Câu hỏi:
Bà C.H.H ở Hà Nội có gửi câu hỏi đến văn phòng Luật sư như sau:
Tôi làm việc tại Công ty du lịch X. Ngày 16 tháng 11 năm 2019, Công ty tôi gửi vào tài khoản ngân hàng Công ty xây dựng H số tiền là 1.000.000.000 (Một tỷ đồng) với nội dung là “Tiền đặt cọc”, cùng mục đích là tiền đặt cọc cho việc xây dựng trụ sở mới của Công ty du lịch X. Sau khi số tiền trên được chuyển, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh thành phố Hà Nội (gọi tắt là Ngân hàng) đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng có điều khoản thỏa thuận cho phép Ngân hàng được quyền trích tài khoản của Công ty N để cấn trừ vào số công nợ quá hạn và lãi suất của Công ty xây dựng H. Vì mất đi khoản tiền cọc nên Công ty xây dựng H đã không thể thực hiện công việc như đã thỏa thuận với Công ty tôi.
Tôi xin hỏi, việc tự động cấn trừ của Ngân hàng có căn cứ pháp luật không?
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
I. Cơ sở pháp lý
II. Nội dung
Việc Ngân hàng tự động cấn trừ số tiền đặt cọc trên là không có cơ sở pháp lý.
- Chủ sở hữu của tiền đặt cọc
Theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“Điều 328. Đặt cọc
- Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng…”
Tại giao dịch chuyển tiền ngày 16 tháng 11 năm 2019 Công ty du lịch X đã có nội dung nêu rõ đây là tiền đặt cọc.
Như vậy, số tiền một tỷ đồng đặt cọc nêu trên chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty xây dựng H. Ngân hàng trích số tiền đặt cọc của Công ty du lịch X để thu nợ vay của Công ty xây dựng H là không có căn cứ pháp luật.
- Nghĩa vụ hoàn trả của Ngân hàng
Về nghĩa vụ hoàn trả của Ngân hàng, theo khoản 1 Điều 579 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Điều 579. Nghĩa vụ hoàn trả
- Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này…”
Như vậy, Ngân hàng Thương mại cổ phần D có trách nhiệm hoàn trả cho Công ty bà 1.000.000.000 đồng.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com