1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự;

  1. Nội dung.

Thủ tục tái thẩm là một thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự nhằm xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện thấy những tình tiết mới quan trọng liên quan trực tiếp đến việc xem xét và giải quyết vụ án mà Tòa án hoặc đương sự trước đó không thể biết.

Điều 351 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

“Điều 351. Tính chất của tái thẩm

Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.”

Vụ án được xem xét tái thẩm thì trước đó khi xét xử thì người tiến hành tố tụng đã phải làm hết trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án và không có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, các đương sự cũng đã xuất trình đầy đủ các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, tuy nhiên, sau khi vụ án đã được giải quyết và bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mới phát hiện có tình tiết mới có ý nghĩa quyết định đến việc thay đổi một cách cơ bản về nội dung của vụ án mà trước đó cả Tòa án cũng như các bên đương sự đều không thể biết được. Theo đó thì vụ án sẽ được cấp có thẩm quyền xem xét kiến nghị thực hiện xem xét giải quyết theo thủ tục tái thẩm.

Cụ thể, các căn cứ để cấp có thẩm quyền thực hiện kháng nghị tái thẩm được quy định tại Điều 352 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

“Điều 352. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

  1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
  2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
  3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
  4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.”

Do đó, khi vụ án thuộc những trường hợp nêu trên thì cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ để thực hiện kháng nghị hoặc đề nghị kháng nghị tái thẩm để xét xử lại vụ án, xem vụ án có căn cứ phải giải quyết theo thủ tục này không.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *