Câu hỏi:
Chị Đ.H.T ở Hà Nội có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:
Tôi là bị đơn trong một vụ tranh chấp mà nguyên đơn là bà N.M.H đã khởi kiện tôi yêu cầu buộc tôi phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản trong một hợp đồng viết tay trong đó ghi rõ tôi đã vay của bà N.M.H 100.000.000 đồng. Tôi khẳng định hợp đồng viết tay trên là giả chữ viết của tôi.
Tôi xin hỏi, hiện tại tôi nên làm gì để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
- I. Cơ sở pháp lý
– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;
- Nội dung
- Nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng
Theo quy định tại khoản Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:
“Điều 91. Nghĩa vụ chứng minh
…
- Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó…”
Trong trường hợp của chị, bà N.M.H có yêu cầu “buộc chị Đ.H.T phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản trong một hợp đồng viết tay trong đó ghi rõ chị Đ.H.T đã vay của bà N.M.H 100.000.000 đồng”
Khi chị có quan điểm phản đối yêu cầu này của bà N.M.H thì chị có thể phản đối yêu cầu này tới Tòa án bằng văn bản và theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì cùng với đó chị có nghĩa vụ phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
- Trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 103 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:
“Điều 103. Trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo
- Trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại; nếu không rút lại thì người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Tòa án có quyền quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 102 của Bộ luật này…”
Như vậy, khi chị cho rằng bản hợp đồng kia là giả mạo thì chị có quyền quyền yêu cầu Tòa án hoặc Tòa án có quyền quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 102 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Quyền tự trưng cầu giám định
Theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:
“Điều 102. Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định
- Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.”
Như vậy, trong trường hợp chị đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu thì chị có thể tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
Vậy, chị có quan điểm phản đối yêu cầu này của bà N.M.H thì chị có thể phản đối yêu cầu này tới Tòa án bằng văn bản và thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó. Chị cũng có thể tự mình yêu cầu giám định hoặc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định.
Trên đây là nội dung quy định về nghĩa vụ chứng minh của bị đơn và quyền yêu cầu giám định. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com