là vi phạm khoản 1, Điều 7 và khoản, 1 Điều 8 – Luật Quảng cáo 2012. Các điều luật này quy định nghiêm cấm việc quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Người vi phạm quy định này thì tùy vào tính chất, mức độ sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo đó, khoản 2, Điều 33 – Nghị định 38/2021/NĐ-CP ngày 29/03/2021 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo quy định: Phạt tiền từ 70.000.000 đến 100.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh theo quy định. Như vậy trong trường hợp áp dụng chế tài xử phạt hành chính thì các đối tượng mặc áo hoặc sử sử dụng những trang phục, vật dụng để quảng cáo các trang mạng cá độ bóng đá nêu trên sẽ đối diện với mức phạt này.

Lực lượng Công an bắt giữ, lấy lời khai các đối tượng cá độ bóng đá qua mạng internet

Trường hợp cơ quan công an xác định được các đối tượng nêu trên có hành vi trực tiếp tham gia cá độ bóng đá trên các trang mạng bất hợp pháp hoặc có hành vi thông đồng, hợp tác với chủ của các trang mạng cá độ bóng đá hay với vai trò giúp sức cùng nằm trong đường dây tổ chức cá độ trên mạng bất hợp pháp nhằm ăn chia lợi nhuận, thu lợi bất chính thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội đánh bạc” hoặc “Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” theo Điều 321, Điều 322 – Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) với mức hình phạt cao nhất lên đến 10 năm tù.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến quy định của pháp luật về hành vi quảng cáo các trang mạng cá độ bóng đá bất hợp pháp. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 Luật kịp thời hỗ trợ sản xuất, kinh doanh

Vừa qua, tiếp tục chương trình của Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất, Quốc hội đã nghe Tờ trình và báo cáo Thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự.

Toàn cảnh phiên họp của Quốc hội 

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về dự án Luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 Luật xuất phát từ yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng, hoàn thiện pháp luật nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội, nhất là trong điều kiện vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp, việc sửa đổi, bổ sung lần này cũng nhằm đáp ứng yêu cầu phát sinh từ thực tiễn liên quan tới hoạt động đầu tư, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp; công tác bảo vệ an ninh mạng; thi hành án dân sự; thực hiện chính sách xã hội hóa đầu tư vào hệ thống truyền tải điện quốc gia; khuyến khích đầu tư sản xuất và sử dụng phương tiện giao thông thân thiện với môi trường; tăng cường phân quyền đồng thời bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ nguồn lực của đất nước.

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định của 08 luật bao gồm 10 Điều, trong đó, có 08 Điều sửa đổi, bổ sung một số quy định của 08 luật hiện hành, 01 điều quy định về điều khoản chuyển tiếp và 01 Điều quy định về hiệu lực thi hành.

Trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh khẳng định, đa số ý kiến các Ủy ban được phân công thẩm tra dự án đều tán thành về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung dự án Luật nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách và quy trình, thủ tục để thúc đẩy đầu tư, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; thể chế hóa các văn kiện của Đảng và thực hiện các nghị quyết của Quốc hội.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long trình bày Tờ chính của Chính phủ

Cụ thể, đối với Luật Đầu tư công (Điều 1 dự thảo Luật), ngoài việc nhất trí việc sửa đổi, bổ sung, đa số ý kiến Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội – cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra về nội dung cho rằng, cần có quy định cụ thể về trách nhiệm các chủ thể được phân quyền trong việc bảo đảm tính hiệu quả sử dụng nguồn lực, tính tuân thủ, công khai, minh bạch khi tổ chức thực hiện.

Có ý kiến đề nghị cân nhắc, vì quy định như hiện nay nhằm mục đích kiểm soát chặt chẽ việc vay vốn nước ngoài, bảo đảm an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia; đồng thời, liên quan đến điều ước quốc tế giữa Nhà nước, Chính phủ Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, cần kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm uy tín của Việt Nam… Do vậy, Chính phủ cần đánh giá tác động cụ thể.

Đối với dự án nhóm A của địa phương sử dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, đa số ý kiến đề nghị chuyển thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tương tự như các dự án nhóm B, C. Ngoài ra, cũng có ý kiến nhất trí với đề nghị của Chính phủ.

Về thẩm quyền điều chỉnh chủ trương đầu tư, Ủy ban Kinh tế đề nghị quy định rõ việc phân cấp thẩm quyền điều chỉnh chỉ áp dụng trong trường hợp không làm thay đổi phân loại dự án; trường hợp làm thay đổi phân loại dự án, phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến trước khi điều chỉnh.

Đối với Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (Điều 7 dự thảo Luật), đa số ý kiến Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội đồng ý với sự cần thiết sửa đổi nội dung này của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo Thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 luật.

Ủy ban Tài chính, Ngân sách cơ bản nhất trí với sự cần thiết ban hành chính sách này; và nhất trí với hướng thiết kế các mức thuế suất theo 2 bước như đề xuất của Chính phủ. Bên cạnh đó, có một số ý kiến đề nghị chỉ áp dụng cho thời hạn khoảng 2-3 năm, dự kiến trong năm 2022, doanh nghiệp sản xuất trong nước cơ bản đã hoàn thiện được hệ thống hạ tầng và sản xuất trong nước khoảng 9.500 xe và việc giảm thuế sâu, kéo dài trong nhiều năm sẽ tác động tiêu cực ngay đến các nhà sản xuất, lắp ráp xe ô tô trong nước đối với xe chạy bằng xăng dầu khi không có đủ thời gian, công nghệ và nguồn lực để chuyển đổi kịp thời sang dòng xe điện chạy pin.

Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cũng đề nghị Chính phủ cần cân nhắc về thời điểm sửa đổi và đánh giá tác động, phân tích sâu hơn nhằm đạt mục tiêu chính sách; đồng thời cần đẩy nhanh tiến độ sửa đổi toàn diện Luật Thuế TTĐB, trình Quốc hội xem xét, quyết định trong năm 2022, để có thể đồng thời điều chỉnh tăng thuế suất đối với một số mặt hàng không khuyến khích và cần hạn chế tiêu dùng, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cũng cho biết, về các Luật: Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Điều 2 dự thảo Luật); Luật Đầu tư (Điều 3 dự thảo Luật); Luật Đấu thầu (Điều 4 dự thảo Luật); Luật Doanh nghiệp (Điều 6 dự thảo Luật) đã được Ủy ban Kinh tế – cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra về nội dung cơ bản tán thành việc sửa đổi, bổ sung theo đề nghị của các cơ quan của Chính phủ.

Đối với Luật Điện lực (Điều 5 dự thảo Luật), đa số ý kiến Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường – cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra về nội dung cũng đều tán thành với quan điểm trước mắt cần sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến truyền tải điện tại Luật Điện lực. Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung Luật cần bảo đảm thận trọng, chặt chẽ. Bên cạnh đó, phải đẩy nhanh tiến độ sửa đổi tổng thể Luật Điện lực, bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các quy định có liên quan trong Luật.

Đối với Luật Thi hành án dân sự (Điều 8 dự thảo Luật), Ủy ban Tư pháp – cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra về nội dung tán thành với dự thảo Luật về các nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56 và Điều 57 Luật Thi hành án dân sự đã tiếp thu, chỉnh lý theo các ý kiến tại Thông báo số 558/TB-TTKQH và ý kiến thẩm tra của Ủy ban Tư pháp…

Theo Baomoi.com

Ủy quyền cho người thứ ba?

Câu hỏi: Năm 2000, mẹ tôi lập văn bản ủy quyền, có nội dung mẹ ủy quyền cho anh tôi (N.V.B.) thay bà giải quyết tranh chấp liên quan đến cây cối trên mảnh đất do bà đứng tên (đây là tài sản chung của cha mẹ tôi, cha tôi chết năm 1998). Nay anh tôi đến UBND xã lập giấy ủy quyền cho người khác có nội dung được thay anh tôi quản lý sử dụng quyền sử dụng đất của mẹ tôi (mẹ tôi chết năm 2005), việc ủy quyền trên có hợp pháp không? Xin được luật sư hướng dẫn. (Anh Định – Đội Cấn, Hà Nội)

Luật sư xin tư vấn như sau: Theo thông tin bạn cung cấp thể hiện quyền sử dụng đất là tài sản chung của cha mẹ bạn, do có tranh chấp liên quan đến cây trồng trên đất nên bà đã ủy quyền cho anh của bạn thay bà giải quyết các vấn đề liên quan đến sự việc trên. Hiện nay người anh sử dụng văn bản ủy quyền giữa mẹ và anh của anh để ủy quyền cho người khác có nội dung khác với nội dung mà bà đã ủy quyền như vậy là không đúng ý chí của bà, mặt khác trong văn bản ủy quyền không thể hiện việc cho ủy quyền lại.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành, thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 1 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Về việc chấm dứt việc ủy quyền được Bộ luật Dân sự quy định như sau: hợp đồng đã được hoàn thành; theo thỏa thuận của các bên; cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện…

Như vậy, người anh sử dụng văn bản ủy quyền giữa mẹ và anh của anh lập năm 2000 để lập giấy ủy quyền lại cho người khác là không phù hợp với quy định pháp luật dân sự.

Để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, anh có thể khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố văn bản ủy quyền trên vô hiệu. Vì cha mẹ anh chết không để lại di chúc nên vấn đề thừa kế được chia theo pháp luật, anh có thể thỏa thuận với các đồng thừa kế khác về việc phân chia di sản thừa kế, hoặc khởi kiện tòa án ở địa phương có đăng ký quyền sử dụng đất để giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc ủy quyền cho người thứ ba .Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

TAND Tối cao ban hành nghị quyết hướng dẫn ‘trị tội’ cho vay lãi nặng

Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao mới ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP, hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ Luật Hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội ‘Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự’.

Theo Nghị quyết, TAND Tối cao giải thích, “cho vay nặng lãi” là trường hợp bên cho vay cho bên vay, vay tiền với mức lãi suất cao gấp 5 lần trở lên với mức lãi suất cao nhất, quy định tại khoản 1, Điều 468 Bộ luật Dân sự (mức lãi suất vay tiền theo thỏa thuận không vượt quá 20%/năm; nếu thỏa thuận không rõ sẽ là 10%/năm).

Trường hợp cho vay bằng tài sản khác (không phải tiền), cơ quan chức năng khi giải quyết phải quy đổi tài sản đó thành tiền tại thời điểm chuyển giao tài sản cho vay.

Còn tại Điều 7 Nghị quyết quy định, truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp như sau:

Nếu người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà số tiền thu lợi bất chính của mỗi lần phạm tội từ 30 triệu đồng trở lên, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng mà các lần thu lợi bất chính đều dưới 30 triệu đồng nhưng tổng số tiền thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Hay người cho vay lãi nặng thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ như: “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần, gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe hoặc có hành vi khác để lấy tài sản”, thì tùy từng trường hợp họ còn bị xử lý hình sự về tội phạm tương ứng, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Còn người cho vay lãi nặng nhằm thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên, nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn mà người cho vay chưa thu lợi bất chính hoặc đã thu lợi bất chính dưới 30 triệu đồng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính mà họ nhằm đạt được.

Cũng theo Nghị quyết này, người vay nặng lãi sẽ được tòa án triệu tập với tư cách “người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan”, không phải bị hại. Họ chỉ được trả lại phần tiền người cho vay đã thu lợi bất chính; các khoản khác gồm tiền gốc và lãi cao nhất theo luật (bằng 20%/năm) được sung công.

Theo Baomoi.com

Thời hiệu thừa kế nhà ở

Câu hỏi: Cha mẹ tôi mất trước năm 1991 và không để lại di chúc. Tôi có một người em ở nước ngoài. Xin hỏi tôi có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế của cha mẹ là nhà ở không. Nếu tôi mất, con tôi có quyền khởi kiện xin chia di sản này không?  Nguyễn Tuấn Kiệt (ngụ TP. Bắc Ninh)

Luật sư xin tư vấn như sau:

TAND tối cao đã có hướng dẫn về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.

Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 1-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 1-7-1996 đến ngày 1-1-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 1-7-1996 đến ngày 1-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia. Người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế…

Thông tin nói trên thể hiện: cha mẹ của ông mất năm 1991, không để lại di chúc, di sản thừa kế là nhà ở, người em của ông đi nước ngoài sống từ năm nào ông không cho biết. Như vậy, hiện nay thời hiệu chia di sản thừa kế chưa hết, nên ông có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế của cha mẹ. Nếu ông mất, chưa khởi kiện và còn thời hiệu thừa kế, vợ con ông có quyền khởi kiện xin chia thừa kế với tư cách là người thừa kế chuyển tiếp của ông.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến thời hiệu thừa kế nhà ở.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Làm thủ tục khai nhận thừa kế ở đâu?

Người thân chúng tôi mới mất, có để lại tài sản thừa kế cho các con nhưng chưa biết khai nhận thừa kế ở đâu và thủ thục thế nào? Xin tư vấn giùm chúng tôi. (Anh Sang – Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc)

Luật sư xin tư vấn như sau: 

Muốn xác định được nơi khai nhận di sản thừa kế cần xuất phát từ quy định về thời điểm, địa điểm mở thừa kế được quy định tại Điều 611, thời điểm, địa điểm mở thừa kế theo Bộ Luật Dân sự 2015.

Thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm người có di sản để lại đã chết. Địa điểm mở thừa kế sẽ là nơi cư trú cuối cùng của người có di sản, nơi cư trú cuối cùng có thể là nơi người chết có hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú có thời hạn của người đã chết. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì nơi mở thừa kế sẽ xác định là nơi có toàn bộ hoặc nơi có nhiều di sản thừa kế nhất.

Sau khi người có tài sản chết, những người có quyền lợi liên quan cần phải làm thủ tục khai tử tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người chết và tiến hành mở thừa kế.

Địa điểm mở thừa kế được quy định tại Khoản 2, Điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015: Địa điểm mở thừa kế là nơi làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế, là nơi Tòa án có thẩm quyền sẽ quyết định việc thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, nơi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các quyền và lợi ích của những người liên quan đến di sản thừa kế.

Khi đi khai nhận di sản thừa kế là tất cả những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người để lại di sản. Cơ quan tiến hành khai nhận di sản thừa kế có thể bất kỳ tổ chức công chứng nào trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi có bất động sản hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường.

Bạn cần mang theo những giấy tờ gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nếu di sản để lại là bất động sản như nhà cửa, đất đai, công trình xây dựng khác; Giấy chứng tử; Giấy tờ tùy thân của những người nhận thừa kế; giấy tờ khác nếu có (như: Giấy khai sinh của anh/chị/em; giấy chứng tử của bố mẹ người mất; giấy đăng ký kết hôn của người để lại di sản;…).

Thủ tục sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai) được thực hiện như sau:

Bạn đến văn phòng đăng ký đất đai để làm thủ tục hồ sơ bao gồm:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp di sản thừa kế là bất động sản. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế;

Giấy tờ tùy thân của những người thừa kế; những giấy tờ khác chứng minh quan hệ giữa người thừa kế và người để lại di sản thừa kế trong trường hợp thừa kế theo pháp luật như là: Sổ hộ khẩu, giấy khai sinh, giấy đăng ký kết hôn,…

Khi xác nhận hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, hồ sơ khai nhận di sản thừa kế sẽ được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thực hiện mở thừa kế niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông tin được niêm yết công khai, nếu không nhận được tố cáo hay khiếu nại gì thì cơ quan công chứng sẽ tiến hành công chứng văn bản chia di sản thừa kế theo quy định tại Điều 57 Luật Công chứng 2014.

Thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế được quy định tài Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

Đối với tài sản là động sản: thời hiệu yêu cầu mở thừa kế là 10 năm.

Đối với tài sản là bất động sản: thời hiệu yêu cầu mở thừa kế là 30 năm.

Thời hiệu này được xác định là khoảng thời gian để những người có quyền thừa kế yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện phân chia di sản, nếu quá thời hạn quy định này, người đang quản lý tài sản là di sản thừa kế này sẽ có quyền sở hữu tài sản đó.

Trường hợp người đang quản lý di sản cũng đồng thời là người thừa kế thì di sản thuộc quyền sở hữu của họ. Trường hợp người đang quản lý di sản không phải là người thừa kế thì tài sản sẽ được xử lý như sau:

Nếu người đang quản lý di sản là người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai và phù hợp với quy định của pháp luật thì người này có quyền sở hữu tài sản. Nếu di sản để lại không có người chiếm hữu hay người được lợi về tài sản thì tài sản thuộc về quyền quản lý của Nhà nước.

Sau khi mở thừa kế, những người thừa kế có thể thỏa thuận chia di sản thừa kế hoặc thỏa thuận thực hiện các nghĩa vụ tài sản của người để lại thừa kế. Trường hợp có tranh chấp về di sản, người thừa kế có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp đó. Tuy nhiên, thời hạn yêu cầu Tòa án chia di sản do pháp luật quy định. Trong thời hạn đó, nếu những người thừa kế không thỏa thuận được việc chia di sản thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Hết thời hạn do pháp luật quy định mà những người thừa kế không yêu cầu chia di sản thì di sản sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc làm thủ tục khai nhận thừa kế ở đâu.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Sai phạm tại SAGRI: Ông Trần Vĩnh Tuyến xin khoan hồng cho các bị cáo khác

Nói lời sau cùng trước tòa, bị cáo Trần Vĩnh Tuyến (nguyên Phó Chủ tịch UBND TPHCM) bảo lưu những ý kiến đã trình bày trước đó, đồng thời xin HĐXX xem xét khoan hồng cho các bị cáo khác.

Bị cáo Trần Trọng Tuấn (trái) và bị cáo Trần Vĩnh Tuyến tại tòa.

“Tạo nghiệp sẽ bị quả báo”

Ngày 16/12, Tòa án nhân dân TPHCM tiếp tục phiên tòa sơ thẩm, xét xử bị cáo Trần Vĩnh Tuyến (nguyên Phó Chủ tịch UBND TPHCM), Lê Tấn Hùng (nguyên Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn – SAGRI) và 17 đồng phạm, liên quan đến các sai phạm xảy ra tại SAGRI. Hội đồng xét xử đã nêu quan điểm luận tội và đề nghị mức án đối với bị cáo..

Nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử (HĐXX) nghị án, bị cáo Trần Vĩnh Tuyến cám ơn HĐXX đã cho ông được trình bày những quan điểm cá nhân, đồng thời xin bảo lưu những ý kiến trong suốt quá trình xét xử.

“Sau phiên tòa này, chúng ta sẽ đối diện với một bản án khác, đó là bản án lương tâm. Tạo nghiệp sẽ bị quả báo nên tôi không bao giờ đổ lỗi cho người khác” – bị cáo Trần Vĩnh Tuyến trình bày. Đồng thời, ông Tuyến cho rằng tất cả thuộc cấp của ông trong vụ án này đều đáng thương hơn đáng trách, xứng đáng được hưởng sự khoan hồng, “họ đáng thương hơn đáng trách, họ xứng đáng nhận được sự khoan hồng”.

Trong vụ án này, Viện KSND đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Trần Vĩnh Tuyến từ 7 – 8 năm tù về tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản gây thất thoát lãng phí. Bị cáo Trần Trọng Tuấn (nguyên Giám đốc Sở Xây dựng TPHCM) bị đề nghị mức phạt 7 – 8 năm tù cùng về tội danh trên. Nói lời sau cùng tại tòa, bị cáo Trần Trọng Tuấn mong bản án công tâm khách quan theo đúng quy định pháp luật.

Bị đề nghị tổng hình phạt 26 – 30 năm tù, nói lời sau cùng bị cáo Lê Tấn Hùng (nguyên Tổng Giám đốc SAGRI) đã: “Trân trọng cảm ơn HĐXX đã cho bị cáo trình bày. Bị cáo mất hết tất cả. Cả quá trình công tác, cuộc đời bị cáo mất hết. Bị cáo phải đối diện với tội danh hết sức đau đớn, là tội danh tham ô. Mấy ngày nay bị cáo suy nghĩ mãi không hiểu vì lý do gì, tại sao bị cáo bị Viện Kiểm sát đề nghị mức hình phạt hết sức cao.

Đây có phải là mức án do số phận đã an bài cho bị cáo hay không. Ngày hôm nay bị cáo vẫn còn hy vọng niềm tin cuối cùng vào phán quyết của HĐXX, và mong HĐXX xem xét đầy đủ, thấu tình, đạt lý để bị cáo nhận thấy đúng trách nhiệm của mình với hình phạt xứng đáng”.

Tranh cãi về văn bản “mật”

Các bị cáo tại tòa.

Trong phần đối đáp lần 2 về nội dung vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản gây thất thoát lãng phí, tham ô tài sản xảy ra tại SAGRI, nói về việc mức án đề nghị với bị cáo Lê Tấn Hùng cao so với các bị cáo Vân Trọng Dũng (Chủ tịch Hội đồng thành viên SAGRI) và Hồ Văn Ngon (Phó Tổng Giám đốc SAGRI), đại diện Viện KSND cho rằng cần xét tổng thể mức độ, tính chất liên quan đến chuyển nhượng dự án phát triển khu nhà ở tại phường Phước Long B, Quận 9 (nay là TP Thủ Đức) từ đó đưa ra mức án phù hợp. Thực tế là mức hình phạt thấp so với khung hình phạt có mức án cao nhất 20 năm.

Trao đổi lại ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Vĩnh Tuyến (bị tạm đình chỉ công tác) về việc cho rằng Kiểm sát viên (KSV) dùng lời lẽ không phù hợp, có ý miệt thị bị cáo, yêu cầu rút lại lời nói mang tính miệt thị, KSV Nguyễn Đức Bằng cho rằng đây là nhận định chủ quan của luật sư.

KSV Nguyễn Đức Bằng: “Chúng tôi dùng từ trên cơ sở hành vi của bị cáo liên quan đến các hành vi trong quá trình bị cáo giải quyết vụ việc có dấu hiệu sai phạm và hiện tại đã bị truy tố trước pháp luật. Chính vì vậy, đó là những hành vi liên quan đến hành vi phạm tội phải làm rõ”.

Ngoài ra, đại diện Viện KSND cũng khẳng định đầy đủ thẩm quyền để đánh giá hành vi đó như thế nào. “Đề nghị luật sư nghiên cứu kiểm tra lại từ điển từ “dấm dúi” như thế nào.

Cắt nghĩa theo vùng miền có thể khác nhau nhưng theo cách hiểu của KSV và theo từ điển Việt Nam thì từ đó có nghĩa là việc làm không minh bạch, làm khuất mắt người khác mà sợ bị phát hiện. Điều này là điều nhận định hết sức bình thường, có căn cứ” – đại diện Viện KSND trao đổi.

Theo đại diện Viện KSND, tờ trình của Văn phòng ủy ban không phải nằm trong danh mục bí mật Nhà nước của UBND TPHCM. Và việc xác định độ mật hay không phải theo quy trình luật sư cũng nắm rõ. Trong trường hợp này, bị cáo ghi vào tờ trình, chúng tôi đã nghiên cứu kỹ: Bị cáo phê lần đầu tiên “chờ kết luận của Thanh tra đối với SAGRI có liên quan không”, sau đó ghi chữ “Mật” và gạch chân 2 lần”.

Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước và các nghị định, thông tư hướng dẫn của Bộ Công an và Chính phủ nếu xác định là văn bản Mật thì phải có trình tự thủ tục. Thực tế, văn bản này vì không phải mật vì không được đóng dấu “Mật” và không đúng trình tự thủ tục. Nếu trong trường hợp xác định là văn bản mật cá biệt thì cần xem xét có dấu hiệu làm lộ bí mật hay không.

Chính việc ghi chữ “Mật” không đúng thì cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là KSV có quyền nhận xét đó là sự thiếu minh bạch thể hiện ý thức chủ quan của bị cáo. Đại diện Viện KSND khẳng định “không có điều gì sai sót, không có điều gì miệt thị bị cáo”.

Đồng thời, đại diện cơ quan công tố cho rằng: “Nếu luật sư tiếp tục khẳng định như vậy, phát biểu nơi công cộng trong quá trình xét xử thì chúng tôi tiếp tục xem xét việc vi phạm quy tắc đạo đức hành nghề của luật sư…”.

Liên quan đến quan điểm luận tội bị cáo Lê Tấn Hùng và luật sư bào chữa đề nghị HĐXX, Viện KSND xem xét lại việc xác định tội danh, có phần là chủ quan và mức hình phạt quá cao, gây oan sai cho bị cáo… Đại diện Viện KSND cho rằng, bị cáo và luật sư có sự nhầm lẫn giữa việc xác định không có thiệt hại và thiệt hại đã được khắc phục.

Đại diện cơ quan giữ quyền công tố nói thiệt hại được xác định khi tiền đã thoát ly khỏi cơ quan Nhà nước, còn việc bị cáo nộp lại tiền là hành vi khắc phục hậu quả. Nếu bị cáo không khắc phục, HĐXX cũng sẽ buộc các bị cáo phải khắc phục.

Theo Baomoi.com

Tranh chấp đất thừa kế, chia tài sản thế nào nếu hết thời hiệu khởi kiện?

Thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản thừa kế là 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản. Vậy, khi hết thời hiệu khởi kiện thừa kế thì di sản đó sẽ được chia như thế nào?
Luật sư xin tư vấn như sau: 
Thời hiệu thừa kế

Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày mà Tòa án xác định người đó đã chết. Nếu không xác định được chính xác ngày chết của người đó thì ngày bản án tuyên bố một người đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày mà người đó chết.

Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Việc xác định thời điểm, địa điểm mở thừa kế là yêu cầu đầu tiên của quan hệ thừa kế và đóng vai trò rất quan trọng. Vì tại thời điểm và địa điểm này sẽ xác định được người thừa kế của người chết, di sản mà người chết để lại, xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý, nơi thực hiện nghĩa vụ cũng như thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.

Đồng thời, việc xác định chính xác địa điểm mở thừa kế còn có ý nghĩa khi xác định việc từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015 có hợp pháp hay không.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.

Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau: Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định của pháp luật; Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Trong thời hạn này, người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án chia thừa kế, xác định quyền thừa kế của mình, truất quyền thừa kế của người khác. Hết thời hạn này, người thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế sẽ được tính từ thời điểm bắt đầu của ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện người để lại di sản chết và thời điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày tương ứng 10 năm sau. Tuy nhiên được hiểu thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác định bằng giờ người để lại di sản chết, tại thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của người chết… để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế.

Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp đã chia tài sản thừa kế mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

Chia nhà đất khi hết thời hiệu khởi kiện thừa kế

Theo quy định tại Mục 2.4, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong một số việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế:

Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế.

Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

– Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

– Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

– Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền… thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến chia thừa kế khi hết thời hiệu khởi kiện.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Xét xử vụ án ở SAGRI: Ông Trần Vĩnh Tuyến đề nghị xem xét lại tội danh, khẳng định không vụ lợi

‘Đến giờ này, bị cáo thấy mình có đủ cơ sở để chứng minh rằng mình không có sai sót nào cố ý và không vụ lợi’, ông Trần Vĩnh Tuyến tự bào chữa cho mình trước tòa.

Chiều 13/12, TAND TP.HCM tiếp tục phiên xét xử bị cáo Trần Vĩnh Tuyến (cựu Phó chủ tịch UBND TP.HCM); Lê Tấn Hùng (nguyên Tổng giám đốc Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn – SAGRI) và 17 đồng phạm liên quan đến các sai phạm xảy ra tại Sagri.

Kết thúc phần VKSND TP.HCM luận tội và đề nghị mức án, các bị cáo tự bào chữa sau khi được luật sư bảo vệ.

Trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm tra công khai tại phiên tòa, các sai phạm đều diễn ra trước thời điểm ông Trần Vĩnh Tuyến được phân công làm Phó Chủ tịch UBND TP.HCM.

Theo công văn số 2024 ngày 2/6/2020, Chủ tịch UBND TP.HCM khẳng định UBND TP.HCM có phân công cho ông Trần Vĩnh Tuyến thực hiện tiếp tục công việc thuộc lĩnh vực ông Lê Văn Khoa, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM phụ trách do ông Khoa nghỉ phép và nghỉ làm việc vì lý do sức khỏe vào năm 2017.

Do đó, ông Tuyến ký Quyết định 6077 dựa trên thẩm quyền, nhiệm vụ đã được phân công.

Theo đó đề nghị HĐXX cần xem xét đánh giá về nhận thức chủ quan có phải ông Tuyến biết sai, nhưng do nể nang mà vẫn ký.

Vị luật sư nói thêm, tại phiên tòa, ông Tuyến đã thừa nhận, dù không có động cơ vụ lợi, áp lực, nhưng do trong suy nghĩ có nể nang ông Lê Tấn Hùng là em của nguyên Bí thư Thành ủy TP.HCM. Nếu không ký quyết định, người khác sẽ hiểu sai là ông Tuyến gây khó dễ.

Ngoài ra quy kết của VKS khẳng định ông Tuyến ký Quyết định 6077 là nguyên nhân quyết định gây hậu quả thiệt hại cho Nhà nước 672 tỷ đồng là chưa bảo đảm căn cứ cả về mặt pháp lý và trên thực tế.

Từ những lập luận trên đề nghị HĐXX miễn trách nhiệm hình sự đối với ông Trần Vĩnh Tuyến.

Tại phần tự bào chữa cho mình, ông Trần Vĩnh Tuyến đề nghị HĐXX xem xét lại tội danh, xem xét chi tiết, thấu đáo phần bào chữa.

“Đến giờ này, bị cáo thấy mình có đủ cơ sở để chứng minh rằng mình không có sai sót nào cố ý và không vụ lợi. Bị cáo đã chủ động khắc phục về những hành vi thiệt hại này”, VietNamnet dẫn lời ông Tuyến trình bày.

Trước đó, theo thông tin trên Người Lao Động, đại diện VKSND TP.HCM đề nghị cơ quan xét xử cùng cấp phạt bị cáo Lê Tấn Hùng từ 14-16 năm tù về tội Tham ô tài sản; từ 12-14 năm tù về tội Vi phạm quy định về quản lý tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí, tổng hợp mức hình phạt đề nghị là 26-30 năm tù;

Bị cáo Nguyễn Thị Thúy (cựu kế toán trưởng SARGI) 11-13 năm tù về tội Vi phạm quy định về quản lý tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; 13-15 năm tù về tội Tham ô tài sản, tổng hợp hình phạt là 24-28 năm tù.

Cáo buộc tội danh Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí, đại diện VKSND TP.HCM đưa ra khung hình phạt từ 7-8 năm tù đối với bị cáo Trần Vĩnh Tuyến và bị cáo Trần Trọng Tuấn.

Đối với những bị cáo còn lại, đại diện VKSND TP.HCM đề nghị tòa sơ thẩm phạt từ 3 năm tù cho hưởng án treo đến 8 năm tù.

Đại diện VKSND TP.HCM cho rằng, trong giai đoạn giữ chức Tổng Giám đốc SAGRI, ông Lê Tấn Hùng biết việc chuyển nhượng dự án chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước, chưa đủ điều kiện pháp lý nhưng vẫn chỉ đạo cấp dưới hoàn thiện thủ tục, đề nghị UBND TP.HCM chấp thuận chuyển nhượng toàn bộ dự án từ SAGRI sang Tổng Công ty Phong Phú.

Ngoài ra, ông Hùng và cấp dưới lập 10 hồ sơ, hợp đồng khống cho cán bộ, nhân viên SARGI đi tham quan, học tập kinh nghiệm tại nước ngoài để chiếm đoạt 13,4 tỉ đồng tiền nhà nước. Như vậy, cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội.

Đối với sai phạm do bị cáo Trần Vĩnh Tuyến gây ra, đại diện VKSND TP.HCM nhận thấy ông Tuyến biết SAGRI chưa hoàn tất quy trình chuyển nhượng dự án nhưng vẫn đồng ý ký quyết định chấp thuận phương án chuyển nhượng giữa SAGRI với Tổng Công ty Phong Phú.

Đó là cơ sở giúp ông Lê Tấn Hùng chuyển nhượng trái pháp luật. Chưa kể, quyết định trên chưa bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch.

Theo Baomoi.com