Hệ thống thuật ngữ pháp lý Việt Nam chưa đưa ra khái niệm cụ thể về “Yêu cầu phản tố”. Tuy nhiên, với tư cách là đặc quyền thuộc về bị đơn trong vụ việc dân sự, yêu cầu phản tố  được hiểu là việc đưa ra các yêu cầu mang tính “đối ngược” với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nói cách khác chính là việc bị đơn  “kiện ngược” nguyên đơn.  Để được coi là yêu cầu phản tố thì yêu cầu đó phải đáp ứng các điều kiện của quy định pháp luật. Cụ thể:

  Thứ nhất, đối tượng mà yêu cầu phản tố của bị đơn hướng đến chỉ có thể là yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

  Thứ hai, yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau (Khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015):

– Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ đối với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

– Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

– Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau. Nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.

  Thứ ba, thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố là trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (Khoản 3 Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015).

  1. Có áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu phản tố hay không?

  Quan điểm thứ nhất:  Yêu cầu phản tố cũng được coi là yêu cầu khởi kiện nên cũng phải áp dụng thời hiệu khởi kiện giống như yêu cầu khởi kiện.

Theo khoản 4 Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS), bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này. Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn cũng được hiểu chính là một yêu cầu khởi kiện. Khi có phát sinh “yêu cầu phản tố”, bị đơn cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như nguyên đơn. Nếu yêu cầu phản tố đã quá thời hiệu khởi kiện thì tòa sẽ lấy đó làm căn cứ để không chấp nhận.

Ngoài ra, theo điều 146 BLTTDS, bị đơn cũng phải thực hiện nghĩa vụ đóng tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố của mình.  Theo điều 202, thủ tục yêu cầu phản tố cũng được thực hiện theo thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, yêu cầu phản tố cũng là yêu cầu khởi kiện nên yêu cầu này cũng phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện theo Điều 184 BLTTDS.

  Quan điểm thứ hai: Yêu cầu phản tố không phải là yêu cầu khởi kiện mà chỉ được áp dụng các thủ tục của yêu cầu khởi kiện do có tính tương tự nên không được áp dụng thời hiệu.

Khi vụ kiện được bắt đầu bằng việc khởi kiện của nguyên đơn, sau khi tòa thụ lý, bị đơn phải tìm hiểu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là gì để từ đó chấp nhận hay có yêu cầu phản tố. Khoản 4 Điều 200 BLTTDS đã quy định: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố bất kì thời điểm nào trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Như vậy, thời hiệu khởi kiện chỉ áp dụng đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chứ không áp dụng với yêu cầu phản tố của bị đơn. Tức, đây là quyền không bị hạn chế về thời hiệu của bị đơn.

Trong các vụ kiện, bị đơn luôn ở thế bị động, phụ thuộc vào các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn có đưa ra yêu cầu khởi kiện thì bị đơn mới biết mà có yêu cầu phản tố. Nói cách khác, yêu cầu phản tố luôn luôn có sau yêu cầu khởi kiện. Khi nào có yêu cầu khởi kiện thì mới phát sinh yêu cầu phản tố. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn là dạng quyền “phái sinh” từ quyền khởi kiện của nguyên đơn.

Mặt khác, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện, có nghĩa đây là quy định dành cho nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện của mình trong một thời hạn nhất định. Tại Điều 200 BLTTDS về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, không có nội dung nào xác định bị đơn phải phản tố trong thời hiệu khởi kiện. Như vậy, trong khoảng thời gian từ khi tòa thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố bất kỳ lúc nào.

Tuy nhiên, quan điểm theo các hướng nêu trên cũng chỉ dừng lại ở lập luận và nhận thức pháp luật của từng tổ chức hành nghề, từng TAND các địa phương. Việc yêu cầu phản tố có phải chịu sự điều chỉnh của quy định về thời hiệu theo BLTTDS hay không là vấn đề còn đang gây tranh cãi và cần có sự hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao về vấn đề này. Do đó, luật sư khi tham gia giải quyết vụ việc dân sự có thể  vận dụng từng quan điểm, cách hiểu trên để ứng xử, kiến nghị để tạo lợi thế cho thân chủ trong vụ việc dân sự đó.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *