Chính thức trình Quốc hội 2 siêu dự án đường vành đai trị giá 161.191 tỷ đồng

Việc sớm hoàn thành đường Vành đai 4 Hà Nội và đường Vành đai 3 TP.HCM sẽ tạo động lực, sức lan tỏa nhằm khôi phục, phát triển KT – XH khu vực Vùng Thủ đô, Vùng TP.HCM.

Phối cảnh Dự án đường vành đai 4 – vùng Thủ đô.

Sáng nay (6/6), theo Chương trình Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày sẽ Tờ trình về chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM – hai công trình hạ tầng giao thông đô thị lớn nhất từng được triển khai tại Việt Nam.

Tại Tờ trình số 211/TTr – CP, Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM.

Đây là 2 dự án có vai trò liên kết vùng, thúc đẩy phát triển đô thị hóa, có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển KT- XH đã được dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2011 – 2022.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là sự hạn chế về nguồn lực nên chưa có điều kiện để triển khai trong giai đoạn này. Đến nay, các điều kiện về cơ sở pháp lý, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, nhu cầu thực tiễn và nguồn lực cơ bản đáp ứng yêu cầu, do vậy, việc triển khai 2 dự án trong giai đoạn 2021 – 2025 là hợp lý và cần thiết.

Theo đề xuất của Chính phủ, Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội có chiều dài 112,8 km, gồm 103,1 km đường Vành đai 4 và 9,7 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài – Hạ Long, đi qua địa phận TP. Hà Nội (58,2km); Hưng Yên (19,3km); Bắc Ninh (dài 25,6km). Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM dài 76,34 km, đi qua địa phận TP.HCM (47,51km); Đồng Nai (11,26km); Bình Dương (10,76km); Long An (6,81km).

Cả hai dự án đều tiến hành GPMB các tuyến đường theo quy mô quy hoạch (6-8 làn xe cao tốc) và hệ thống đường đô thị song hành 2 bên. Riêng đường Vành đai 4 sẽ GPMB dự trữ cho tuyến đường sắt vành đai. Trên cơ sở kết quả dự báo nhu cầu vận tải, phù hợp các giải pháp đầu tư và nguồn lực, giai đoạn 1 đầu tư theo quy mô 4 làn xe cao tốc hạn chế, vận tốc thiết kế 80 km/h; đầu tư xây dựng đường song hành 2 bên.

Với quy mô đầu tư như trên, Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội có diện tích đất chiếm dụng khoảng 1.341 ha; kinh phí GPMB, tái định cư khoảng 19.590 tỷ đồng; Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM là khoảng 642,7 ha, kinh phí GPMB, tái định cư khoảng 41.589 tỷ đồng, thực hiện GPMB một lần theo quy hoạc và GPMB theo quy mô hoàn chỉnh đối với các nút giao liên thông (đầu tư giai đoạn 1).

Tại Tờ trình số 211, Chính phủ kiến nghị Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô sẽ có hình thức đầu tư là đầu tư công kết hợp đầu tư theo phương thức PPP, được chia thành 7 dự án thành phần; tách riêng phần GPMB và xây dựng đường song hành triển khai độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương, thực hiện theo hình thức đầu tư công; riêng Dự án thành phần 2 gồm hệ thống đường cao tốc toàn tuyến và tuyến nối 9,7 km do UBND TP. Hà Nội là cơ quan có thẩm quyền.

Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM được kiến nghị đầu tư theo hình thức đầu tư công, chia thành 8 dự án thành phần; tách riêng phần GPMB và phần xây dựng triển khai độc lập theo địa giới giữa các địa phương.

Đối với Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô, sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85.813 tỷ đồng, sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước và vốn BOT của nhà đầu tư, trong đó vốn BOT 29.447 tỷ đồng. Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 75.378 tỷ đồng, sử dụng toàn bộ vốn Ngân sách Nhà nước, trong đó ngân sách Trung ương tham gia là 38.741 tỷ đồng.

Chính phủ dự kiến thời gian thực hiện 2 dự án là từ năm 2022 đến năm 2027. Để đàm bảo tiến độ đầu tư, Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép áp dụng các nhóm cơ chế, chính sách đặc biệt để triển khai đầu tư các dự án.

Tại Báo cáo tóm tắt kết quả thẩm tra Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM, Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với việc phân chia các Dự án thành các dự án thành phần. Ủy ban Kinh tế kiến nghị cần cụ thể hóa trách nhiệm “đầu mối” của TP. Hà Nội và TP.HCM tại dự thảo Nghị quyết của các Dự án khi quy định pháp luật hiện hành chưa có quy định về khái niệm cũng như trách nhiệm, quyền hạn cụ thể về vai trò này.

Đồng thời, do các dự án thành phần sẽ giao các địa phương tổ chức thực hiện nên có thể dẫn đến mỗi cơ quan tổ chức một cách khác nhau, không bảo đảm được tính đồng bộ, thống nhất và có thể dẫn đến tăng tổng mức đầu tư của các Dự án, vì vậy Ủy ban Kinh tế đề nghị giao cho một cơ quan có năng lực, kinh nghiệm thực hiện công tác thẩm định cho các dự án thành phần của 2 dự án.

Ủy ban Kinh tế cũng nên ý kiến đối với đề xuất của Chính phủ về việc Quốc hội cho phép Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc chỉ định thầu trong quá trình triển khai thực hiện Dự án đối với các gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ di dời hạ tầng kỹ thuật, gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư và áp dụng trong 2 năm (2022 – 2023); cho phép trong giai đoạn triển khai Dự án, nhà thầu thi công không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nằm trong Hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ Dự án; việc khai thác mỏ khoáng sản được thực hiện đến khi hoàn thành Dự án…

Theo đó, Ủy ban Kinh tế nhận thấy hai cơ chế này đã được quy định tại khoản 1 và 2 Điều 5 Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, chỉ áp dụng cho các gói dự án thuộc phạm vi Chương trình trong 2 năm (2022 – 2023). Do đó, đề nghị chỉ áp dụng các cơ chế này trong 2 năm 2022 và 2023. Một số ý kiến đề nghị áp dụng các cơ chế này trong 2 năm kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành.

Đối với cơ chế, chính sách Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội, trong đó có việc cho phép phần vốn nhà nước tham gia tối đa 66% tổng mức đầu tư Dự án, Ủy ban Kinh tế cho rằng, Dự án có sơ bộ tổng mức đầu tư rất lớn, do đó nếu áp dụng theo khoản 2 Điều 69 của Luật Đầu tư theo phương thức PPP sẽ không khả thi về phương án tài chính và khó thu hút được các nhà đầu tư tham gia đầu tư Dự án. Vì vậy, đa số ý kiến tán thành với đề xuất này.

Đối với cơ chế, chính sách Dự án Vành đai 3 TP.HCM, Ủy ban Kinh tế nhất trí với chủ trương Dự án sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng cần tổ chức thực hiện thu phí để thu hồi vốn đầu tư cho Ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ trong bước nghiên cứu khả thi cần xác định chính xác tỷ lệ góp vốn Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương đối với phần đường cao tốc để làm cơ sở xây dựng phương án thu hồi vốn đầu tư hoàn trả ngân sách.

PGS.TS. Trần Đình Thiên cho rằng, sau khi hai dự án này hoàn thành, có thể hình dung ra sự “bùng nổ” khá mạnh mẽ ở hai trung tâm tăng trưởng lớn nhất của Việt Nam. Từ sự ách tắc lâu nay chúng ta phải chịu, khi khai thông, “bùng nổ” sẽ hiện ra. PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng: Chân lý “đường thông” sẽ thể hiện ở 3 điểm chính.

Thứ nhất, hành lang công nghiệp sẽ phát triển, các khu công nghiệp sẽ được định hình rõ ràng, mạnh mẽ hơn. Công nghiệp theo tinh thần mới là khu công nghiệp đẳng cấp cao.

Thứ hai là vận tải và các tuyến logistic sẽ kết nối mạnh mẽ hơn, sôi động hơn. Mục đích là hình thành các đô thị và chuỗi đô thị đẳng cấp cao, hình thành nên không gian kết nối tốt, bảo đảm cuộc sống, theo đúng tiêu chuẩn bền vững.

Thứ ba, trong tầm nhìn xa hơn nữa là nối các hành lang này với các sân bay thì có thể hình dùng sự kết nối bầu trời với thế giới. Qua đó tận dụng cơ hội phục hồi để tạo ra đột phá, phát triển.

Theo Báo mới.

Hồ sơ khai nhận thừa kế nhà đất không có di chúc

Ông bà ngoại của ông Hoàng Lâm ly hôn từ năm 1970, chỉ có một con là mẹ của ông Lâm. Sau đó, bà ngoại nuôi mẹ của ông Lâm, ông ngoại kết hôn với người khác. Nay bà ngoại ông Lâm mất, không để lại di chúc.

Mẹ ông Lâm muốn khai nhận thừa kế để sang tên sổ đỏ, nhưng UBND xã yêu cầu phải có giấy tờ ly hôn của ông bà ngoại (mảnh đất đó là do cụ ngoại để lại cho bà ngoại ông Lâm). Ông Lâm hỏi, yêu cầu của xã như vậy có đúng quy định không?

Luật sư xin tư vấn như sau:

Tại Điểm a, Khoản 1, Điều 650 và Điểm a, Khoản 1, Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, thừa kế theo pháp luật được áp dụng đối với trường hợp người để lại di sản khi chết không có di chúc. Những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

Trường hợp bà ngoại của ông Hoàng Lâm chết không để lại di chúc thuộc trường hợp thừa kế theo pháp luật. Tổ chức hành nghề công chứng địa phương nơi có đất hoặc UBND cấp xã nơi có đất có thẩm quyền công chứng, chứng thực văn bản khai nhận thừa kế đối với trường hợp có 1 người thừa kế duy nhất.

Trong hồ sơ yêu cầu công chứng, chứng thực phải có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản và người yêu cầu công chứng, chứng thực đúng là người được hưởng di sản.

Tổ chức hành nghề công chứng, UBND xã có trách nhiệm niêm yết việc thụ lý công chứng, chứng thực văn bản khai nhận di sản trước khi thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Trường hợp chứng thực văn bản khai nhận di sản tại UBND xã

Tại Điểm h, Khoản 2, Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (tình trạng còn hiệu lực) quy định, UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã) có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là tài sản quy định tại các Điểm c, d và đ Khoản này (gồm tài sản là động sản, tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản là nhà ở). Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã thực hiện ký chứng thực và đóng dấu của UBND cấp xã.

Trường hợp bà ngoại ông Hoàng Lâm khi chết chỉ có một mình mẹ ông Lâm là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất. Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đứng tên bà ngoại ông Lâm. Trường hợp này, hồ sơ chứng thực văn bản khai nhận thừa kế gửi UBND xã cần có: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Trích lục khai tử của bà ngoại ông Lâm; Giấy khai sinh của mẹ ông Lâm; Bản án, quyết định của tòa án về việc ly hôn của ông, bà ngoại của ông Lâm; Giấy tờ, tài liệu chứng minh từ khi ly hôn đến khi chết bà ngoại không kết hôn với ai; Giấy tờ, tài liệu chứng minh cha, mẹ của bà ngoại ông Lâm đều đã chết. Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân của bà ngoại và mẹ ông Lâm.

Theo phản ánh của ông Hoàng Lâm, khi mẹ ông yêu cầu chứng thực văn bản khai nhận thừa kế, người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã yêu cầu phải có bản án, quyết định của Tòa án về việc ly hôn của ông bà ngoại của ông Lâm, đây là tài liệu cần thiết chứng minh ông ngoại không còn là chồng, không phải là người thừa kế theo pháp luật của bà ngoại.

Trường hợp không còn giữ bản án quyết định ly hôn của ông, bà ngoại thì, mẹ ông Lâm cần phải tìm gặp ông ngoại ông để đề nghị cung cấp, hoặc đến Tòa án xin cấp trích lục bản án, quyết định ly hôn đó.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến sự việc nêu trên. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Bắt đầu triển khai chứng thực hợp đồng điện tử trong tháng 6/2022

Mục tiêu trong năm 2022 sẽ có 50% doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử trong hoạt động giao dịch. Bộ Công Thương đã sẵn sàng cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử trong tháng 6/2022.

Bộ Công Thương cho biết, những năm qua, thương mại điện tử Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, nhảy vọt với tốc độ tăng trưởng 16- 17%/năm. Các giao dịch thương mại điện tử được thực hiện thông qua sàn thương mại điện tử, mạng xã hội và website bán hàng trực tiếp của doanh nghiệp, người kinh doanh. Tuy phát triển với tốc độ đột phá, các giao dịch thương mại điện tử luôn ẩn chứa nhiều rủi ro cho cả người mua và người bán.

Hợp đồng điện tử là giải pháp giúp doanh nghiệp hoạt động tin cậy và hiệu quả.

Nhằm đảm bảo an toàn cho các giao dịch, giao kết hợp đồng cho chủ thể trên môi trường thương mại điện tử, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ ban hành hành lang pháp lý cho hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử trong các Nghị định 52/2013/NĐ-CP và gần đây nhất là Nghị định 85/2021/NĐ-CP về thương mại điện tử, chính thức tạo hành lang pháp lý cần thiết để cấp phép cho hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử tại Việt Nam.

Ông Đặng Hoàng Hải, Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương nhận định, lợi ích mang lại cho doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức rất lớn. Trước hết, giúp tiết kiệm chi phí. So với chi phí hiện nay, một hợp đồng truyền thống sẽ mất chi phí giấy tờ, in ấn, chi phí chuyển phát hợp đồng hoặc chi phí đi lại. Bên cạnh đó,giúp tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu suất.

Ngoài ra, với hợp đồng điện tử, các bên thứ 3 như ngân hàng, các tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước có thể căn cứ trên hợp đồng điện tử với xác thực của đơn vị được Bộ Công Thương cấp phép hoặc thông qua trục phát triển hợp đồng điện tử của Bộ Công Thương để xác minh giá trị bản gốc của hợp đồng. Việc này tiết kiệm nhiều thời gian xác minh và đảm bảo hạn chế chứng từ giả, chứng từ khống.

Ông Hải cũng cho biết thêm, việc lưu trữ hợp đồng dưới dạng điện tử sẽ giúp doanh nghiệp quản lý, tra cứu, tìm kiếm một cách dễ dàng mà vẫn đảm bảo được sự an toàn, bảo mật của nội dung hợp đồng.

Thông tin về lộ trình đưa hợp đồng điện tử vào thực tế, ông Hải cho hay, ngày 15/3/2022, Ủy ban quốc gia về Chuyển đổi số đã có Quyết định số 27/QĐ-UBQGCĐS về Ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2022, trong đó có mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử đạt 50%.

Mặt khác, hành lang pháp lý cũng sẵn sàng, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 01/2022/TT-BCT hướng dẫn Nghị định 85/2021/NĐ-CP. Trong quý I và II/2022, Bộ đã làm việc với các doanh nghiệp gửi đề nghị cấp đăng ký cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử và sẵn sàng cung cấp dịch vụ trong tháng 6/2022.

Song song với việc hoàn thiện hành lang pháp lý, căn cứ cấp phép cho các doanh nghiệp, Bộ Công Thương đã phát triển hệ thống Trục phát triển hợp đồng điện tử quốc gia.

Hệ thống trục sẽ là nơi cung cấp thông tin xác thực hợp đồng toàn quốc cho bên thứ 3, đồng thời là nền tảng hỗ trợ, kết nối các tổ chức chứng thực hợp đồng điện tử được cấp đăng ký, kết nối với nhà cung cấp dịch vụ dấu thời gian, chữ ký số, định danh và xác thực đã được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép.

Hệ thống trục phát triển hợp đồng điện tử quốc gia sẽ đóng vai trò xây dựng, phát triển thị trường ứng dụng thực tế của hợp đồng điện tử, kết nối các nền tảng công nghệ, các hạ tầng số tin cậy của Chính phủ đến doanh nghiệp, tổ chức, người dùng thông qua các giao dịch thương mại.

Theo Báo mới.

Hà Nội hướng dẫn bán, cho thuê nhà ở xã hội

Sở Xây dựng Hà Nội vừa có văn bản gửi Sở Tài nguyên và môi trường, Ủy ban nhân dân các quận, huyện, thị xã và chủ đầu tư dự án có nhà ở xã hội, hướng dẫn việc bán, cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn ngoài ngân sách.

Phối cảnh dự án nhà ở xã hội Thượng Thanh, quận Long Biên. 

Đối tượng thuê, thuê mua, mua nhà ở xã hội gồm: Người có công với cách mạng, người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo khu vực đô thị; người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, quân nhân chuyên nghiệp; công nhân trong cơ quan, đơn vị thuộc công an, quân đội nhân dân; cán bộ, công chức, viên chức; hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và phải giải tỏa, phá dỡ nhà ở mà chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở.

Điều kiện để được hưởng chính sách hỗ trợ gồm: Chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình; chưa được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở dưới mọi hình thức tại nơi sinh sống, học tập hoặc đang sở hữu nhà; diện tích bình quân đầu người trong hộ gia đình thấp hơn mức tối thiểu do Chính phủ quy định; phải có đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú từ 1 năm trở lên tại tỉnh, thành phố nơi có nhà ở xã hội.

Người mua, thuê mua nhà ở xã hội không được phép thế chấp, chuyển nhượng nhà ở trong thời gian tối thiểu 5 năm và chỉ được phép bán lại, thế chấp hoặc cho thuê sau khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai. Trong thời hạn chưa đủ 5 năm, nếu bên mua, thuê mua có nhu cầu bán lại thì chỉ được bán cho chủ đầu tư hoặc đối tượng được mua, thuê mua nhà ở xã hội theo quy định với giá bán tối đa bằng giá bán nhà ở xã hội cùng loại tại cùng địa điểm, thời điểm bán.

Nguyên tắc xét duyệt đối tượng được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội, trường hợp tổng số hồ sơ đăng ký hợp lệ bằng hoặc ít hơn tổng số căn hộ do chủ đầu tư công bố thì việc lựa chọn căn hộ thực hiện theo hình thức thỏa thuận giữa chủ đầu tư và khách hàng. Trường hợp tổng số hồ sơ đăng ký nhiều hơn thì việc xét duyệt, lựa chọn đối tượng thực hiện theo hình thức bốc thăm…

Theo Báo mới.

Giá chung cư có giảm nếu người mua chỉ được sở hữu 50-70 năm?

Bộ Xây dựng đề xuất cấp sổ hồng cho căn hộ có thời hạn 50-70 năm khiến nhiều người có ý định mua nhà tỏ ra lo lắng. Số khác lại ủng hộ vì có thể mua được chung cư giá rẻ.

Dự định mua một căn chung cư giá hơn 3 tỷ đồng tại quận Thanh Xuân (Hà Nội), ông Đào Sỹ bỗng đắn đo sau khi nghe tin Bộ Xây dựng đề xuất áp niên hạn cấp sổ hồng cho căn hộ chung cư có thời hạn 50-70 năm.

“Tích cóp nhiều năm mới mua được căn hộ, nếu chỉ sở hữu 50-70 năm thì sau này, tôi và các con sẽ ở đâu? Chẳng ai bỏ ra một số tiền lớn như vậy để mua một thứ chỉ sở hữu được 50 hay 70 năm”, ông nói.

Song ở một góc nhìn khác, anh Nguyễn Hiếu (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) lại ủng hộ đề xuất này vì cho rằng những người thu nhập trung bình như anh mới có thể dễ dàng hơn khi mua căn hộ. “Đây là cách giúp chung cư về với giá trị thực, giúp người thực sự cần mua tiếp cận được nhà ở với mức giá 1-1,5 tỷ đồng thay vì 3-4 tỷ như trước. Hơn nữa, chung cư sau 50-70 năm cũng sẽ xuống cấp nghiêm trọng, khó có thể ở lâu dài”, anh nêu quan điểm.

Đề xuất sổ hồng chung cư chỉ có thời hạn 50-70 năm của Bộ Xây dựng đang gây nhiều tranh cãi cũng như lo lắng cho người dân đang và có ý định sở hữu chung cư. 

Giá căn hộ sẽ giảm

Theo khảo sát của Zing, trên thị trường đã có 2 loại hình căn hộ là sở hữu lâu dài và có thời hạn 50-70 năm. Các căn hộ sở hữu có thời hạn thường có giá bán rẻ hơn khoảng 15-30% so với căn hộ sở hữu lâu dài.

Nguyên nhân bởi chủ đầu tư chỉ phải nộp tiền thuê đất 50 năm, trong khi đó đối với những dự án có thời hạn lâu dài, chủ đầu tư phải nộp nhiều tiền sử dụng đất hơn.

Tại dự án D’.Capitale của Tập đoàn Tân Hoàng Minh trên đường Trần Duy Hưng (Cầu Giấy, Hà Nội) có 4 tòa căn hộ sở hữu lâu dài và 2 tòa căn hộ officetel, vừa ở vừa làm văn phòng có thời gian sở hữu chỉ 50 năm. Hiện, căn hộ sở hữu lâu dài của dự án này đang được rao bán giá dao động 3-6 tỷ đồng, trong khi thời hạn 50 năm được rao bán 1,3-1,5 tỷ đồng/căn 39 m2 và từ 2,2 tỷ đồng/căn 51 m2…

Trao đổi với Zing, ông Sử Ngọc Khương, Giám đốc cấp cao Bộ phận đầu tư Savills Việt Nam. cho biết bất động sản luôn được hiểu là tài sản có giá trị gia tăng trong tương lai.

“Nếu đề xuất này được áp dụng, trong tương lai có khả năng dẫn đến xu hướng người dân sẽ không chọn chung cư mà chuyển sang mua nhà phố hoặc các đơn nguyên ở ngoài để đảm bảo giá trị lâu dài của tài sản”, ông nhận định.

Do đó, lãnh đạo Savills cho rằng đâu đó tính thanh khoản của thị trường căn hộ sẽ bị ảnh hưởng và giá bán căn hộ sẽ bị chững lại. Để đảm bảo quyền lợi của người dân, khi bán căn hộ và quyền sử dụng đất theo niên hạn công trình 50-70 năm, cần điều chỉnh tiền sử dụng đất khi chủ đầu tư thực hiện nghĩa vụ tài chính, từ đó điều chỉnh giá bán cuối cùng của sản phẩm.

Tương tự, ông Trần Nhật Quang – Giám đốc đầu tư Kim Oanh Group – cũng cho rằng trong trường hợp đề xuất của Bộ Xây dựng được áp dụng, giá bán ra sẽ phải giảm, bởi từ sở hữu lâu dài sang sở hữu có thời hạn là khoảng cách rất lớn đối với người mua.

“Họ sẽ tự động giảm tiền xuống với lý do đơn giản: Tôi đang mua tiêu sản, sau 50 năm coi như mất hết, mặc dù chẳng mấy ai giữ căn hộ tới 50 năm”, lãnh đạo doanh nghiệp này nêu quan điểm.

Theo ông Quang, suy nghĩ tài sản chỉ có thời hạn 50 năm sẽ khiến người dân giảm mức tiền sẵn sàng mua sản phẩm, họ sẽ không chấp nhận giá như trước kia. “Nhưng chủ đầu tư thì vẫn tốn chừng đó tiền để phát triển dự án. Do đó, đề xuất này sẽ bào mòn phần doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp”, vị này đánh giá.

Dự án D’Capitale Trần Duy Hưng bao gồm 4 tòa căn hộ sở hữu lâu dài và 2 tòa căn hộ Officetel nằm ngay ngã tư Trần Duy Hưng – Khuất Duy Tiến – đại lộ Thăng Long. 

Đề xuất gây khó cho doanh nghiệp

Tuy nhiên, ông Quang cho rằng để giảm giá chung cư hiện nay rất khó vì các nhà phát triển bất động sản vẫn phải chi một khoản tiền tương tự để phát triển dự án. Tuy nhiên, với những căn hộ đã bàn giao, Bộ Xây dựng giữ nguyên thời hạn sở hữu.

Để giảm giá bán chung cư, ông Quang cho rằng cách duy nhất có thể giảm chính là lợi nhuận cho nhà phát triển. Song điều đó sẽ làm mất dần sự hứng thú phát triển nhà cao tầng (vốn dĩ đã tốn nhiều thời gian hơn và nhiều chi phí hơn nhà thấp tầng hoặc đất nền) và các nhà phát triển bất động sản sẽ chuyển dịch sang các sản phẩm thay thế khác.

“Hệ quả là nguồn cung căn hộ chung cư sẽ giảm, trong khi nguồn cầu vẫn rất cao và bền vững, dẫn đến giá không những không giảm, mà còn có thể tăng dần. Cuối cùng, nhiều khả năng người mua nhà sẽ phải chịu toàn bộ chi phí tăng lên”, ông nói với Zing.

Về nhu cầu, ông cho rằng có thể sẽ sụt giảm nhưng không lớn và sẽ sớm hồi phục, nhất là ở các đô thị lớn có mật độ dân cư cao và quỹ đất ngày càng hiếm như ở Hà Nội, TP.HCM.

“Bởi căn hộ chung cư có những lợi thế so với nhà liền thổ. Cùng một số tiền khoảng 1,5-3,5 tỷ đồng, người mua có thể chọn một căn chung cư tương đối gần trung tâm, thuận tiện đi làm, tiện ích đầy đủ, đảm bảo an ninh. Trong khi nếu đi mua căn nhà phố thì phải xa trung tâm hoặc nằm sâu trong hẻm – nơi có nhiều tệ nạn xã hội, ngập lụt…”, ông nói.

Việc Bộ Xây dựng đề xuất cấp sổ hồng cho căn hộ chung cư có thời hạn 50-70 năm có thể khiến giá chung cư lao dốc mạnh. 

Nhiều điểm cần lưu ý

Đối với đề xuất cấp sổ hồng có thời hạn 50-70 năm đối với căn hộ, ông Sử Ngọc Khương đánh giá có 2 vấn đề quan trọng cần cân nhắc. Thứ nhất, việc cấp sổ hồng đồng nghĩa với việc xác nhận quyền sử dụng và sở hữu tài sản trên đất có thời hạn. Như vậy, theo đề xuất, người dân có quyền định đoạt và sử dụng trong thời gian 50-70 năm cho đến khi công trình xuống cấp.

Thứ hai, chứng nhận quyền sử dụng đất của chủ đầu tư dự án lại là sở hữu lâu dài. Đề xuất này cho thấy sau 50-70 năm thì quyền định đoạt, sở hữu, sử dụng tài sản trên đất sẽ được kết thúc theo niên hạn công trình.

“Tuy nhiên, quyền lợi gắn liền với đất sở hữu lâu dài của chủ đầu tư sẽ được xử lý như thế nào vẫn chưa được xác định rõ. Đây là điểm cần phải quy định rõ ràng trong dự thảo luật bởi khi mua sản phẩm căn hộ, người dân luôn hiểu rằng tài sản của mình có giá trị sở hữu và sử dụng lâu dài”, ông nêu vấn đề.

Các nhà làm luật cần phải quy định rõ sau 50-70 năm, đất được xem là sử dụng lâu dài này sẽ được xử lý ra sao, người dân có quyền sử dụng hay không.

Ông Sử Ngọc Khương – Giám đốc cấp cao Bộ phận đầu tư Savills Việt Nam.

Theo ông, có 2 luật cần tham chiếu là Luật Đất đai và Luật Xây dựng. Ví dụ, theo Luật Xây dựng, đối với công trình cấp 2, sau thời hạn 50-100 năm, công trình cần được dỡ bỏ và xây dựng mới. Như vậy cần xác định quyền sở hữu của người dân trong trường hợp này bởi khi mua chung cư, người dân thường coi đây là một tài sản có giá trị sử hữu lâu dài.

Do đó, đối với công trình chung cư và căn hộ, các nhà làm luật cần phải quy định rõ sau 50-70 năm, đất được xem là sử dụng lâu dài này sẽ được xử lý ra sao, người dân có quyền sử dụng hay không. Nếu không làm rõ được điều này, sẽ không nhận được sự đồng thuận của các thành phần liên quan trong xã hội.

Ông đánh giá đề xuất mang tính tích cực là ở góc độ về quản lý nhưng đâu đó vẫn tác động một phần nào đó của sự không đồng tình của đại bộ phận người dân khi mà chúng ta chưa xác lập được.

Trong trường hợp sau 50-70 năm, công trình bị tháo dỡ thì tại thời điểm đó, việc định giá đất sẽ được thực hiện và tính toán chia lại như thế nào để trả lại cho người dân. Nếu sau 50-70 năm, người dân không biết sẽ được tái định cư tại chỗ hay tái định cư chỗ khác, hoặc không biết giá trị tài sản của mình còn lại là bao nhiêu sẽ đặt người dân vào vị trí khó xử.

Trong văn bản vừa gửi Thủ tướng, Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) đề nghị không bổ sung quy định về thời hạn sở hữu nhà chung cư vì không phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành và không phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của người dân.

Theo ông Lê Hoàng Châu – Chủ tịch HoREA, đơn vị này đã nghiên cứu và nhận thấy đề xuất bổ sung quy định về thời hạn sở hữu nhà chung cư không phù hợp đối với trường hợp nhà chung cư được xây dựng trên đất ở ổn định lâu dài và các chủ sở hữu nhà chung cư có quyền sử dụng đất ở ổn định lâu dài đối với diện tích đất xây dựng khu chung cư theo quy định của pháp luật về đất đai và đã có một số bất cập.

Theo Báo mới.

Chung cư hết hạn thời sử dụng, quyền sở hữu tài sản phân định thế nào?

Cần phân định rõ quyền sở hữu là quan điểm của đại diện Savills Việt Nam khi nhắc đến đề xuất quy định thời hạn sử dụng chung cư chỉ từ 50-70 năm thay vì lâu dài như từ trước đến nay (theo đề cương luật Nhà ở (sửa đổi) của Bộ Xây dựng).

Đề xuất của Bộ Xây dựng đang thu hút nhiều sự chú ý của các thành viên thị trường.

Bình luận về vấn đề cấp sổ hồng có thời hạn 50 – 70 năm cho căn hộ để ở, ông Sử Ngọc Khương, Giám đốc Cấp cao Bộ phận Đầu tư của Savills Việt Nam cho biết, ở góc độ xây dựng theo quy chuẩn Việt Nam, tuổi thọ của công trình quy định Bậc 1 là trên 100 năm, bậc 2 là công trình xây dựng có niên hạn từ 50 năm đến 100 năm, bậc 3 là có niên hạn sử dụng từ 20 năm đến 50 năm, bậc 4 là công trình sử dụng dưới 20 năm.

Sở dĩ có những cấp bậc này bởi nó liên quan đến vấn đề an toàn của công trình khi mà niên hạn sử dụng quá lâu và nó ảnh hưởng đến an toàn của người dân và vấn đề chỉnh trang đô thị.

Ông Khương cho rằng, có 2 vấn đề quan trọng cần cân nhắc liên quan đến đề xuất này. Thứ nhất, việc cấp sổ hồng đồng nghĩa với việc xác nhận quyền sử dụng và sở hữu tài sản trên đất có thời hạn. Như vậy, theo đề xuất, người dân có quyền định đoạt và sử dụng trong thời gian 50 – 70 năm cho đến khi công trình xuống cấp. Thứ hai, chứng nhận quyền sử dụng đất của chủ đầu tư dự án lại là sở hữu lâu dài.

Theo ông Khương, đề xuất này cho thấy sau 50 – 70 năm này thì quyền định đoạt, sở hữu, sử dụng tài sản trên đất sẽ được kết thúc theo niên hạn công trình. Tuy nhiên, quyền lợi gắn liền với quyền sử dụng đất lâu dài của chủ đầu tư sẽ được xử lý như thế nào vẫn chưa được xác định rõ.

“Đây là điểm cần phải quy định rõ ràng trong dự thảo luật, bởi khi mua sản phẩm căn hộ, người dân luôn hiểu rằng tài sản của mình có giá trị sở hữu và sử dụng lâu dài”, ông Khương nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, theo ông Khương, có 2 bộ luật cần tham chiếu là Luật Đất đai và Luật Xây dựng. Ví dụ, theo Luật Xây dựng, đối với công trình cấp 2, sau thời hạn 50 – 100 năm, công trình cần được dỡ bỏ và xây dựng mới. Như vậy, cần xác định quyền sở hữu của người dân trong trường hợp này, bởi khi mua chung cư, người dân thường coi đây là một tài sản có giá trị sở hữu lâu dài. Do đó, đối với công trình chung cư và căn hộ, các nhà làm luật cần phải quy định rõ sau 50 – 70 năm, đất được xem là sử dụng lâu dài này sẽ được xử lý ra sao, người dân có quyền sử dụng hay không.

Về góc độ quản lý, ông Khương cho rằng, việc quy định thời hạn của các dự án chung cư có thể hỗ trợ phần nào quá trình di dời người dân sinh sống tại các chung cư xuống cấp tại những thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM, đảm bảo an toàn cho người dân. Như vậy, có thể thấy đề xuất này cũng mang đến mặt tích cực.

Tuy nhiên, về quy hoạch tại các đô thị lớn, chung cư là lời giải được áp dụng trên toàn cầu cho bài toán về nhà ở với những đô thị nén. Nếu đề xuất này được đưa vào thực tế, người dân có thể sẽ không ở thành phố mà chuyển sang các khu vực có bất động sản liền thổ để tối ưu nguồn tài chính mình chi trả.

“Bất động sản luôn được hiểu là tài sản có giá trị gia tăng trong tương lai. Nếu đề xuất này được áp dụng, trong tương lai có khả năng dẫn đến xu hướng người dân sẽ không chọn chung cư mà chuyển sang mua nhà phố hoặc các đơn nguyên ở ngoài để đảm bảo giá trị lâu dài của tài sản. Do đó, điều này sẽ khiến tính thanh khoản của thị trường căn hộ sẽ bị ảnh hưởng và giá bán căn hộ sẽ bị chững lại”, ông Khương nhấn mạnh.

Ông Khương phân tích thêm, trong trường hợp hết hạn sử dụng 50 – 70 năm, nếu công trình bị tháo dỡ thì tại thời điểm đó, việc định giá đất sẽ được thực hiện và tính toán chia lại như thế nào để trả lại cho người dân cũng chưa được quy định. Nếu sau 50 – 70 năm, người dân không biết sẽ được tái định cư tại chỗ hay tái định cư chỗ khác, hoặc không biết giá trị tài sản của mình còn lại là bao nhiêu sẽ là một vấn đề lớn đối với người dân.

Bên cạnh đó, việc thanh lý tài sản và bán đấu giá để chia lại cho những người có căn hộ tại dự án đó đến nay cần có lời giải rõ ràng hơn để nhà đầu tư mới có thể vào và mua lại khu đất và xây dựng trên đất.

Theo ông Khương, các dự án chung cư hiện nay cũng có kế hoạch tu sửa định kỳ. Vì vậy, nếu sau thời hạn 50 – 70 năm, nếu chất lượng xây dựng của dự án vẫn còn đảm bảo cho cuộc sống của người dân thì cần gia hạn thời gian sử dụng dựa theo kết quả kiểm định ở thời điểm đó.

Cùng với đó, để đảm bảo quyền lợi của người dân, khi bán căn hộ và quyền sử dụng đất theo niên hạn công trình 50 – 70 năm, ông Khương khuyến nghị cần điều chỉnh tiền sử dụng đất khi chủ đầu tư thực hiện nghĩa vụ tài chính, từ đó điều chỉnh giá bán cuối cùng của sản phẩm phù hợp.

Theo Báo mới.

Ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

Theo các đại biểu Quốc hội, việc không thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là hợp lý, bởi, ưu điểm của việc xử lý vi phạm bằng biện pháp hành chính là hồ sơ, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, chi phí thấp nhằm kịp thời ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Tiếp tục Chương trình làm việc kỳ họp thứ 3, sáng ngày 31/5, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.

Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành phương án không thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, một số ý kiến tán thành thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này và đề nghị quy định lộ trình thực hiện.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến của đa số đại biểu Quốc hội. Việc không thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là hợp lý, bởi, ưu điểm của việc xử lý vi phạm bằng biện pháp hành chính là hồ sơ, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, chi phí thấp nhằm kịp thời ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, biện pháp này không loại trừ quyền của các bên khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho hay, việc chuyển một số hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp để chỉ giải quyết theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự sẽ kéo dài thời gian, gây tốn kém chi phí, làm giảm sức thu hút và khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh. Hành vi xâm phạm quyền trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ không chỉ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của một hay một số tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến quyền lợi của người tiêu dùng, ảnh hưởng đến trật tự quản lý hành chính nhà nước và toàn xã hội.

Đại biểu Dương Tấn Quân (Đoàn Bà Rịa – Vũng Tàu) phát biểu tại Hội trường. Ảnh: TL.

Trong điều kiện hiện nay, nếu loại bỏ biện pháp xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền liên quan đến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí sẽ dẫn đến khoảng trống pháp luật trong việc kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, tăng thêm gánh nặng cho hệ thống Tòa án hiện đang quá tải, cũng như tạo thêm thách thức cho đương sự khi sử dụng biện pháp tố tụng dân sự.

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) cũng không yêu cầu hạn chế việc áp dụng biện pháp xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật của quốc gia thành viên mà thậm chí còn yêu cầu tăng cường các biện pháp xử lý bằng chế tài hình sự đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

“Việc xử lý hành chính không loại trừ quyền khởi kiện ra tòa theo thủ tục tố tụng dân sự nên vẫn bảo đảm quyền lợi của các bên khi có tranh chấp về sở hữu trí tuệ”- Chủ nhiệm Hoàng Thanh Tùng nói.

Đại biểu Nguyễn Văn Thi (Đoàn Bắc Giang) tán thành phương án không thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và giữ nguyên như Luật hiện hành. Đại biểu cho rằng, việc áp dụng biện pháp xử phạt hành chính đối với tất cả các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là hợp lý vì biện pháp xử lý hành chính, thủ tục đơn giản nhanh, kịp thời ngăn chặn các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ.

Theo đại biểu, việc này không những đảm bảo bảo vệ quyền của chủ sở hữu mà còn kịp thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đảm bảo trật tự quản lý hành chính. Đại biểu cho biết thêm, việc xử lý hành chính cũng không loại trừ quyền khởi kiện ra tòa theo thủ tục tố tụng dân sự nên vẫn đảm bảo được quyền của các bên có tranh chấp về sở hữu trí tuệ.

Theo đại biểu Dương Tấn Quân (Đoàn Bà Rịa – Vũng Tàu), việc xử lý hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng các biện pháp xử phạt vi phạm chính đã có những ưu điểm vượt trội so với việc giải quyết thủ tục tố tụng hình sự như trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật đã phân tích rất rõ. Theo đại biểu, tại Khoản 2, Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành cũng đã giao cho Chính phủ quy định cụ thể cái hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và thủ tục xử phạt.

Đại biểu Dương Tấn Quân cho rằng, quy định như vậy là linh hoạt, kịp thời, nhanh chóng và phù hợp với tình hình thực tế sự phát triển của xã hội

Tuy nhiên, đại biểu Thái Thị An Chung (Nghệ An) đề nghị, ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc thêm các quy định về hình thức xử lý vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả.

Tại Khoản 2, Điều 214 dự thảo Luật quy định: “Ngoài các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ”.

Theo đại biểu Thái Thị An Chung, quy định này sẽ dẫn đến chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định hiện hành về xử lý vi phạm hành chính. Bởi, các văn bản này đã quy định rõ các trường hợp áp dụng, các hình thức xử phạt như phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; và các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc tiêu hủy đối với hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì…

Mặt khác, nếu cho phép tiếp tục phân phối, sử dụng hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ như dự thảo luật sẽ không bảo đảm tính nghiêm minh trong xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, không bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Để góp phần hoàn thiện hơn dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, đại biểu Nguyễn Thị Lan (Đoàn TP. Hà Nội) đề nghị Quốc hội rà soát, nghiên cứu để xây dựng được một hệ thống cơ chế giám sát, kiểm soát mang tính liên ngành rõ ràng, không chồng chéo nhằm phòng, chống một cách hiệu quả, triệt để hơn các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ./.

Theo Báo mới.

DN nước ngoài mở tài khoản có cần thị thực của người đại diện?

Trường hợp khách hàng ở nước ngoài, không gặp mặt trực tiếp, ngân hàng thực hiện xác minh thông tin nhận biết qua ngân hàng đại lý hoặc bên trung gian theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và không yêu cầu thị thực nhập cảnh.

Công ty ông Trần Văn Quang (TPHCM) có vốn đầu tư nước ngoài, giám đốc là người nước ngoài và chưa thể sang Việt Nam do ảnh hưởng của dịch. Hiện, công ty cần mở tài khoản vốn để góp vốn cũng như tài khoản thanh toán để hoạt động kinh doanh.

Ông Quang hỏi, khi thực hiện thủ tục mở tài khoản công ty thì có yêu cầu chủ tài khoản của doanh nghiệp là người đại diện theo pháp luật phải ở Việt Nam hay không? Giám đốc có cần cung cấp thị thực khi mở tài khoản cho công ty hay không?

Giám đốc công ty ông Quang thường xuyên di chuyển giữa các quốc gia khác nhau. Do vậy, nếu yêu cầu giám đốc phải có mặt khi thực hiện thủ tục hoặc cung cấp thị thực thì sẽ gây khó và gây trở ngại cho các doanh nghiệp nước ngoài như công ty ông.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời vấn đề này như sau:

Về hồ sơ, thủ tục mở tài khoản thanh toán cho tổ chức, Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 16/2020/TT-NHNN) quy định như sau:

– Tại Điều 12 về hồ sơ mở tài khoản thanh toán, đối với tài khoản thanh toán của cá nhân, bao gồm tối thiểu các giấy tờ sau:

“a) Giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán lập theo mẫu của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản;

b) Các giấy tờ tùy thân bao gồm thẻ căn cước công dân hoặc giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn hoặc giấy khai sinh (đối với cá nhân là công dân Việt Nam chưa đủ 14 tuổi và chưa có hộ chiếu); thị thực nhập cảnh còn thời hạn hoặc giấy tờ chứng minh được miễn thị thực nhập cảnh (đối với cá nhân là người nước ngoài), trừ trường hợp cá nhân là người nước ngoài mở tài khoản thanh toán theo quy định tại Khoản 4 Điều 14 Thông tư này”.

Đối với tài khoản thanh toán của tổ chức, bao gồm tối thiểu các giấy tờ sau:

“a) Giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán lập theo mẫu của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản;

b) Các giấy tờ chứng minh việc tổ chức mở tài khoản thanh toán được thành lập và hoạt động hợp pháp: Quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật;

c) Các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện hợp pháp kèm giấy tờ tùy thân của những người đó;

d) Quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán”.

– Tại Điều 14 về trình tự, thủ tục mở tài khoản thanh toán:

Đối với tài khoản thanh toán của tổ chức: “Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được gặp mặt hoặc không gặp mặt trực tiếp người đại diện hợp pháp của khách hàng khi giao kết thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán.

Trường hợp không gặp mặt trực tiếp người đại diện hợp pháp của khách hàng, ngân hàng phải áp dụng các biện pháp phù hợp để xác minh sự chính xác về chữ ký, dấu (nếu có), chứng thư số (nếu có) của người đại diện hợp pháp của chủ tài khoản trên thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán và đảm bảo sự khớp đúng với chữ ký, dấu (nếu có), chứng thư số (nếu có) của người đại diện 2 hợp pháp của chủ tài khoản trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán;…

4. Trường hợp khách hàng là cá nhân ở nước ngoài, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được mở tài khoản không gặp mặt trực tiếp khách hàng nhưng phải thực hiện xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua ngân hàng đại lý hoặc bên trung gian và phải đảm bảo xác minh chính xác về khách hàng mở tài khoản và chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với việc nhận biết, xác minh khách hàng mở tài khoản thanh toán tại đơn vị mình. Việc lựa chọn bên trung gian thực hiện xác minh thông tin nhận biết khách hàng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền”.

Căn cứ trích dẫn nêu trên, đối với khách hàng là tổ chức, ngân hàng được gặp mặt hoặc không gặp mặt trực tiếp người đại diện hợp pháp của khách hàng khi giao kết thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán.

Trường hợp khách hàng ở nước ngoài, không gặp mặt trực tiếp, ngân hàng thực hiện xác minh thông tin nhận biết qua ngân hàng đại lý hoặc bên trung gian theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và không yêu cầu thị thực nhập cảnh.

Ông Quang cần liên hệ với ngân hàng để được hướng dẫn thủ tục, hồ sơ mở tài khoản thanh toán phù hợp với quy định pháp luật.

Theo Baomoi.com

Xây nhà trái phép có được hợp thức hóa không?

‘Trên địa bàn tôi ở hiện nay nhiều công trình nhà ở riêng lẻ đã tồn tại và đang xây dựng nhưng thuộc diện xây dựng trái phép. Vậy theo quy định có được hợp thức hóa công trình này không?’ – Phạm Ngọc Bắc, quận Hoàng Mai, Hà Nội.

Vấn đề bạn hỏi, Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo quy định mới nhất tại Nghị định 16/2022/NĐ-CP, Điều 81 nêu rõ, với hành vi xây dựng nhà ở riêng lẻ không có giấy phép xây dựng (không phép) hoặc xây dựng không đúng với nội dung giấy phép được cấp (trái phép) mà thuộc trường hợp đủ điều kiện cấp phép xây dựng hoặc điều chỉnh giấy phép xây dựng sẽ xử lý theo các trình tự. Cụ thể:

Người có thẩm quyền, trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính, yêu cầu tổ chức, cá nhân vi phạm dừng thi công xây dựng. Trong thời hạn 30 ngày đối với nhà ở riêng lẻ kể từ ngày ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải hoàn thành hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng, giấy phép xây dựng điều chỉnh và được chấp thuận.

Nhiều quy định mới về cấp phép công trình xây dựng tại Nghị định 16/2022/NĐ-CP.

Hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng, giấy phép điều chỉnh thực hiện theo quy định pháp luật về cấp giấy phép xây dựng, bổ sung thêm hồ sơ chứng minh đã hoàn thành việc nộp phạt vi phạm hành chính. Như vậy, theo Nghị định 16/2022, tổ chức, cá nhân chỉ có 30 ngày để hợp thức hóa nhà ở không phép, trái phép thay vì 60 ngày như trước đây.

Trường hợp đủ điều kiện cấp phép, điều chỉnh giấy phép xây dựng, thiết kế khi đang thi công, gồm: Xây dựng sai nội dung giấy phép đối với công trình sửa chữa, cải tạo, di dời và giấy phép có thời hạn; Xây dựng sai nội dung giấy phép mới; Xây dựng không phép mà theo quy định phải có giấy phép; Xây dựng sai thiết kế trong trường hợp được miễn giấy phép xây dựng…

Hết thời hạn 30 ngày theo quy định tổ chức, cá nhân vi phạm không xuất trình giấy phép xây dựng, giấy phép xây dựng điều chỉnh thì người có thẩm quyền ra văn bản thông báo yêu cầu tự phá dỡ công trình, phần xây dựng vi phạm. Tối đa sau 15 ngày kể từ ngày gửi văn bản tổng báo (tính theo dấu bưu điện) hoặc từ ngày có biên bản bàn giao thông báo tổ chức, cá nhân vi phạm phải thực hiện biện pháp bắt thuộc tự tháo dỡ công trình, phần xây dựng vi phạm.

Tuy nhiên, ngay cả trường hợp được cấp, điều chỉnh giấy phép xây dựng qua bước kiểm tra hiện trạng, nếu không phù hợp với giấy phép xây dựng, giấy phép xây dựng điều chỉnh vẫn sẽ bị yêu cầu khắc phục hậu quả, tháo dỡ phần vi phạm.

Ngoài ra, tại Điều 16 của Nghị định này cũng quy định mức xử phạt nặng những hành vi vi phạm đối với nhà ở riêng lẻ. Cụ thể, không thực hiện điều chỉnh, gia hạn giấy phép, thi công sai nội dung trong trường hợp sửa chữa, cải tạo, di dời công trình và giấy phép có thời hạn: phạt từ 15 – 30 triệu đồng; Thi công sai nội dung giấy phép mới: 30 – 70 triệu đồng; Thiếu giấy phép xây dựng mà theo quy định phải có: 60 – 100 triệu đồng; Sai thiết kế đối với công trình được miễn giấy phép: 80 – 120 triệu đồng; Xử phạt hành vi tiếp tục vi phạm sau khi lập biên bản: 100 – 140 triệu đồng, đã xử phạt hành nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự: 120 – 160 triệu đồng. Đồng thời phạt bổ sung, tước giấy phép xây dựng từ 3 – 6 tháng, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc xây nhà trái phép có được hợp thức hóa không. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Cho tặng nhà đất phải làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất

Câu hỏi: Ông bà ngoại tôi là chủ sở hữu một căn nhà gắn liền với đất đã được cấp chủ quyền. Tháng 3/2012, ông bà ngoại tôi có ra phòng công chứng làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất cho mẹ tôi. Tháng 5/2012, ông tôi bị bệnh mất, giờ chỉ còn bà tôi sống cùng chúng tôi. Đến tháng 19/2012, mẹ tôi đột ngột qua đời mà chưa làm thủ tục sang tên tài sản đó.

Như vậy, gia đình tôi có được hưởng thừa kế từ tài sản của ông bà ngoại đã cho mẹ tôi không? Trường hợp nhà đất này của gia đình tôi sẽ được giải quyết thế nào? Bà N.T. Lan

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 459 Bộ luật Dân sự, “tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật”.

Theo đó, khoản 1 Điều 95 Luật Đất đai quy định: “Đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người được giao đất để quản lý”. Đồng thời, Điều 503 Bộ luật Dân sự quy định về hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất thì việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật Đất đai.

Vì mẹ bà chưa làm thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng đất đối với quyền sử đất được ông bà tặng cho nên căn cứ theo các quy định nêu trên thì Hợp đồng tặng cho chưa có hiệu lực và mẹ bà chưa có quyền sở hữu đối với quyền sử dụng đất thửa đất đó và như vậy đây không được coi là di sản thừa kế của mẹ bà.

Như vậy, có thể căn cứ vào quy định tại khoản 3, Điều 422 Bộ luật dân sự để xác định Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông bà ngoại và mẹ bà đã chấm dứt. Quyền sử dụng đất của thửa đất đó trở lại là tài sản chung của ông bà ngoại của bà.

Do ông ngoại đã mất nên ½ giá trị quyền sử dụng đất là tài sản thừa kế của ông ngoại, được chia cho các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật và ½ giá trị quyền sử dụng đất là tài sản của bà ngoại bà.

Để giải quyết vấn đề một cách tốt nhất, theo tôi, các diện thừa kế theo pháp luật của ông ngoại bà nên thỏa thuận để bà ngoại được hưởng toàn bộ tài sản thừa kế là ½ giá trị quyền sử dụng đất của ông ngoại để bà ngoại có toàn quyền sử dụng đối với thửa đất đó. Sau đó, bà ngoại làm thủ tục tặng cho lại con cháu theo đúng quy định của pháp luật.

Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Ủy quyền cho người thứ ba?

Câu hỏi: Năm 2000, mẹ tôi lập văn bản ủy quyền, có nội dung mẹ ủy quyền cho anh tôi (N.V.B.) thay bà giải quyết tranh chấp liên quan đến cây cối trên mảnh đất do bà đứng tên (đây là tài sản chung của cha mẹ tôi, cha tôi chết năm 1998). Nay anh tôi đến UBND xã lập giấy ủy quyền cho người khác có nội dung được thay anh tôi quản lý sử dụng quyền sử dụng đất của mẹ tôi (mẹ tôi chết năm 2005), việc ủy quyền trên có hợp pháp không? Xin được luật sư hướng dẫn. (Anh Định – Đội Cấn, Hà Nội)

Luật sư xin tư vấn như sau: Theo thông tin bạn cung cấp thể hiện quyền sử dụng đất là tài sản chung của cha mẹ bạn, do có tranh chấp liên quan đến cây trồng trên đất nên bà đã ủy quyền cho anh của bạn thay bà giải quyết các vấn đề liên quan đến sự việc trên. Hiện nay người anh sử dụng văn bản ủy quyền giữa mẹ và anh của anh để ủy quyền cho người khác có nội dung khác với nội dung mà bà đã ủy quyền như vậy là không đúng ý chí của bà, mặt khác trong văn bản ủy quyền không thể hiện việc cho ủy quyền lại.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành, thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 1 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Về việc chấm dứt việc ủy quyền được Bộ luật Dân sự quy định như sau: hợp đồng đã được hoàn thành; theo thỏa thuận của các bên; cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện…

Như vậy, người anh sử dụng văn bản ủy quyền giữa mẹ và anh của anh lập năm 2000 để lập giấy ủy quyền lại cho người khác là không phù hợp với quy định pháp luật dân sự.

Để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, anh có thể khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố văn bản ủy quyền trên vô hiệu. Vì cha mẹ anh chết không để lại di chúc nên vấn đề thừa kế được chia theo pháp luật, anh có thể thỏa thuận với các đồng thừa kế khác về việc phân chia di sản thừa kế, hoặc khởi kiện tòa án ở địa phương có đăng ký quyền sử dụng đất để giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc ủy quyền cho người thứ ba .Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trường hợp nào được mua bán đất không cần Sổ đỏ?

Hộ gia đình, cá nhân và người sử dụng đất khác được chuyển nhượng đất nếu đủ điều kiện, trong đó, phải có Sổ đỏ. Tuy nhiên, pháp luật còn quy định 2 trường hợp mua bán đất không cần Sổ đỏ.
Về điều kiện chuyển nhượng đất, theo khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất được thực hiện quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bán đất) khi có các điều kiện sau:
– Có Giấy chứng nhận (Sổ đỏ), trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật Đất đai 2013.- Đất không có tranh chấp.- Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.- Trong thời hạn sử dụng đất (nếu loại đất có thời hạn sử dụng đất thì phải còn thời hạn sử dụng).Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ) là một trong những điều kiện bắt buộc phải có khi muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất.Tuy nhiên, pháp luật còn quy định 2 trường hợp người sử dụng đất không cần có Sổ đỏ mà vẫn được thực hiện quyền chuyển nhượng.

Trường hợp 1, nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật Đất đai 2013.

Cụ thể, khi nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền chuyển nhượng khi có sổ đỏ hoặc đủ điều kiện để cấp sổ đỏ.

Theo đó, người nhận thừa kế được phép chuyển nhượng thửa đất được thừa kế ngay cả khi không có sổ đỏ, mà chỉ cần đủ điều kiện cấp sổ đỏ.

Trường hợp 2, theo quy định tại khoản 3 Điều 186 Luật Đất đai 2013.

Trường hợp tất cả người nhận thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất đều là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam thì người nhận thừa kế không được cấp sổ đỏ nhưng được chuyển nhượng, tặng cho.

Như vậy, chỉ có 2 trường hợp mua bán đất không cần sổ đỏ, nếu không thuộc 2 trường hợp trên thì việc chuyển nhượng đó là vi phạm pháp luật.

Ngoài ra, trong trường hợp đủ điều kiện được cấp Sổ đỏ thì người sử dụng đất được phép chuyển nhượng nếu có yêu cầu và được cấp Sổ đỏ trước khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng.

Trường hợp đủ điều kiện nhưng chưa được cấp Sổ đỏ hoặc người sử dụng đất chưa làm Sổ đỏ nếu muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác thì thực hiện theo 2 giai đoạn sau:

Giai đoạn 1, làm Sổ đỏ. Theo khoản 1 Điều 8 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT, hộ gia đình, cá nhân khi có giấy tờ về quyền sử dụng đất chuẩn bị 1 bồ hồ sơ như sau:

1. Đơn đăng ký, cấp Sổ đỏ theo Mẫu số 04a/ĐK

2. Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 và Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP.

3. Giấy tờ về tài sản gắn liền với đất như: Giấy chứng nhận về quyền sở hữu nhà ở, giấy chứng nhận công trình xây dựng không phải là nhà ở, chứng nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, chứng nhận quyền sở hữu cây lâu năm (nếu có tài sản và có yêu cầu chứng nhận quyền sở hữu cùng với cấp Sổ đỏ cho đất).

4. Chứng từ thực hiện nghĩa vụ tài chính (như biên lai nộp thuế, tiền sử dụng đất…); giấy tờ miễn, giảm nghĩa vụ tài chính về đất đai, tài sản gắn liền với đất (nếu có).

Thời hạn giải quyết: Không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; không quá 40 ngày với các xã miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Giai đoạn 2, quy trình mua bán đất đai. Khi người sử dụng đất (bên bán) có Sổ đỏ và có đủ các điều kiện khác để thực hiện quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì các bên phải sang tên Sổ đỏ.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến các trường hợp nào được mua bán đất không cần Sổ đỏ.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com