Câu hỏi:

Ông L.T.K ở Hà Nội có câu hỏi gửi đến Công ty luật như sau:

Tôi là L.T.K và bà H.H.T khởi kiện ông T.H.H yêu cầu trả lại tài sản đã mượn. Tôi yêu cầu ông T.H.H trả lại 30.000.000 đồng. Bà H.H.T yêu cầu ông T.H.H trả lại 20.000.000 đồng. 2 vụ án được Tòa án có thẩm quyền nhập làm 1 vụ án để giải quyết yêu cầu ông T.H.H trả lại 50.000.000 đồng. Tòa án không chấp nhận yêu cầu của cả tôi và bà H.H.T. Tôi và bà H.H.T là vợ chồng.

Tôi xin hỏi, tôi có nghĩa vụ nộp án phí cho phần yêu cầu đòi 20.000.000 đồng kia không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
  • Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
  • Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016;

     II. Nội dung

  1. Trách nhiệm chịu án phí của nguyên đơn

Theo quy định tại khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành:

“Điều 26. Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm

  1. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận…”

Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:

“Điều 68. Đương sự trong vụ việc dân sự

  1. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm…”

Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

“Điều 186. Quyền khởi kiện vụ án

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”

Như vậy, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận.

Ông L.T.K là nguyên đơn của phần yêu cầu đòi lại 30.000.000 đồng.

Bà H.H.T là nguyên đơn của phần yêu cầu đòi lại 20.000.000 đồng.

Cả 2 ông bà phải độc lập chịu án phí tương ứng với yêu cầu của mỗi người.

  1. Khái niệm người cao tuổi

Theo quy định Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009:

“Điều 2. Người cao tuổi

Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.”

Như vậy, ông L.T.K được xác định là người cao tuổi và bà H.H.T không được xác định là người cao tuổi.

  1. Nghĩa vụ án phí của người cao tuổi

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì các đối tượng sau được miễn nộp án phí:

“Điều 12. Miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án

  1. Những trường hợp sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:

đ) Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ…”

Như vậy, ông L.T.K là người cao tuổi và thuộc trường hợp được miễn án phí đối với yêu cầu trả lại 30.000.000 đồng. Bà H.H.T không được miễn án phí đối với yêu cầu trả lại 20.000.000 đồng.

  1. Nhập vụ án dân sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

“Điều 42. Nhập hoặc tách vụ án

  1. Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật.

Đối với vụ án có nhiều người có cùng yêu cầu khởi kiện đối với cùng một cá nhân hoặc cùng một cơ quan, tổ chức thì Tòa án có thể nhập các yêu cầu của họ để giải quyết trong cùng một vụ án…”

Như vậy, Tòa án có thể nhập vụ án và yêu cầu để giải quyết trong cùng một vụ án nhưng việc nhập vụ án và yêu cầu này không làm thay đổi yêu cầu ban đầu của nguyên đơn.

Ông L.T.K là nguyên đơn của phần yêu cầu đòi lại 30.000.000 đồng trong yêu cầu ông T.H.H trả lại 50.000.000 đồng.

Bà H.H.T là nguyên đơn của phần yêu cầu đòi lại 20.000.000 đồng trong yêu cầu ông T.H.H trả lại 50.000.000 đồng. Do theo quy định tại khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, bà H.H.T phải chịu án phí cho yêu cầu đỏi 20.000.000 đồng này.

 

 

  1. Nghĩa vụ chung của ông bà L.T.K và H.H.T

Theo quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

  1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
  2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
  3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
  4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
  5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
  6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”

Như vậy, vợ chồng có các nghĩa vụ chung về một số trách nhiệm phát sinh trong các quan hệ dân sự phát sinh trong đời sống. Do nghĩa vụ đóng án phí phát sinh trong quan hệ tố tụng nên không làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.

Vậy, ông L.T.K không phải chịu án phí đối với yêu cầu đòi lại 20.000.000 đồng này.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *