Về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Câu hỏi:

Anh N.H.A ở Thái Nguyên có gửi câu hỏi đến văn phòng Luật sư như sau:

Anh T.T.T sau khi chơi điện tử tại cơ sở do tôi làm chủ nhiều ngày, đến ngày thứ 3 anh H.A mượn xe Wave của tôi nói là để đi mua cơm. Tôi đồng ý cho mượn và sau đó anh H.A đã lấy xe tôi và đi. Nhiều giờ sau, tôi gọi cho anh T.T nhưng anh T.T đã tắt máy. Ngày hôm sau, tôi nhận ra xe tôi ở cơ sở cầm đồ gần nhà, dựa vào hình ảnh trên camera thì anh T.T đã không đi mua cơm mà thực ra là đã đi bán để lấy tiền tiêu xài. Chủ cơ sở cầm đồ khi mua bán đã không biết rằng đó là xe do phạm tội mà có. Tài sản là chiếc xe Wave khi định giá có giá trị là 2.000.000 đồng.

Anh T.T đã có 1 tiền án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 với hình phạt là 12 tháng tù giam, chưa được xóa án tích.

Tôi xin hỏi, anh T.T có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Hình sự năm 2015;

     II. Nội dung

Anh T.T đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

  1. Cấu thành tội phạm của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”

Cấu thành cơ bản của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015:

“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

     a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng               thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả                 năng nhưng cố tình không trả;

     b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử             dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản…”

Như vậy, ta có nhận định chung về cấu thành tội phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” sau:

Chủ thể

– Phạm tội trong trường hợp quy định tại Khoản 1, 2 Điều 140 thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự

– Phạm tội trong trường hợp quy định tại Khoản 3, 4 Điều 140 thì người phạm tội phải đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự

Khách thể

Quan hệ sở hữu

Nếu sau khi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt có hành vi chống trả để tẩu thoát gây chết hoặc làm bị thương người khác thì có thể bị truy cứu them trách nhiệm hình sự về tội khác.

Mặt khách quan của tội phạm

– Hành vi: bao gồm các giai đoạn:

+) Người phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp thông qua hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản hoặc hợp đồng khác

+) Sau khi có được tài sản, người phạm tội không thực hiện như cam kết trong hợp đồng, sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản.

Hậu quả: người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, hoặc đã bỏ trốn, hoặc không còn khả năng trả lại tài sản.

 

 

Mặt chủ quan của tội phạm

– Lỗi cố ý

– Mục đích: chiếm đoạt tài sản

  1. Trách nhiệm hình sự trong trường hợp có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá dưới 4.000.000 đồng

Theo cấu thành cơ bản về mặt khách quan của hành vi trong tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” thì người phạm tội chiếm đoạt được tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên, nếu tài sản có giá trị dưới 4 triệu đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm mới thì mới cấu thành tội phạm.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015:

“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:…”

Trong trường hợp này, anh T.T chiếm đoạt tài sản có giá trị là 2.000.000 đồng là dưới 4 triệu đồng nhưng do anh T.T đã có tiền án về tội này, chưa được xóa án tích nên anh T.T đủ căn cứ để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *