Câu hỏi:
Một bạn đọc đề nghị ẩn danh có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:
Bố tôi (ông H) chung sống với nhau như vợ chồng (mẹ tôi)(với bà T), không đăng ký kết hôn nhưng sau đó họ không còn chung sống với nhau và trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực; Năm 1983 ông H bỏ đi và ông H sau đó chung sống với nhau như vợ chồng với người khác đến nay (bà G) từ năm 1984, có con chung và tài sản chung. Quan hệ hôn nhân đầu tiên và quan hệ hôn nhân thứ hai đều là hôn nhân thực tế.
Tôi xin hỏi:
- Ông H mất không để lại di chúc, bà T có được hưởng di sản của ông H không?
- Tôi có được xác định là con đẻ của ông H không khi tôi là con của ông H và bà T?
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
- Cơ sở pháp lý
– Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ;
– Án lệ số 41/2021/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 23/02/2021và được công bố theo Quyết định 42/QĐ-CA ngày 12/3/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
– Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 do Quốc hội ban hành về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình;
– Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13;
– Luật Hôn nhân và gia đình số 21-LCT/HĐNN7;
- Nội dung
- Nội dung cơ bản của về
“[3] Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như án sơ thẩm xử là đúng.
[4] Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ”.
Trường hợp này, phải xác định bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại và quan hệ với bà S là hôn nhân thực tế nên bà S được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1.
Căn cứ vào Án lệ nêu trên, đối với những trường hợp đáp ứng đủ các tình tiết dưới đây thì
Tình tiết cơ bản của Án lệ 41:
– Quan hệ hôn nhân thứ nhất tồn tại từ trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực;
– Quan hệ hôn nhân thứ nhất tồn tại mà không được đăng ký kết hôn;
– Quan hệ hôn nhân thứ nhất đã chấm dứt trên thực tế;
– Quan hệ hôn nhân thứ hai tồn tại trên thực tế trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực;
- 2. Quan hệ hôn nhân thứ nhất tồn tại từ trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực
Theo trình bày của anh/ chị thì việc ông H chung sống như vợ chồng với bà T là từ trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực.
Như vậy. trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân thứ nhất tồn tại từ trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực.
- 3. Quan hệ hôn nhân thứ nhất tồn tại mà không được đăng ký kết hôn
Cũng theo trình bày của anh/ chị thì việc ông H chung sống như vợ chồng với bà T là không được đăng ký kết hôn.
Như vậy, trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân thứ nhất tồn tại mà không được đăng ký kết hôn.
- 4. Quan hệ hôn nhân thứ nhất đã chấm dứt trên thực tế
Trên thực tế thì mọi chuyện có thể tóm tắt theo trình tự thời gian như sau:
- Trước năm 1983, ông H chung sống như vợ chồng với bà T;
- Năm 1983, ông H bỏ đi;
- Năm 1984, ông H chung sống như vợ chồng với bà G;
Do đó, có thể xác định rằng quan hệ hôn nhân với bà T – ông H đã chấm dứt trên thực tế từ năm 1983.
Như vậy, quan hệ hôn nhân thứ nhất đã chấm dứt trên thực tế.
- 5. Quan hệ hôn nhân thứ hai tồn tại trên thực tế trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực
Theo trình tự thời gian, năm 1984 thì ông H chung sống như vợ chồng với bà G.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực vào ngày 03 tháng 01 năm 1987.
Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà G – ông H đã tồn tại trên thực tế (1984) trước khi Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực.
Như vậy, quan hệ hôn nhân thứ hai tồn tại trên thực tế trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực.
- Quan hệ hôn nhân thứ hai là quan hệ có con chung và tài sản chung
Theo trình bày của anh/ chị thì việc ông H chung sống như vợ chồng với bà G đã có con chung và phát sinh tài sản chung.
Như vậy, quan hệ hôn nhân thứ hai là quan hệ có con chung và tài sản chung.
- Việc áp dụng án lệ trong xét xử
Việc áp dụng án lệ trong xét xử phải tuân thủ theo những nguyên tắc quy định tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ:
“Điều 8. Áp dụng án lệ trong xét xử
Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.
Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.”
Như vậy, để được áp dụng án lệ vào vụ án này thì nội dung vụ án phải có tình huống tương tự án lệ.
Trong câu hỏi anh gửi đến Công ty luật thì phải xác định bà T không được hưởng di sản của ông H để lại vì quan hệ hôn nhân với bà T đã chấm dứt trên thực tế.
- Quan hệ giữa cha/ mẹ và con là độc lập với quan hệ hôn nhân giữa cha mẹ
Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình thì:
“Điều 68. Bảo vệ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
…
- Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan…”
Theo quy định tại Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì:
“Điều 28
Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng.
Trong trường hợp có yêu cầu xác định lại vấn đề này thì phải có chứng cứ khác.”
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình thì:
“3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
- a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;…”
Như vậy, dù hiện tại quan hệ hôn nhân giữa ông H- bà T không còn được công nhận nhưng vào thời kỳ ông H – bà T vẫn chung sống thì pháp luật vẫn công nhận đây là quan hệ vợ chông. Do đó, con sinh ra trong thời kỳ này vẫn được thừa nhận là con chung của ông H – bà T.
Do đó, quan hệ cha – con giữa anh/ chị với ông H là có tồn tại.
Vậy, quan hệ cha – con giữa anh/ chị với ông H là có tồn tại và bà T không được hưởng di sản của ông H để lại vì quan hệ hôn nhân với bà T đã chấm dứt trên thực tế.
Trên đây là nội dung quy định về quan hệ hôn nhân thực tế. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com