Tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả

Câu hỏi :

Anh L.P.L ở thành phố Hồ Chí Minh có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tôi làm việc tại Công ty P do bà N.H.A làm chủ sở hữu. Theo phân công công việc thì tôi có nhiệm vụ vẽ nhân vật T trong bộ truyện tranh T.Đ. Nhân vật T do bà N.H.A lên ý tưởng và tôi là người thể hiện ra giấy.

Năm 2019, tôi nghỉ việc tại Công ty P nhưng bà N.H.A vẫn đại diện Công ty P ký hợp đồng cho phép Công ty K chuyển thể nhân vật T thành phim.

Tôi xin hỏi, việc làm của Công ty P về việc chuyển thể nhân vật T thành phim có đúng không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019;
  • Nghị định 22/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan do Chính phủ ban hành ngày 23 tháng 2 năm 2018;

     II. Nội dung

  1. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ trong vụ việc

Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 thì:

“Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả

  1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:

  1. g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;…”

Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được đề cập là quyền sở hữu trí tuệ đối với hình thức thể hiện của nhân vật T, theo điểm g khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 thì đây là quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng.

  1. Khái niệm tác giả

Theo quy định tại khoản 1 Điều 6  Nghị định 22/2018/NĐ-Chính phủ thì:

“Điều 6. Tác giả, đồng tác giả

  1. Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học…”

Như vậy, tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghê thuật và khoa học, gồm: tổ chức, cá nhân Việt Nam có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.

  • Phải là người trực tiếp thực hiện các hoạt động sáng tạo để tạo ra tác phẩm

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-Chính phủ thì:

“Điều 6. Tác giả, đồng tác giả

  1. Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả hoặc đồng tác giả.”

Hoạt động sáng tạo của tác giả là sự lao động trí tuệ để tạo ra các tác phẩm một cách sáng tạo. Các tác phẩm phải là kết quả của hoạt động sáng tạo được thể hiện trên hình thái vật chất hoặc thông qua hình thức nhất định, có tính độc lập tương đối, mang tính mới về nội dung, ý tưởng hoặc mang tính mới về sự thể hiện tác phẩm. Tất cả các hoạt động chỉ nhằm để hỗ trợ như cung cấp kinh phí, vật chất, phương tiện, tư liệu, góp ý kiến không được coi là hoạt động sáng tạo. Do đó, tổ chức, cá nhân có những hoạt động này không được công nhận là tác giả.

Như vậy, theo nội dung anh đã trao đổi thì anh là tác giả của sản phẩm sở hữu trí tuệ còn bà N.H.A không được công nhận là đồng tác giả của sản phẩm này.

 

 

  1. Chủ sở hữu quyền tác giả

Theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 thì:

“Điều 39. Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả

  1. Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm cho tác giả là người thuộc tổ chức mình là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác…”

Như vậy, Công ty P đã giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm cho anh nên là chủ sở hữu các quyền sau:

“Điều 19. Quyền nhân thân

Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:

  1. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;…”

“Điều 20. Quyền tài sản 

  1. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:

     a) Làm tác phẩm phái sinh;

     b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;

     c) Sao chép tác phẩm;

     d) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;

     đ) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;

     e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.…”

Theo định nghĩa tại khoản 8 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 thì:

“Điều 4. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn…”

– Tác phẩm chuyển thể

Là việc chuyển thể nội dung của tác phẩm gốc sang một hình thức thể hiện khác, ví dụ như chuyển thể truyện thành phim, kịch,… và không thay đổi cốt truyện hoặc nội dung cơ bản của tác phẩm gốc.

Như vậy, Công ty P là chủ sở hữu của quyền tác giả nên có quyền làm tác phẩm phái sinh là tác phẩm chuyển thể từ tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng nhân vật T do anh là tác giả.

Vậy, Công ty P có quyền làm phái sinh là tác phẩm chuyển thể từ tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng nhân vật T do anh là tác giả.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Quy định của pháp luật về biểu diễn nghệ thuật

     I. Cơ sở pháp lý

  • Nghị định 79/2012/NĐ-CP về Quy định biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu do Chính phủ ban hành ngày 5 tháng 10 năm 2012;
  • Nghị định 15/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 79/2012/NĐ-CP quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu do Chính phủ ban hành ngày 15 tháng 3 năm 2016;
  • Nghị định 103/2009/NĐ-CP ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng do Chính phủ ban hành ngày 6 tháng 11 năm 2009;

     II. Nội dung

  1. Xin phép lưu hành tác phẩm âm nhạc, sân khấu sáng tác trước năm 1975

Khi muốn phổ biến các ca khúc được sáng tác trước năm 1975 hoặc tác phẩm của người Việt Nam đang sinh sống và định cư ở nước ngoài thì phải thực hiện thủ tục đề nghị cấp phép.

Điều 29 Nghị định 79/2012/NĐ-CP và Điều 1 Nghị định 15/2016/NĐ-CP quy định:

“Điều 29. Phổ biến tác phẩm âm nhạc, sân khấu

  1. Tổ chức, cá nhân phổ biến tác phẩm âm nhạc, sân khấu trực tiếp trước công chúng và nơi công cộng phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
  2. Các tác phẩm âm nhạc, sân khấu sáng tác trước năm 1975 tại các tỉnh phía Nam hoặc tác phẩm của người Việt Nam đang sinh sống và định cư ở nước ngoài phát hành dưới hình thức xuất bản phẩm phải thực hiện quy định tại Khoản 3 Điều này và các quy định của pháp luật về xuất bản.
  3. Tổ chức, cá nhân muốn phổ biến tác phẩm sáng tác trước năm 1975 tại các tỉnh phía Nam hoặc tác phẩm của nguời Việt Nam đang sinh sống và định cư ở nước ngoài nộp 01 bộ hồ sơ trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến Cục Nghệ thuật biểu diễn. Hồ sơ gồm:

  1. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Nghệ thuật biểu diễn cấp giấy phép. Trường hợp không cấp giấy phép phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.”

     2. Các hoạt động cấm trong hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng

Về các hoạt động cấm trong hoạt động văn hóa tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 79/2012/NĐ-CP về Quy định biểu diễn nghệ thuật thì nghị định này dẫn chiếu đến quy định tại Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ như sau:

“Điều 3. Quy định cấm trong hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng

Nghiêm cấm các hoạt động sau đây:

  1. Các hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa có nội dung:

     a) Kích động nhân dân chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân;

     b) Kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; truyền bá tư tưởng, văn hóa phản động, lối sống dâm ô đồi trụy, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, trái với thuần phong mỹ tục, gây hại cho sức khỏe và hủy hoại môi trường sinh thái;

     c) Tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định.

     d) Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ nhân, xúc phạm dân tộc, vu khống, xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.

     2. Lưu hành, phổ biến và kinh doanh các sản phẩm văn hóa; sản xuất, nhập khẩu trái phép các sản phẩm văn hóa đã có quyết định đình chỉ lưu hành, cấm lưu hành, thu hồi, tịch thu, tiêu hủy; kinh doanh dịch vụ văn hóa mà không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép kinh doanh theo quy định.

     3. Tổ chức các hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa vi phạm các quy định về nếp sống văn minh, an ninh, trật tự và phòng, chống cháy nổ.”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Những lợi ích người lao động được hưởng khi giải thể doanh nghiệp

Câu hỏi :

Anh V.V.T ở Nam Định có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tôi là người lao động đang làm việc tại 1 doanh nghiệp gần nhà. Trong thời buổi kinh tế có nhiều khó khăn nên doanh nghiệp đang trên bờ vực giải thể, ngừng kinh doanh.

Tôi xin hỏi, tôi được hưởng những quyền lợi gì khi doanh nghiệp bị giải thể?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Lao động năm 2012;
  • Luật Việc làm năm 2013;
  • Luật Phá sản năm 2014;

     II. Nội dung

Trường hợp doanh nghiệp bị giải thể, người lao động sẽ được hưởng các quyền lợi sau:

  1. Được trả nợ tiền lương

Doanh nghiệp giải thể phải thanh toán đầy đủ cho người lao động những khoản tiền lương tương ứng với những ngày làm việc chưa được trả. Khoản tiền này sẽ được ưu tiên thanh toán đầu tiên tiếp sau chi phí giải thể doanh nghiệp khi giải quyết quyền lợi cho người lao động.

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 54 Luật Phá sản năm 2014:

“Điều 54. Thứ tự phân chia tài sản

  1. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được phân chia theo thứ tự sau:

     b) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;…”

     2. Được thanh toán trợ cấp thôi việc

Người lao động làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên khi công ty giải thể sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc theo khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2012.

Khoản tiền này sẽ do người sử dụng lao động chi trả với mỗi năm làm việc tương ứng với 01 tháng tiền lương.

Theo Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2012:

“Điều 48. Trợ cấp thôi việc

  1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
  2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.
  3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.”

 

 

     3. Được đóng Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp Bảo hiểm y tế…

Doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục giải thể buộc phải thanh toán các khoản tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại cơ quan bảo hiểm xã hội tương ứng với thời gian người lao động làm việc mà chưa được đóng các khoản bảo hiểm trên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 54 Luật Phá sản năm 2014:

“Điều 54. Thứ tự phân chia tài sản

  1. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được phân chia theo thứ tự sau:

     b) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;…”

Theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm năm 2013:

“Điều 49. Điều kiện hưởng

Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:

  1. Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau đây:

  1. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này;
  2. Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này;
  3. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:

….”

  1. Được hưởng các lợi ích khác

Ngoài những khoản lợi ích nêu trên, người lao động còn có thể được hưởng các khoản trợ cấp, phụ cấp hàng tháng, phụ cấp xăng xe, phụ cấp độc hại,… nếu như thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động có quy định.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Định đoạt tài sản chung của vợ chồng là động sản phải đăng ký sở hữu

Câu hỏi :

Chị N.T.N ở Phú Thọ có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tôi và chồng là anh A.T.T có dự định bán 1 chiếc xe oto do anh A.T.T đứng tên, chiếc xe oto có được là do 2 vợ chồng mua bằng tiền bán mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng.

Tôi xin hỏi, anh A.T.T có thể một mình bán chiếc xe không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
  • Luật Giao thông đường bộ năm 2008;
  • Thông tư 58/2020/TT-BCA quy định về quy trình cấp, thu hồi đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành ngày 16 tháng 06 năm 2020;

     II. Nội dung

Anh A.T.T không thể bán chiếc xe mà không có sự đồng ý bằng văn bản của chị.

  1. Tài sản chung của vợ chồng

Theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì:

“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

  1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung…”

Do chiếc xe oto được hình thành từ nguồn tiền là từ tài sản chung mà có nên là tài sản chung.

  1. Oto là động sản phải đăng ký quyền sở hữu

Căn cứ Điều 52 Luật giao thông đường bộ năm 2008 thì một trong những điều kiện tham gia giao thông của xe cơ giới là phải đăng ký và gắn biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.

Việc đăng ký xe được thực hiện theo quy định tại Thông tư 58/2020/TT-BCA quy định về đăng ký xe.

  1. Thực hiện giao dịch dân sự với tài sản chung chỉ đứng tên một người

Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 và khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Điều 34. Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung

  1. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”

“Điều 35. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

  1. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:

     a) Bất động sản;

     b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;

     c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.”

Vậy, do chiếc xe oto nêu trên là tài sản chung chỉ đứng tên một người và là động sản phải đăng ký quyền sở hữu nên theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình thì việc định đoạt tài sản chung này phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Xét xử ‘trùm’ đa cấp Liên kết Việt, tòa triệu tập 6.053 bị hại

Hôm nay (21/12), TAND TP Hà Nội đưa vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, xảy ra tại Công ty Liên kết Việt ra xét xử.

Tòa đã triệu tập 6.053 bị hại và nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến tham dự phiên tòa. Đây là con số kỷ lục về số lượng người tham gia trong một phiên tòa.

Tuy nhiên, sáng nay mới có hơn 500 người và 12 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tới tòa.

 

Xét xử ‘trùm’ đa cấp Liên kết Việt, tòa triệu tập 6.053 bị hại
TAND TP Hà Nội bố trí nhiều màn hình lớn đặt ngoài hành lang rộng để những người bị hại tiện theo dõi

 

Đến 10h30 cùng ngày, những người bị hại vẫn đang tiếp tục đến làm thủ tục vào dự tòa.

TAND TP Hà Nội bố trí nhiều màn hình lớn đặt ngoài hành lang rộng để những người bị hại tiện theo dõi.

HĐXX gồm 5 người, do thẩm phán Trần Nam Hà (Phó chánh Tòa Hình sự) ngồi ghế chủ.

 

Xét xử ‘trùm’ đa cấp Liên kết Việt, tòa triệu tập 6.053 bị hại
Các bị cáo tại tòa

 

Các bị cáo bị đưa ra xét xử gồm: Lê Xuân Giang (cựu Chủ tịch HĐQT Công ty Liên kết Việt), Lê Văn Tú (cựu TGĐ Công ty Liên kết Việt), Nguyễn Thị Thủy (cựu Phó TGĐ Công ty Liên kết Việt) cùng 4 thành viên nhóm phát triển thị trường của công ty này là: Lê Thanh Sơn, Trịnh Xuân Sáng, Nguyễn Xuân Trường, Vũ Thị Hồng Dung.

Cáo buộc cho rằng, các bị cáo trên đã có hành vi lừa đảo hơn 68.000 bị hại để chiếm đoạt trên 1.121 tỷ đồng.

 

Xét xử ‘trùm’ đa cấp Liên kết Việt, tòa triệu tập 6.053 bị hại
Phiên tòa xét xử vụ lừa đảo xảy ra tại Công ty Liên Kết Việt

 

Theo cáo trạng, Công ty cổ phần tập đoàn thiết bị y tế BQP (viết tắt là Công ty BQP) và Công ty Liên kết Việt đều do Lê Xuân Giang thành lập và điều hành.

Lợi dụng Công ty Liên kết Việt được cấp giấy phép kinh doanh bán hàng đa cấp với hàng hóa do Công ty BQP sản xuất, trong khoảng từ tháng 3/2014 đến tháng 11/2015, Giang cùng đồng phạm đã gian dối, tạo dựng và cung cấp thông tin sai lệch cho các bị hại để tạo lòng tin về hoạt động kinh doanh của Công ty Liên kết Việt và Công ty BQP.

Xét xử ‘trùm’ đa cấp Liên kết Việt, tòa triệu tập 6.053 bị hại
Những người bị hại làm thủ tục dự tòa

 

Cụ thể, các bị cáo giới thiệu Công ty Liên kết Việt là công ty con của Công ty BQP, còn Công ty BPQ là Công ty cổ phần của tập đoàn thiết bị y tế Bộ Quốc phòng, là công ty của Bộ Quốc phòng.

Lê Xuân Giang và các lãnh đạo của công ty là cán bộ của Bộ Quốc phòng; các sản phẩm kinh doanh là sản phẩm liên doanh, liên kết sản xuất với các doanh nghiệp, cơ quan uy tín của Bộ Quốc phòng, đã được thử nghiệm, đưa vào sử dụng tại các bệnh viện trung ương…

Các bị cáo còn làm giả bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và UBND TP.HCM để mang ra “bịp” những người nhẹ dạ.

Khi đã tạo được lòng tin của những người bị hại, “trùm” đa cấp Lê Xuân Giang và đồng phạm dùng những thủ đoạn gian dối, trái pháp luật để lôi kéo người cả tin bỏ tiền tham gia hệ thống kinh doanh đa cấp của Công ty Liên kết Việt nhằm hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng cao do chế độ trả thưởng, các chương trình khuyến mại trái pháp luật mà các bị cáo đặt ra.

Lê Xuân Giang và các đồng phạm đặt ra mô hình trả thưởng theo hình kim tự tháp, lấy tiền của người tham gia sau trả cho người tham gia trước.

Số tiền thưởng, tiền hoa hồng hứa hẹn sẽ trả cho các nạn nhân lên tới trên 65% tổng số tiền thu được của chính các bị hại…

Với phương thức, thủ đoạn như trên, sau một năm hoạt động, đến tháng 11/2015, Lê Xuân Giang và đồng phạm đã mở rộng mạng lưới phát triển được 34 chi nhánh, văn phòng đại diện, đại lý tại hàng chục tỉnh, thành, lôi kéo được hơn 68.000 người tại 49 tỉnh, thành phố tham gia hệ thống kinh doanh đa cấp.

Dự kiến, phiên tòa diễn ra trong 10 ngày, kể cả thứ bảy, chủ nhật.

Nguồn : vietnamnet.vn

Ông Đinh La Thăng bị đề nghị 10 – 11 năm tù

Với việc tích cực giúp Đinh Ngọc Hệ trúng đấu giá quyền thu phí cao tốc TP.HCM -Trung Lương, ông Đinh La Thăng bị VKS đề nghị 10 – 11 năm tù.

Sáng nay (18/12), phiên xét xử ông Đinh La Thăng, Nguyễn Hồng Trường và các bị cáo bước vào ngày xét xử thứ 5.

Trước khi tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (VKS) trình bày quan điểm về vụ án.

Theo đại diện VKS, dự án cao tốc TP.HCM – Trung Lương là một trong những công trình thực hiện chủ trương xây dựng công trình giao thông trọng điểm của Nhà nước.

Quá trình thực hiện dự án, một bộ phận cán bộ trong cơ quan Nhà nước đã lợi dụng vị trí công tác trong việc phân công nhiệm vụ để gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước.

 

Ông Đinh La Thăng bị đề nghị 10 - 11 năm tù
Hội đồng xét xử

 

Vụ án này minh chứng lợi ích nhóm, lợi ích tiêu cực đã ảnh hưởng đến nguồn lực đất nước, giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Trên cơ sở điều tra đã làm rõ dự án này hình thành từ vốn ngân sách Nhà nước. Vì vậy, bán quyền thu phí là bán tài sản Nhà nước.

Bị cáo Đinh La Thăng, với cương vị là Bộ trưởng GTVT, được Nhà nước giao quản lý xây dựng quyền thu phí cao tốc, nhận thức rõ là tài sản Nhà nước, cần tìm đối tác để tối ưu hóa quyền thu phí, thu lại tài sản cho Nhà nước đã bỏ ra đầu tư.

 

Ông Đinh La Thăng bị đề nghị 10 - 11 năm tù
Ông Đinh La Thăng

 

Tuy nhiên, sau khi có đề án, bị cáo đã giới thiệu để Đinh Ngọc Hệ tiếp cận có chủ đích ngay từ khâu đấu giá bán quyền thu phí để Hệ có điều kiện gian dối, chiếm đoạt tài sản, làm thiệt hại tài sản của Nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Hồng Trường với vai trò là thứ trưởng Bộ GTVT, Chủ tịch Hội đồng bán đấu giá quyền thu phí tuyến đường cao tốc TP.HCM – Trung Lương, dù nắm rõ các quy định về bán đấu giá tài sản Nhà nước nhưng chỉ đạo cho đơn vị trúng thầu nộp tiền làm 3 lần, trái với quy định Thông tư liên tịch của Bộ GTVT; ký quyết định phê duyệt giá khởi điểm bán đấu giá quyền thu phí.

Trong đó cho phép Hội đồng bán chỉ định khi chỉ có 1 người tham gia đấu giá; ký văn bản thông báo cho Công ty Yên Khánh và Công ty Khánh An của Đinh Ngọc Hệ đủ điều kiện tham gia đấu giá.

Từ đó dẫn đến hậu quả Công ty Yên Khánh không đủ năng lực tài chính được tham gia đấu giá và trúng đấu giá, trái với Nghị định 17/2010 NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 05 của Bộ GTVT.

Ông Đinh La Thăng bị đề nghị 10 - 11 năm tù
Bị cáo Đinh Ngọc Hệ

 

Đối với bị cáo Đinh Ngọc hệ, VKS nhận định mặc dù tại tòa Hệ không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng căn cứ vào hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo, có đủ cơ sở xác định bị cáo đã chỉ đạo thực hiện các hành vi gian dối để đưa công ty của mình tham gia dự án khi không đủ điều kiện.

Sau đó, Hệ dùng phần mềm can thiệp vào hệ thống thu phí để trục lợi, chiếm đoạt tài sản Nhà nước.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại tòa có đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm vào tội như cáo trạng đã truy tố.

Từ nhận định trên, đại diện VKS đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Đinh La Thăng 10 – 11 năm tù; Nguyễn Hồng Trường 6-7 năm; Dương Tuấn Minh (Tổng giám đốc Tổng công ty Cửu Long) 5 – 6 năm cùng về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí.

Đinh Ngọc Hệ với mức án chung thân về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 13 – 14 năm tù về tội lợi dụng chức vụ và quyền hạn đối với người khác để trục lợi. Tổng hợp cả hai tội là chung thân.

Phạm Văn Diệt (nguyên Tổng đốc điều hành Công ty Đức Bình, một trong các công ty của Đinh Ngọc Hệ) mức án 11 – 12 năm.

Tô Ngọc Hùng (Kế toán trưởng, phụ trách toàn bộ tài chính của Công ty Yên Khánh) 11 – 12 năm cùng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Các bị cáo khác trong vụ án cũng bị đề nghị từ 3 – 4 năm và 7 – 8 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự, bị cáo Đinh Ngọc Hệ phải bồi thường toàn bộ số tiền hơn 725 tỷ đồng.

Nguồn : vietnamnet.vn

‘Lỗi cố ý’ của cựu Phó Chủ tịch quận trong vụ sai phạm đất lớn nhất Cần Thơ

Cơ quan CSĐT Công an TP Cần Thơ xác định cựu Phó Chủ tịch UBND quận Bình Thuỷ dính đến vụ sai phạm đất đai nghiêm trọng là “lỗi cố ý”.

Ngày 16/12, nguồn tin cho biết, Cơ quan CSĐT Công an TP Cần Thơ vừa hoàn tất kết luận điều tra, chuyển sang VKSND cùng cấp đề nghị truy tố 7 bị can trong vụ sai phạm đất đai tại quận Bình Thuỷ về tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.

Đây là vụ sai phạm đất đai được xem lớn nhất tại Cần Thơ từ trước đến nay.

 

'Lỗi cố ý' của cựu Phó Chủ tịch quận trong vụ sai phạm đất lớn nhất Cần Thơ
Đất chuyên dụng ở quận Bình Thuỷ trở thành bến xe Thành Bưởi

Theo điều tra, hồi năm 2017, Thanh tra TP Cần Thơ kết luận có nhiều sai phạm trong quá trình quản lý đất đai, xây dựng tại hai dự án đường nối CMT8 đến đường tỉnh 981 và dự án khu đô thị mới Võ Văn Kiệt.

Kết luận thanh tra xác định nhiều sai phạm liên quan 2 dự án nói trên như: Cho phép điều chỉnh loại đất, chuyển mục đích sử dụng đất, tách thửa, chia lô, phân nền, xây dựng không phép, sai phép.

San lấp kênh rạch, lấn chiếm đất, hình thành nhiều khu dân cư tự phát có cơ sở hạ tầng thấp kém, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác triển khai, thực hiện đề án, dự án do phải bồi thường giá đất thổ cư, bồi thường nhà, vật kiến trúc và tái định cư cho các hộ dân, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.

Sau đó, thanh tra TP Cần Thơ chuyển hồ sơ vụ việc sang công an để điều tra, do có dấu hiệu tội phạm.

Quá trình điều tra, Công an TP Cần Thơ đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, trong đó có ông Nguyễn Văn Tuấn, nguyên Phó chủ tịch UBND quận Bình Thuỷ.

 

'Lỗi cố ý' của cựu Phó Chủ tịch quận trong vụ sai phạm đất lớn nhất Cần Thơ
Ông Nguyễn Văn Tuấn khi đương chức Phó chủ tịch UBND quận Bình Thủy. Ảnh: Cantho.gov.vn

 

Cựu phó chủ tịch quận sai phạm với lỗi cố ý

Theo kết luận điều tra, trong thời gian đương chức Phó Chủ tịch UBND quận, ông Tuấn đã ký quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với 33 thửa đất không phù hợp quy hoạch sử dụng đất 2015 – 2020, kế hoạch sử dụng đất năm 2015, 2016, 2017 của quận với diện tích hơn 10.800 m2, giá trị hơn 5,1 tỷ đồng.

Ký quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất không phù hợp với nghị quyết HĐND đối với 6 thửa đất, diện tích gần 4.000 m2, giá trị hơn 4,8 tỷ.

'Lỗi cố ý' của cựu Phó Chủ tịch quận trong vụ sai phạm đất lớn nhất Cần Thơ
Cơ quan Công an khám xét nhà một bị can trong vụ án

 

Cơ quan CSĐT nhận định, ông Tuấn được giao phụ trách lĩnh vực tài nguyên và môi trường, đô thị, tham gia xây dựng, nắm rõ các quy hoạch, kế hoạch về sử dụng đất, biết rõ quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất là sự kế thừa của quy hoạch xây dựng trước đó.

Ông Tuấn có chuyên môn, thâm niên, kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng nhưng lại không nghiên cứu kỹ đồ án quy hoạch xây dựng, có sự mâu thuẫn trong hồ sơ chuyển mục đích sử dụng đất giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng.

Ông không trực tiếp hoặc chỉ đạo kiểm tra lại, làm rõ nguyên nhân, cần thiết xin ý kiến cơ quan chuyên môn cấp trên,…. dẫn đến ký các quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, trái với nghị quyết HĐND TP.

Chấp thuận điều chỉnh mục đích sử dụng đất không phù hợp quy định hành vi đó được thực hiện với lỗi cố ý.

Ông Tuấn bị khởi tố, nhưng cho tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú.

 

'Lỗi cố ý' của cựu Phó Chủ tịch quận trong vụ sai phạm đất lớn nhất Cần Thơ

 

Đối với bị can Lê Văn Vũ, nguyên Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Bình Thủy, có hành vi ký tờ trình đề nghị lãnh đạo UBND quận ra quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất 2015 – 2020, kế hoạch sử dụng đất năm 2015, 2016, 2017 đối với 32 thửa đất, diện tích hơn 9,7000m2, trị giá hơn 4,6 tỷ đồng.

Vũ còn ký tờ trình đề nghị cho phép chuyển mục đích sử dụng đất không phù hợp nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND TP, đối với 6 thửa đất, diện tích hơn 3,900 m2, giá trị hơn 4,8 tỷ.

Ngoài ra, các bị can khác là nguyên quyền giám đốc, phó giám đốc, cán bộ văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Bình Thủy gồm: Huỳnh Trung Thanh, Lê Văn Trứ, Nguyễn Việt Hòa, Lê Hồng Khánh, Trần Tuấn Anh cũng dính sai phạm và bị khởi tố về tội danh nói trên.

Nguồn : vietnamnet.vn

Ông Đinh La Thăng phản bác cáo trạng

Cựu bộ trưởng Đinh La Thăng bị xét hỏi trong ngày thứ ba diễn ra phiên tòa, phản bác cáo buộc “can thiệp cấp dưới” để Út “Trọc” mua được quyền thu phí cao tốc.

Sáng 16/12, TAND TP HCM tiếp tục xét xử ông Thăng; nguyên thứ trưởng Giao thông Vận tải (GTVT) Nguyễn Hồng Trường; cựu thượng tá quân đội Đinh Ngọc Hệ (49 tuổi, nguyên phó giám đốc Tổng Công ty Thái Sơn, Bộ Quốc phòng) cùng 17 bị cáo về các sai phạm khi bán quyền thu phí cao tốc Trung Lương và “ăn chặn” tiền của nhà nước, gây thiệt hại 725 tỷ đồng.

Ông Thăng được HĐXX gọi thẩm vấn, sau khi đã xét hỏi hơn 10 bị cáo. Trong vụ án này, cựu bộ trưởng GTVT bị cáo buộc “phớt lờ” các quy định khi chỉ đạo chuyển giao quyền thu phí cao tốc TP HCM – Trung Lương. Ông Thăng biết Công ty Yên Khánh (của Đinh Ngọc Hệ) không thanh toán tiền trúng đấu giá như cam kết, vi phạm quy chế bán đấu giá, hợp đồng phải bị chấm dứt trước hạn và phải trả lại quyền thu phí cho Nhà nước nhưng đã can thiệp cho Hệ “trả từ từ”.

 

Chủ tọa xét hỏi bị cáo Đinh La Thăng. Ảnh: Hữu Khoa.
Chủ tọa xét hỏi bị cáo Đinh La Thăng.

Trả lời HĐXX, cựu bộ trưởng GTVT giọng khá to, rõ ràng. Ông Thăng cho rằng lời khai của các bị cáo khác “có ý đúng, có ý chưa đúng”. “Ví dụ, ông Trường nói tất cả văn bản gửi cho bộ trưởng là không đúng. Quyết định về giá tài sản, đơn vị trúng đấu giá, hợp đồng hai bên ký với nhau không gửi cho tôi. Tôi ở tù nên chỉ tiếp nhận những tài liệu của cơ quan điều tra gửi”.

Theo ông Thăng, dự án này ông không trực tiếp chỉ đạo, đã giao cho thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường, chỉ những văn bản nào ông này không ký được mà trình lên thì Bộ trưởng mới ký. Tương tự như ở giai đoạn sau, tháng 6/2015, khi Thứ trưởng Nguyễn Văn Thể (hiện là Bộ trưởng GTVT) thay ông Trường, trình ký văn bản liên quan Công ty Yên Khánh, bị cáo mới bút phê “đề nghị làm đúng pháp luật”.

Chủ tọa hỏi: “Trong việc Công ty Yên Khánh tham gia mua quyền thu phí, Hệ và Minh (Dương Tuấn Minh, Tổng giám đốc Công ty Cửu Long, quản lý cao tốc, thuộc Bộ GTVT) khai là bị cáo gọi điện cho bị cáo Minh để giới thiệu Hệ?”.

“Tôi không gọi”, ông Thăng trả lời. “Ông Minh không có vai trò nhiệm vụ gì trong đó. Hơn nữa, việc này thuộc thẩm quyền của Bộ nên không có lý gì mà tôi phải gọi cho ông Minh”.

Cựu bộ trưởng cũng nói thêm: “Cáo trạng nêu bị cáo và Hệ ‘có mối quan hệ từ trước nên giới thiệu’ là mang tính suy đoán, không có căn cứ bởi có những bị cáo đến đây tôi mới gặp, chứ không tác động gì. Cáo trạng nêu như vậy sai sự thật, quy chụp tôi”.

Ngoài ra, ông Thăng nhiều lần xin trình bày cho rõ về việc không gọi điện cho Dương Tuấn Minh để giới thiệu, song chủ toạ ngắt lời, yêu cầu “không trình bày, chỉ nói có hoặc không”.

* Tiếp tục cập nhật.

Ông Đinh La Thăng được đưa đến tòa sáng 16/12. Ảnh: Hữu Khoa.

Ông Đinh La Thăng được đưa đến tòa sáng 16/12.

 

Theo cáo trạng, ông Thăng nhận thức rất rõ quyền thu phí cao tốc Trung Lương là tài sản đặc thù, có giá trị lớn, cần tìm đối tác có năng lực tài chính để tối ưu hóa việc bán quyền thu phí, nhưng vẫn giúp công ty của Đinh Ngọc Hệ (kinh doanh thua lỗ, không có năng lực tài chính) mua được quyền thu phí. Hành vi này của ông Thăng bị cho là xuất phát từ mối quan hệ quen biết từ trước với thượng tá quân đội, tạo tiền đề cho Hệ có cơ hội chiếm đoạt 725 tỷ đồng của Nhà nước.

Tháng 2/2012, ông Thăng điện thoại chỉ đạo Dương Tuấn Minh (nguyên Tổng giám đốc Tổng Công ty Đầu tư phát triển và quản lý dự án hạ tầng giao thông Cửu Long, thuộc Bộ GTVT, quản lý cao tốc Trung Lương) “tạo điều kiện” để công ty của Hệ trúng thầu quyền thu phí cao tốc. Khi doanh nghiệp chậm thanh toán tiền, ông Thăng yêu cầu “để doanh nghiệp trả từ từ”.

Quá trình tổ chức đấu giá, ông Thăng ký quyết định thành lập Hội đồng bán đấu giá quyền thu phí và Tổ thường trực giúp việc, giao thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường làm Chủ tịch. Toàn bộ hoạt động xây dựng hoàn thiện đề án và kết quả bán đấu giá được ông Trường báo cáo Bộ trưởng. Thông qua các tài liệu này, ông Thăng biết việc bán đấu giá không thực hiện đúng quy định của pháp luật, để cho Công ty Yên Khánh trúng thầu theo ý định ban đầu của mình.

Ngoài ra, ông Thăng còn bút phê đề xuất để Công ty Yên Khánh làm nhà đầu tư xây dựng bổ sung hai nút giao thông trên tuyến nối Tân Tạo – Chợ Đệm và đề nghị cho công ty này cấn trừ vào tiền phải thanh toán theo hợp đồng mua quyền thu phí, dẫn đến việc doanh nghiệp tiếp tục không thanh toán đúng theo quy định.

Năm 2018, ông Thăng bị phạt 30 năm tù (mức cao nhất của hình phạt có thời hạn) trong hai vụ án xảy ra tại Tổng Công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng TMCP Đại Dương. Hồi đầu năm, ông tiếp tục bị đề nghị truy tố trong vụ án chỉ định nhà thầu thực hiện dự án Ethanol Phú Thọ, gây thiệt hại hơn 600 tỷ đồng.

Nguồn : vnexpress

Xây dựng trên đất quy hoạch treo

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Xây dựng năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2020;
  • Thông tư 15/2016/TT-BXD hướng dẫn về cấp giấy phép xây dựng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành ngày 30 tháng 06 năm 2016;

     II. Nội dung

  1. Quy hoạch treo là gì?

Theo quy định tại khoản 33 Điều 1 Luật Xây dựng sửa đổi năm 2020 như sau:

“5. ..

Trường hợp sau 03 năm kể từ ngày công bố kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố mà không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất được quyền đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.”

Theo đó, từ ngày 01/01/2021, sau thời gian 3 năm nếu:

– Đất được công bố thuộc diện quy hoạch nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa thu hồi đất để thực hiện dự án; hoặc

– Đất chưa cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố mà không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện;

Thì đất đó được coi là có quy hoạch treo và người sử dụng đất được quyền đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn.

  1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép xây dựng mới

Theo Điều 14 Thông tư 15/2016/TT-BXD thì hồ sơ đề nghị cấp GPXD mới bao gồm:

“Điều 14. Giấy phép xây dựng có thời hạn

  1. Căn cứ quy định tại Điều 94 Luật Xây dựng năm 2014 và trên cơ sở kế hoạch thực hiện quy hoạch xây dựng, vị trí xây dựng công trình, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định cụ thể quy mô công trình, chiều cao tối đa, thời gian được phép tồn tại của công trình để làm căn cứ cấp giấy phép xây dựng có thời hạn, bảo đảm an toàn, vệ sinh môi trường, phòng chống cháy – nổ, kiến trúc, cảnh quan, đáp ứng các Điều kiện về hạ tầng kỹ thuật và các quy định của pháp luật có liên quan.
  2. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn như quy định đối với từng loại công trình, nhà ở riêng lẻ quy định tại các Điều 8, 11, 12, 13 Thông tư này. Riêng tiêu đề của đơn được đổi thành “Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn”.
  3. Trường hợp công trình theo giấy phép xây dựng có thời hạn hết thời gian tồn tại, nhưng Nhà nước vẫn chưa thực hiện quy hoạch xây dựng, nếu chủ đầu tư có nhu cầu sử dụng tiếp thì đề nghị với cơ quan cấp phép xem xét cho phép kéo dài thời hạn tồn tại.”

Hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ

– Số lượng hồ sơ: Chủ đầu tư phải chuẩn bị 02 bộ hồ sơ;

– Thành phần hồ sơ: Theo Điều 11 Thông tư 15/2016/TT-BXD, hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ gồm các giấy tờ sau:

+ Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng theo mẫu tại Phụ lục số 1;

+ Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

+ Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính hai bộ bản vẽ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt theo quy định của pháp luật về xây dựng, mỗi bộ gồm:

+ Bản vẽ mặt bằng công trình trên lô đất tỷ lệ 1/50 – 1/500 kèm theo sơ đồ vị trí công trình;

+ Bản vẽ mặt bằng các tầng, các mặt đứng và mặt cắt chính của công trình tỷ lệ 1/50 – 1/200;

+ Bản vẽ mặt bằng móng tỷ lệ 1/50 – 1/200 và mặt cắt móng tỷ lệ 1/50 kèm theo sơ đồ đấu nối hệ thống thoát nước mưa, xử lý nước thải, cấp nước, cấp điện, thông tin tỷ lệ 1/50 – 1/200.

+ Trường hợp thiết kế xây dựng của công trình đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định, các bản vẽ thiết kế quy định tại nội dung này là bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp các bản vẽ thiết kế xây dựng đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định.

– Đối với công trình xây chen có tầng hầm, ngoài các tài liệu quy định tại điểm 1, 2, 3 nội dung này, hồ sơ còn phải bổ sung bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính văn bản chấp thuận biện pháp thi công móng của chủ đầu tư đảm bảo an toàn cho công trình và công trình lân cận.

– Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết của chủ đầu tư bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thủ tục cấp phép xây dựng nhà ở riêng lẻ năm 2019

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Xây dựng năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2020;
  • Thông tư 15/2016/TT-BXD hướng dẫn về cấp giấy phép xây dựng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2016;
  • Thông tư 96/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư 250/2016/TT-BTC hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 27 tháng 9 năm 2017;

     II. Nội dung

Giấy phép xây dựng là văn bản pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho chủ đầu tư để xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo, di dời công trình.

Xét theo thời gian xây dựng, Giấy phép xây dựng được chia thành 02 loại bao gồm:

– Giấy phép xây dựng có thời hạn là Giấy phép xây dựng cấp cho xây dựng công trình, nhà ở riêng lẻ được sử dụng trong thời hạn nhất định theo kế hoạch thực hiện quy hoạch xây dựng.

– Giấy phép xây dựng theo giai đoạn là Giấy phép xây dựng cấp cho từng phần của công trình hoặc từng công trình của dự án khi thiết kế xây dựng của công trình hoặc của dự án chưa được thực hiện xong.

Xét theo tính chất của hoạt động xây dựng, Giấy phép xây dựng được cấp theo 03 hạng mục cơ bản:

– Giấy phép xây dựng mới;

– Giấy phép sửa chữa, cải tạo;

– Giấy phép di dời công trình.

Theo đó, để được cấp giấy phép xây dựng mới thì nhà ở phải đáp ứng được một số điều kiện và trình tự cụ thể:

  1. Điều kiện chung để được cấp giấy phép xây dựng

+ Đối với nhà ở riêng lẻ tại đô thị:

– Phù hợp với mục đích sử dụng đất theo quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt;

– Bảo đảm an toàn cho công trình, công trình lân cận và yêu cầu về bảo vệ môi trường, phòng, chống cháy, nổ; bảo đảm an toàn hạ tầng kỹ thuật, hành lang bảo vệ công trình thuỷ lợi, đê điều, năng lượng, giao thông; bảo đảm khoảng cách an toàn đến công trình dễ cháy, nổ, độc hại…;

 

– Thiết kế xây dựng nhà ở riêng lẻ được thực hiện theo quy định;

– Ngoài ra, nhà ở riêng lẻ tại đô thị phải phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng; nhà ở riêng lẻ thuộc khu vực, tuyến phố trong đô thị đã ổn định nhưng chưa có quy hoạch chi tiết xây dựng thì phải phù hợp với quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị hoặc thiết kế đô thị.

+ Đối với nhà ở riêng lẻ tại nông thôn gồm:

Trường hợp nhà ở riêng lẻ tại nông thôn khi xây dựng phải phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn.

 

 

  1. Thủ tục bao gồm

Hồ sơ thủ tục

– Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng theo mẫu.

– Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

– Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính hai bộ bản vẽ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt theo quy định của pháp luật về xây dựng, mỗi bộ gồm:

+ Bản vẽ mặt bằng công trình trên lô đất tỷ lệ 1/50 – 1/500 kèm theo sơ đồ vị trí công trình;

+ Bản vẽ mặt bằng các tầng, các mặt đứng và mặt cắt chính của công trình tỷ lệ 1/50 – 1/200;

+ Bản vẽ mặt bằng móng tỷ lệ 1/50 – 1/200 và mặt cắt móng tỷ lệ 1/50 kèm theo sơ đồ đấu nối hệ thống thoát nước mưa, xử lý nước thải, cấp nước, cấp điện, thông tin tỷ lệ 1/50 – 1/200.

Trường hợp thiết kế xây dựng của công trình đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định, các bản vẽ thiết kế nêu trên là bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp các bản vẽ thiết kế xây dựng đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định.

– Đối với công trình xây chen có tầng hầm, ngoài các tài liệu đã nêu, hồ sơ còn phải bổ sung bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính văn bản chấp thuận biện pháp thi công móng của chủ đầu tư đảm bảo an toàn cho công trình và công trình lân cận.

– Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết của chủ đầu tư bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.

  1. Thẩm quyền

Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép xây dựng là Ủy ban nhân dân cấp huyện.

 

  1. Thời hạn giải quyết

Thời gian cấp Giấy phép xây dựng là 15 ngày đối với nhà ở riêng lẻ, trường hợp đến thời hạn cấp giấy phép nhưng cần phải xem xét thêm thì cơ quan cấp giấy phép phải thông báo bằng văn bản và thời gian không được quá 10 ngày kể từ ngày hết hạn.

  1. Lệ phí cấp giấy phép xây dựng.

Do Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Di chúc bằng tiếng dân tộc ít người dùng chữ Hán giản thể để kí âm

Câu hỏi :

Anh V.A.M ở Sơn La có gửi câu hỏi cho Công ty luật như sau:

Cha tôi là ông V.T.A có quốc tịch Việt Nam, dân tộc Miêu. Dân tộc Miêu có tiếng nói riêng nhưng không có hệ thống chữ viết riêng. Trong những ngày cuối đời, ông V.T.A dùng chữ Hán giản thể để kí âm tiếng nói người Miêu (cùng cách làm của chữ Nôm của người Kinh). Di chúc của ông A không được công chứng.

Vậy có cơ sở để công nhận di chúc của ông A không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Nghị định 206-CP năm 1961 quy định việc dùng chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ Mèo ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo do Hội Đồng Chính Phủ ban hành ngày 27 tháng 11 năm 1961;

     II. Nội dung

Di chúc trên không được công nhận hiệu lực.

  1. Hình thức của di chúc

Theo quy định tại khoản 5 Điều 647 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 647. Công bố di chúc

  1. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.”

Do Việt Nam là đất nước đa dân tộc nên trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều tiếng nói khác nhau, vì vậy tiếng nói của các dân tộc thiểu số không được xác định là tiếng nước ngoài nên không yêu cầu phải được công chứng bản dịch sang tiếng Việt. Tuy nhiên, để di chúc được công nhận hiệu lực thì chữ viết dùng để thể hiện di chúc đó phải là chữ viết theo quy chuẩn và đã được công nhận.

  1. Chữ viết tiếng dân tộc Miêu được công nhận

Theo quy định tại điểm c Điều 2 Nghị định 206-CP năm 1961 quy định việc dùng chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ Mèo ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo do Hội Đồng Chính Phủ ban hành thì:

“Điều 2: – Ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo, chữ Tày- Nùng, chữ Thái và chữ Mèo đều coi là chữ chính thức và được dùng:

     c) Trong công văn, giấy tờ của các cơ quan Nhà nước và trong các hoạt động khác, tuỳ theo sự cần thiết của địa phương.”

Như vậy, việc dùng chữ Hán giản thể để kí âm tiếng nói người Miêu không phải là cách chính thức, và chữ viết theo cách viết này không được công nhận.

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 630. Di chúc hợp pháp

  1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

     a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

     b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

  1. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này…”

Vậy, do di chúc này không được lập bằng ngôn ngữ được công nhận và  di chúc này cũng không được công chứng, chứng thực nên di chúc này không đủ điều kiện để được coi là hợp pháp.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Lời khai của các bị cáo trong vụ Tuấn “khỉ” giết 5 người ở Củ Chi

Tại tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội nhưng khai, không biết Tuấn “khỉ” xả súng ở sòng bài khiến 5 người chết để cướp tiền.

Ngày 15/4, TAND TP.HCM mở phiên xét xử 19 bị cáo liên quan vụ án Lê Quốc Tuấn (tức Tuấn “Khỉ”) dùng súng bắn 5 người tử vong về các tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

 

Lời khai của các bị cáo trong vụ Tuấn 'khỉ' giết 5 người ở Củ Chi
Từ sáng sớm các bị cáo được dẫn giải tới tòa

 

Từ sáng sớm, hàng chục người thân của các bị cáo và bị hại đã có mặt tại cổng tòa. Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh, lực lượng bảo vệ chỉ cho phép những người có giấy mời vào tham dự phiên tòa.

Sau gần 3 tiếng kiểm tra căn cước và công bố cáo trạng, phiên tòa bước vào phần xét xử.

Khai tại tòa, bị cáo Phạm Thanh Tâm (Tý “Ba dòm”) thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Tý “Ba dòm”, khai khi nhận bọc đồ của Tuấn “khỉ” đưa, bị cáo hoàn toàn không biết bên trong là tiền. Tý “Ba dòm” khẳng định thời điểm đó chưa biết Tuấn vừa bắn chết người, cướp tiền.

Bị cáo Trần Quốc Đạt cũng thừa nhận hành vi phạm tội. Theo lời khai của Đạt, sau khi nhận được 2 khẩu súng, đạn của Tý “Ba dòm” đưa, bị cáo đã mang về miền Tây cất giữ.

Đạt khai, không biết loại súng gì, sau đó trả lại cho Tý “Ba dòm” 1 khẩu, còn 1 khẩu mang bán lấy tiền chạy trốn.

 

Lời khai của các bị cáo trong vụ Tuấn 'khỉ' giết 5 người ở Củ Chi
Các bị cáo khẳng định không biết Tuấn ‘khỉ’ thảm sát 5 người ở Củ Chi

Bị cáo Lê Văn Tâm nói không biết nguồn gốc chiếc túi chứa 802 triệu đồng. “Hôm đó, sinh nhật bị cáo. Bị cáo đi nhậu thì anh Tý “Ba dòm” gặp bị cáo và nhờ cầm cái túi chứ không bàn bạc. Khi tôi đưa về nhà thì anh Tý “ba dòm” mới nói túi tiền do Tuấn đưa”, Tâm khai.

Theo truy tố, chiều ngày 29/1, Tuấn đến sới bạc trong khu vườn nhãn ở ấp 5, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi để sát phạt cùng một số người khác. Khi hết tiền, Tuấn nhờ Lê Quốc Minh (em họ Tuấn) về nhà mẹ đẻ lấy 100 triệu đồng.

Tuy nhiên, do phát sinh mâu thuẫn với những người trong sới bạc nên Tuấn bỏ đi. Một lúc sau, anh ta quay lại, xả súng vào sòng bạc khiến 4 người chết, 1 người bị thương.
Gây án xong, Tuấn cướp 1 xe SH cùng túi tiền 802 triệu đồng của người trong sòng bạc và tẩu thoát. Trong lúc trốn chạy, Tuấn cướp 2 xe máy khác, bắn chết thêm 1 người và làm bị thương 2 người.

Sau đó, Tuấn gặp Võ Hồng Tâm và Nguyễn Duy Thanh (em họ Tuấn) nhờ giúp đỡ. Dù biết Tuấn vừa gây tội ác nhưng hai người này vẫn giúp gã lẩn trốn. Cả hai còn lên kế hoạch đưa Tuấn tới Vũng Tàu bằng xe taxi.

Kế hoạch không thành khi tối ngày 13, rạng sáng 14/2, cảnh sát phát hiện vị trí ẩn nấp của Tuấn “khỉ” và tổ chức bao vây. Khi anh ta chống trả thì bị tiêu diệt.

Nguồn : vietnamnet.vn