Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về Tội đánh bạc theo quy định pháp luật

Kính chào luật sư! Tôi có đánh bạc và bị bắt, tôi phải đi cải tạo 08 tháng về, nay tôi lại tập trung mọi người đánh bạc tại nhà tôi. Nay tôi bị bắt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc.

Tôi muốn hỏi nếu tôi bị kết án về tội tổ chức đánh bạc và có tình tiết tăng nặng là tái phạm thì có đúng không? Tôi xin luật sư giải đáp giúp tôi như thế nào là tái phạm và tái phạm nguy hiểm? Vì sắp tới vụ án của tôi sẽ được đưa ra xét xử công khai tại nhà văn hóa thôn tôi. Nếu tôi không đồng ý với quyết định của tòa thì tôi có được kháng cáo không?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2015.

Luật sửa đổi Bộ luật hình sự số 12/2017/QH14 Được Quốc hội khoá 14 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017.

  1. Luật sư tư vấn:

Thứ nhất: Đánh bạc là được thua bằng tiền hay một vật có giá trị dựa vào kết quả chưa rõ ràng của một sự kiện với một mục đích có thêm tiền bạc hoặc giá trị vật chất. Do vậy đánh bạc dựa trên 3 yếu tố: sự tính toán, cơ hội và giải thưởng.

Thông thường, các kết quả hay biến cố nói trên sẽ biết được rõ ràng, trong thời gian ngắn, chẳng hạn như việc lắc xúc xắc hoặc quay bi trên bàn roulette; tuy vậy có các biến cố xa hơn, như đánh bạc cho kết quả của cả một mùa giải thể thao.

Đánh bạc cũng là một hoạt động thương mại quốc tế lớn, với các thị trường cờ bạc hợp pháp với tổng giá trị ước tính khoảng 335 tỷ USD vào năm 2009. Trong các hình thức khác, việc đánh bạc có thể được thực hiện với các vật liệu có giá trị, nhưng không phải là tiền thật. Ví dụ, người chơi trò chơi Marble có thể đánh cược bi, và tương tự như vậy trò chơi của Pogs hay Magic: The Gathering có thể được chơi với nhiều bộ sưu tập game (tương ứng, các đĩa nhỏ và thẻ bài) dùng làm vật để cược.

Pháp luật Việt Nam không cho phép các cá nhân tổ chức đánh bạc trái phép, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Trường hợp này là bạn đã bị xử lý về tội đánh bạc nay là tội tổ chức đánh bạc vậy nên thuộc quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 điều chỉnh. Các hình thức đánh bạc phổ biến tại Việt Nam hiện nay là chơi bài lá, cá cược, đánh lô, đề trái phép,…

Tái phạm tội đánh bạc theo quy định pháp luật hình sự hiện hành

Thứ hai: Căn cứ theo Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau:

“Điều 53. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm

  1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
  2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
  3. a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
  4. b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”

Vậy nên trong trường hợp này bạn đã bị kết án về tội đánh bạc mà chưa được xóa án tích mà nay bạn lại vi phạm thì được coi là tái phạm. Một hành vi vi phạm chỉ được coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm chứ không cùng lúc áp dụng cả hai tình tiết tăng nặng này đối với hành vi vi phạm của bạn.

Thứ ba: Về quyền kháng cáo thì bạn hoàn toàn có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật theo thời gian hạn định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

“Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về người có quyền kháng cáo như sau:

Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.

Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.”

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.

Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.

Vậy nên bạn hoàn toàn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, việc kháng cáo cũng cần phải có căn cứ pháp lý nên bạn cần tìm hiểu rõ về lý do kháng cáo đúng với quy định như nội dung trả lời của luật sư như trên.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *