Kê khai sai giá chuyển nhượng nhà đất có thể bị truy cứu hình sự

Tổng cục Thuế khuyến nghị người dân, doanh nghiệp cần kê khai chính xác, trung thực, đầy đủ giá thực tế chuyển nhượng bất động sản. Kê khai sai có thể bị truy cứu hình sự vì hành vi trốn thuế.

Khi chuyển nhượng sang tên nhà đất, cả người mua, người bán cũng như người tặng cho đều phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, nhưng không phải ai cũng nắm rõ quy định pháp luật của nhà nước về vấn đề nay. Vậy khi chuyển nhượng nhà đất, người dân sẽ phải nộp những khoản thuế phí nào; các loại thuế này tính trên giá chuyển nhượng thực tế, hay theo bảng giá do Nhà nước quy định; nếu kê khai thấp hơn giá chuyển nhượng thực tế thì có bị xử lý không?

Liên quan đến vấn đề này, PV VOV trao đổi với bà Lý Thị Hoài Hương, Phó Vụ trưởng Vụ quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh, cá nhân, Tổng cục Thuế.

PVNgoài các khoản như lệ phí địa chính, lệ phí cấp sổ đỏ, trích lục hồ sơ, khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay còn gọi là bán nhà, đất người dân phải nộp khoản thuế phí nào theo quy định, thưa bà?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Theo quy định tại điều 17, Thông tư 92 ngày 15/6/2015, khi chuyển nhượng bất động sản, người bán phải nộp thuế thu nhập cá nhân với thuế xuất, thuế chuyển nhượng bất động sản là 2% trên giá chuyển nhượng.

Còn người mua phải nộp phí trước bạ đối với mức thu thuế nhà đất là 0,5% theo quy định tại khoản 1, điều 8, Nghị định số 10 ngày 15/1/2022 của Chính phủ.

PVTheo quy định luật pháp, hiện nay giá chuyển nhượng bất động sản được xác định như thế nào, thưa bà?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Đối với thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản, căn cứ quy định tại khoản 11, Điều 2, Nghị định số 12/2015 của Chính phủ, giá chuyển nhượng bất động sản là giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng.

Trường hợp trên hợp đồng chuyển nhượng không ghi giá, hoặc giá đất trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định, thì giá chuyển nhượng đất là giá do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm chuyển nhượng theo quy định của Luật Đất đai.

Trường hợp chuyển nhượng nhà gắn liền với đất, giá trị nhà, kết cấu hạ tầng, công trình kiến trúc gắn liền với đất được xác định căn cứ theo giá tính lệ phí trước bạ do UBND cấp tỉnh quy định.

Trường hợp UBND cấp tỉnh quy định không có giá tính lệ phí trước bạ, căn cứ vào quy định của Bộ Xây dựng về phân loại nhà, về tiêu chuẩn, định mức xây dựng cơ bản, về giá trị còn lại thực tế của công trình trên đất.

Đối với lệ phí trước bạ, căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 7, Nghị định số 10/2022 của Chính phủ, giá tính lệ phí trước bạ đối với đất là giá đất tại bảng giá đất do UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành theo quy định của pháp luật về đất đai tại thời điểm kê khai lệ phí trước bạ.

Giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà là giá do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành theo quy định của pháp luật về xây dựng tại thời điểm kê khai lệ phí trước bạ.

Trường hợp giá nhà, đất tại hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất cao hơn giá do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành thì giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà, đất tại hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà.

PVThực tế cho thấy, không ít trường hợp người dân khi làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ghi giá chuyển nhượng thấp hơn số tiền mà họ giao dịch trên thực tế. Thường họ chỉ ghi bằng bảng giá đất do địa phương quy định. Theo bà, điều này có vi phạm quy định của pháp luật?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Luật Quản lý thuế quy định rõ việc người nộp thuế có nghĩa vụ kê khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ, hồ sơ khai thuế.

Căn cứ khoản 5, Điều 143 Luật quản lý thuế số 38, việc sử dụng chứng từ, tài liệu, không phản ánh đúng bản chất giao dịch, hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp là hành vi vi phạm pháp luật.

Tổng cục Thuế khuyến nghị người dân, doanh nghiệp khi phát sinh các giao dịch chuyển nhượng bất động sản cần kê khai chính xác, trung thực, đầy đủ giá thực tế chuyển nhượng bất động sản trên hợp đồng chuyển nhượng cũng như trên hồ sơ khai thuế, phí để đảm bảo quyền lợi của bản thân tránh khỏi những nội dung pháp lý trong quá trình sử dụng bất động sản như:

Tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo, đền bù và các tình huống pháp lý khác. Các bên mua, bán có thể bị truy cứu hình sự vì hành vi trốn thuế.

PVNếu cơ quan chức năng phát hiện ra giá chuyển nhượng thực tế cao hơn giá trị ghi trên hợp đồng, người dân bị xử lý thế nào?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Hợp đồng chuyển nhượng là giao dịch dân sự giữa các bên và có thể thỏa thuận bằng văn bản hoặc bằng lời nói.

Giá chuyển nhượng bất động sản là giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng thực tế tại thời điểm chuyển nhượng.

Việc người dân kê khai giá chuyển nhượng trên hợp đồng thấp hơn giá giao dịch thực tế, không phản ánh đúng bản chất các giao dịch bất động sản. Khi người bán và người mua cố tình khai thấp hơn giá trị thực tế để né thuế là hành vi vi phạm pháp luật.

Tùy theo mức độ vi phạm, khi bị cơ quan chức năng phát hiện sẽ tiến hành truy thu, xử phạt vi phạm hành chính, thậm chí bị xử phạt hình sự theo quy định của pháp luật.

Cơ quan thuế thực hiện xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Đối với các trường hợp có dấu hiệu tội phạm, cơ quan thuế sẽ phối hợp với các cơ quan có thẩm điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật về hình sự và các pháp luật khác có liên quan.

PVĐể người dân đồng tình với các quy định của pháp luật thuế trong chuyển nhượng bất động sản, ngành Thuế đã và đang triển khai các giải pháp nào, thưa bà?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Thời gian qua, Bộ Tài chính cũng như Tổng cục Thuế đã chỉ đạo rất nhiều giải pháp đảm bảo các chủ thể khai sát với giá giao dịch thực tế trong hoạt động kinh doanh về chuyển nhượng bất động sản. Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cơ quan thuế không được gây khó khăn, phiền hà cho người nộp thuế trong quá trình xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản. Đồng thời, cũng quán triệt các phòng, đội tham gia vào công tác xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản.

Thực hiện nghiêm túc các quy định về trình tự, thủ tục xử lý hồ sơ, xác định nghĩa vụ tài chính và quy trình làm việc trực tiếp với người nộp thuế theo quy định và có cơ chế giám sát cán bộ trong quá trình tuyên truyền, hướng dẫn việc kê khai bất động sản cho người nộp thuế.

Trường hợp công chức có hành vi nhũng nhiễu để trục lợi sẽ bị xử lý nghiêm. Chỉ đạo các Cục thuế tập trung hỗ trợ các Chi cục thuế thời gian qua có nhiều giao dịch bất động sản gây ra quá tải cho việc xử lý hồ sơ của cơ quan thuế.

Thực hiện rà soát lại lực lượng cán bộ, công chức đang làm công tác giải quyết xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản để điều động công chức tại các bộ phận khác sang tăng cường, bổ sung lực lượng cho bộ phận xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản. Tổ chức làm thêm giờ để giải quyết triệt để các hồ sơ còn tồn đọng.

Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế ưu tiên triển khai các biện pháp tuyên truyền chính sách pháp luật cho người nộp thuế.

Ngoài ra, Bộ Tài chính sẽ kiến nghị Chính phủ trong thời gian tới thực hiện một số giải pháp như: rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản để sửa đổi, bổ sung đảm bảo thống nhất đồng bộ.

Cấp thẩm quyền, cần bổ sung quy định giao dịch bất động sản phải thanh toán qua ngân hàng để minh bạch trong kiểm soát giao dịch của các ngành, phục vụ công tác quản lý giao dịch, tài sản bất động sản của các chủ thể trong xã hội của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, quản lý thuế nói riêng.

PVXin trân trọng cảm ơn bà!.

Theo Báo mới.

Được miễn thuế khi bán nhà, đất trong 2 trường hợp

Khi mua bán, chuyển nhượng nhà, đất thì người bán có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân; tuy nhiên, có hai trường hợp sẽ được miễn thuế.

Bộ Tài chính quy định một loạt các khoản thu nhập được miễn thuế thu nhập cá nhân tại Thông tư 111/2013. Trong đó, đáng chú ý hai trường hợp cá nhân được miễn thuế khi bán nhà, đất.

Mua bán giữa người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng

Theo điểm a khoản 1 Điều 3 Thông tư 111/2013 của Bộ Tài chính, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (bao gồm cả nhà ở hình thành trong tương lai, công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo quy định pháp luật về kinh doanh bất động sản) sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân trong một số trường hợp.

Cụ thể là chuyển nhượng giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; bố vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau. Trường hợp bất động sản do vợ hoặc chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn được phân chia theo thỏa thuận hoặc do tòa án phán quyết thì việc phân chia tài sản này thuộc diện được miễn thuế.

Bán căn nhà, thửa đất duy nhất

Cá nhân phát sinh thu nhập khi chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có duy nhất một nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam sẽ được miễn thuế khi đáp ứng ba điều kiện.

Thứ nhất, cá nhân chỉ có duy nhất quyền sở hữu một nhà ở hoặc quyền sử dụng một thửa đất ở (bao gồm cả trường hợp có nhà ở hoặc công trình xây dựng gắn liền với thửa đất đó) tại thời điểm chuyển nhượng, cụ thể như sau:

– Việc xác định quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

– Trường hợp chuyển nhượng nhà ở có chung quyền sở hữu, đất ở có chung quyền sử dụng thì chỉ cá nhân chưa có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở nơi khác được miễn thuế; cá nhân có chung quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở còn có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở khác không được miễn thuế.

– Trường hợp vợ chồng có chung quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và cũng là duy nhất của chung vợ chồng nhưng vợ hoặc chồng còn có nhà ở, đất ở riêng, khi chuyển nhượng nhà ở, đất ở của chung vợ chồng thì vợ hoặc chồng chưa có nhà ở, đất ở riêng được miễn thuế; chồng hoặc vợ có nhà ở, đất ở riêng không được miễn thuế.

Thứ hai, cá nhân có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở tính đến thời điểm chuyển nhượng tối thiểu là 183 ngày. Thời điểm xác định quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở là ngày cấp sổ hồng. Riêng trường hợp được cấp lại, cấp đổi thì thời điểm xác định quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở được tính theo thời điểm cấp sổ hồng trước khi được cấp lại, cấp đổi.

Cuối cùng là cá nhân phải chuyển nhượng toàn bộ nhà ở, đất ở. Trường hợp cá nhân có quyền hoặc chung quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất ở duy nhất nhưng chuyển nhượng một phần thì không được miễn thuế cho phần chuyển nhượng đó.

Người dân cần lưu ý, nhà ở, đất ở duy nhất được miễn thuế do cá nhân chuyển nhượng bất động sản tự khai và chịu trách nhiệm. Nếu phát hiện không đúng sẽ bị xử lý truy thu thuế và phạt về hành vi vi phạm pháp luật thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Theo Báo mới.

Chính thức trình Quốc hội 2 siêu dự án đường vành đai trị giá 161.191 tỷ đồng

Việc sớm hoàn thành đường Vành đai 4 Hà Nội và đường Vành đai 3 TP.HCM sẽ tạo động lực, sức lan tỏa nhằm khôi phục, phát triển KT – XH khu vực Vùng Thủ đô, Vùng TP.HCM.

Phối cảnh Dự án đường vành đai 4 – vùng Thủ đô.

Sáng nay (6/6), theo Chương trình Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày sẽ Tờ trình về chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM – hai công trình hạ tầng giao thông đô thị lớn nhất từng được triển khai tại Việt Nam.

Tại Tờ trình số 211/TTr – CP, Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM.

Đây là 2 dự án có vai trò liên kết vùng, thúc đẩy phát triển đô thị hóa, có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển KT- XH đã được dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2011 – 2022.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là sự hạn chế về nguồn lực nên chưa có điều kiện để triển khai trong giai đoạn này. Đến nay, các điều kiện về cơ sở pháp lý, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, nhu cầu thực tiễn và nguồn lực cơ bản đáp ứng yêu cầu, do vậy, việc triển khai 2 dự án trong giai đoạn 2021 – 2025 là hợp lý và cần thiết.

Theo đề xuất của Chính phủ, Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội có chiều dài 112,8 km, gồm 103,1 km đường Vành đai 4 và 9,7 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài – Hạ Long, đi qua địa phận TP. Hà Nội (58,2km); Hưng Yên (19,3km); Bắc Ninh (dài 25,6km). Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM dài 76,34 km, đi qua địa phận TP.HCM (47,51km); Đồng Nai (11,26km); Bình Dương (10,76km); Long An (6,81km).

Cả hai dự án đều tiến hành GPMB các tuyến đường theo quy mô quy hoạch (6-8 làn xe cao tốc) và hệ thống đường đô thị song hành 2 bên. Riêng đường Vành đai 4 sẽ GPMB dự trữ cho tuyến đường sắt vành đai. Trên cơ sở kết quả dự báo nhu cầu vận tải, phù hợp các giải pháp đầu tư và nguồn lực, giai đoạn 1 đầu tư theo quy mô 4 làn xe cao tốc hạn chế, vận tốc thiết kế 80 km/h; đầu tư xây dựng đường song hành 2 bên.

Với quy mô đầu tư như trên, Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội có diện tích đất chiếm dụng khoảng 1.341 ha; kinh phí GPMB, tái định cư khoảng 19.590 tỷ đồng; Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM là khoảng 642,7 ha, kinh phí GPMB, tái định cư khoảng 41.589 tỷ đồng, thực hiện GPMB một lần theo quy hoạc và GPMB theo quy mô hoàn chỉnh đối với các nút giao liên thông (đầu tư giai đoạn 1).

Tại Tờ trình số 211, Chính phủ kiến nghị Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô sẽ có hình thức đầu tư là đầu tư công kết hợp đầu tư theo phương thức PPP, được chia thành 7 dự án thành phần; tách riêng phần GPMB và xây dựng đường song hành triển khai độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương, thực hiện theo hình thức đầu tư công; riêng Dự án thành phần 2 gồm hệ thống đường cao tốc toàn tuyến và tuyến nối 9,7 km do UBND TP. Hà Nội là cơ quan có thẩm quyền.

Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM được kiến nghị đầu tư theo hình thức đầu tư công, chia thành 8 dự án thành phần; tách riêng phần GPMB và phần xây dựng triển khai độc lập theo địa giới giữa các địa phương.

Đối với Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô, sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85.813 tỷ đồng, sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước và vốn BOT của nhà đầu tư, trong đó vốn BOT 29.447 tỷ đồng. Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 75.378 tỷ đồng, sử dụng toàn bộ vốn Ngân sách Nhà nước, trong đó ngân sách Trung ương tham gia là 38.741 tỷ đồng.

Chính phủ dự kiến thời gian thực hiện 2 dự án là từ năm 2022 đến năm 2027. Để đàm bảo tiến độ đầu tư, Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép áp dụng các nhóm cơ chế, chính sách đặc biệt để triển khai đầu tư các dự án.

Tại Báo cáo tóm tắt kết quả thẩm tra Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM, Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với việc phân chia các Dự án thành các dự án thành phần. Ủy ban Kinh tế kiến nghị cần cụ thể hóa trách nhiệm “đầu mối” của TP. Hà Nội và TP.HCM tại dự thảo Nghị quyết của các Dự án khi quy định pháp luật hiện hành chưa có quy định về khái niệm cũng như trách nhiệm, quyền hạn cụ thể về vai trò này.

Đồng thời, do các dự án thành phần sẽ giao các địa phương tổ chức thực hiện nên có thể dẫn đến mỗi cơ quan tổ chức một cách khác nhau, không bảo đảm được tính đồng bộ, thống nhất và có thể dẫn đến tăng tổng mức đầu tư của các Dự án, vì vậy Ủy ban Kinh tế đề nghị giao cho một cơ quan có năng lực, kinh nghiệm thực hiện công tác thẩm định cho các dự án thành phần của 2 dự án.

Ủy ban Kinh tế cũng nên ý kiến đối với đề xuất của Chính phủ về việc Quốc hội cho phép Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc chỉ định thầu trong quá trình triển khai thực hiện Dự án đối với các gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ di dời hạ tầng kỹ thuật, gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư và áp dụng trong 2 năm (2022 – 2023); cho phép trong giai đoạn triển khai Dự án, nhà thầu thi công không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nằm trong Hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ Dự án; việc khai thác mỏ khoáng sản được thực hiện đến khi hoàn thành Dự án…

Theo đó, Ủy ban Kinh tế nhận thấy hai cơ chế này đã được quy định tại khoản 1 và 2 Điều 5 Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, chỉ áp dụng cho các gói dự án thuộc phạm vi Chương trình trong 2 năm (2022 – 2023). Do đó, đề nghị chỉ áp dụng các cơ chế này trong 2 năm 2022 và 2023. Một số ý kiến đề nghị áp dụng các cơ chế này trong 2 năm kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành.

Đối với cơ chế, chính sách Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội, trong đó có việc cho phép phần vốn nhà nước tham gia tối đa 66% tổng mức đầu tư Dự án, Ủy ban Kinh tế cho rằng, Dự án có sơ bộ tổng mức đầu tư rất lớn, do đó nếu áp dụng theo khoản 2 Điều 69 của Luật Đầu tư theo phương thức PPP sẽ không khả thi về phương án tài chính và khó thu hút được các nhà đầu tư tham gia đầu tư Dự án. Vì vậy, đa số ý kiến tán thành với đề xuất này.

Đối với cơ chế, chính sách Dự án Vành đai 3 TP.HCM, Ủy ban Kinh tế nhất trí với chủ trương Dự án sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng cần tổ chức thực hiện thu phí để thu hồi vốn đầu tư cho Ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ trong bước nghiên cứu khả thi cần xác định chính xác tỷ lệ góp vốn Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương đối với phần đường cao tốc để làm cơ sở xây dựng phương án thu hồi vốn đầu tư hoàn trả ngân sách.

PGS.TS. Trần Đình Thiên cho rằng, sau khi hai dự án này hoàn thành, có thể hình dung ra sự “bùng nổ” khá mạnh mẽ ở hai trung tâm tăng trưởng lớn nhất của Việt Nam. Từ sự ách tắc lâu nay chúng ta phải chịu, khi khai thông, “bùng nổ” sẽ hiện ra. PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng: Chân lý “đường thông” sẽ thể hiện ở 3 điểm chính.

Thứ nhất, hành lang công nghiệp sẽ phát triển, các khu công nghiệp sẽ được định hình rõ ràng, mạnh mẽ hơn. Công nghiệp theo tinh thần mới là khu công nghiệp đẳng cấp cao.

Thứ hai là vận tải và các tuyến logistic sẽ kết nối mạnh mẽ hơn, sôi động hơn. Mục đích là hình thành các đô thị và chuỗi đô thị đẳng cấp cao, hình thành nên không gian kết nối tốt, bảo đảm cuộc sống, theo đúng tiêu chuẩn bền vững.

Thứ ba, trong tầm nhìn xa hơn nữa là nối các hành lang này với các sân bay thì có thể hình dùng sự kết nối bầu trời với thế giới. Qua đó tận dụng cơ hội phục hồi để tạo ra đột phá, phát triển.

Theo Báo mới.

Bắt đầu triển khai chứng thực hợp đồng điện tử trong tháng 6/2022

Mục tiêu trong năm 2022 sẽ có 50% doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử trong hoạt động giao dịch. Bộ Công Thương đã sẵn sàng cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử trong tháng 6/2022.

Bộ Công Thương cho biết, những năm qua, thương mại điện tử Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, nhảy vọt với tốc độ tăng trưởng 16- 17%/năm. Các giao dịch thương mại điện tử được thực hiện thông qua sàn thương mại điện tử, mạng xã hội và website bán hàng trực tiếp của doanh nghiệp, người kinh doanh. Tuy phát triển với tốc độ đột phá, các giao dịch thương mại điện tử luôn ẩn chứa nhiều rủi ro cho cả người mua và người bán.

Hợp đồng điện tử là giải pháp giúp doanh nghiệp hoạt động tin cậy và hiệu quả.

Nhằm đảm bảo an toàn cho các giao dịch, giao kết hợp đồng cho chủ thể trên môi trường thương mại điện tử, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ ban hành hành lang pháp lý cho hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử trong các Nghị định 52/2013/NĐ-CP và gần đây nhất là Nghị định 85/2021/NĐ-CP về thương mại điện tử, chính thức tạo hành lang pháp lý cần thiết để cấp phép cho hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử tại Việt Nam.

Ông Đặng Hoàng Hải, Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương nhận định, lợi ích mang lại cho doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức rất lớn. Trước hết, giúp tiết kiệm chi phí. So với chi phí hiện nay, một hợp đồng truyền thống sẽ mất chi phí giấy tờ, in ấn, chi phí chuyển phát hợp đồng hoặc chi phí đi lại. Bên cạnh đó,giúp tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu suất.

Ngoài ra, với hợp đồng điện tử, các bên thứ 3 như ngân hàng, các tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước có thể căn cứ trên hợp đồng điện tử với xác thực của đơn vị được Bộ Công Thương cấp phép hoặc thông qua trục phát triển hợp đồng điện tử của Bộ Công Thương để xác minh giá trị bản gốc của hợp đồng. Việc này tiết kiệm nhiều thời gian xác minh và đảm bảo hạn chế chứng từ giả, chứng từ khống.

Ông Hải cũng cho biết thêm, việc lưu trữ hợp đồng dưới dạng điện tử sẽ giúp doanh nghiệp quản lý, tra cứu, tìm kiếm một cách dễ dàng mà vẫn đảm bảo được sự an toàn, bảo mật của nội dung hợp đồng.

Thông tin về lộ trình đưa hợp đồng điện tử vào thực tế, ông Hải cho hay, ngày 15/3/2022, Ủy ban quốc gia về Chuyển đổi số đã có Quyết định số 27/QĐ-UBQGCĐS về Ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2022, trong đó có mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử đạt 50%.

Mặt khác, hành lang pháp lý cũng sẵn sàng, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 01/2022/TT-BCT hướng dẫn Nghị định 85/2021/NĐ-CP. Trong quý I và II/2022, Bộ đã làm việc với các doanh nghiệp gửi đề nghị cấp đăng ký cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử và sẵn sàng cung cấp dịch vụ trong tháng 6/2022.

Song song với việc hoàn thiện hành lang pháp lý, căn cứ cấp phép cho các doanh nghiệp, Bộ Công Thương đã phát triển hệ thống Trục phát triển hợp đồng điện tử quốc gia.

Hệ thống trục sẽ là nơi cung cấp thông tin xác thực hợp đồng toàn quốc cho bên thứ 3, đồng thời là nền tảng hỗ trợ, kết nối các tổ chức chứng thực hợp đồng điện tử được cấp đăng ký, kết nối với nhà cung cấp dịch vụ dấu thời gian, chữ ký số, định danh và xác thực đã được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép.

Hệ thống trục phát triển hợp đồng điện tử quốc gia sẽ đóng vai trò xây dựng, phát triển thị trường ứng dụng thực tế của hợp đồng điện tử, kết nối các nền tảng công nghệ, các hạ tầng số tin cậy của Chính phủ đến doanh nghiệp, tổ chức, người dùng thông qua các giao dịch thương mại.

Theo Báo mới.

Ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

Theo các đại biểu Quốc hội, việc không thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là hợp lý, bởi, ưu điểm của việc xử lý vi phạm bằng biện pháp hành chính là hồ sơ, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, chi phí thấp nhằm kịp thời ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Tiếp tục Chương trình làm việc kỳ họp thứ 3, sáng ngày 31/5, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.

Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành phương án không thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, một số ý kiến tán thành thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này và đề nghị quy định lộ trình thực hiện.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến của đa số đại biểu Quốc hội. Việc không thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là hợp lý, bởi, ưu điểm của việc xử lý vi phạm bằng biện pháp hành chính là hồ sơ, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, chi phí thấp nhằm kịp thời ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, biện pháp này không loại trừ quyền của các bên khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho hay, việc chuyển một số hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp để chỉ giải quyết theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự sẽ kéo dài thời gian, gây tốn kém chi phí, làm giảm sức thu hút và khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh. Hành vi xâm phạm quyền trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ không chỉ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của một hay một số tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến quyền lợi của người tiêu dùng, ảnh hưởng đến trật tự quản lý hành chính nhà nước và toàn xã hội.

Đại biểu Dương Tấn Quân (Đoàn Bà Rịa – Vũng Tàu) phát biểu tại Hội trường. Ảnh: TL.

Trong điều kiện hiện nay, nếu loại bỏ biện pháp xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền liên quan đến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí sẽ dẫn đến khoảng trống pháp luật trong việc kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, tăng thêm gánh nặng cho hệ thống Tòa án hiện đang quá tải, cũng như tạo thêm thách thức cho đương sự khi sử dụng biện pháp tố tụng dân sự.

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) cũng không yêu cầu hạn chế việc áp dụng biện pháp xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật của quốc gia thành viên mà thậm chí còn yêu cầu tăng cường các biện pháp xử lý bằng chế tài hình sự đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

“Việc xử lý hành chính không loại trừ quyền khởi kiện ra tòa theo thủ tục tố tụng dân sự nên vẫn bảo đảm quyền lợi của các bên khi có tranh chấp về sở hữu trí tuệ”- Chủ nhiệm Hoàng Thanh Tùng nói.

Đại biểu Nguyễn Văn Thi (Đoàn Bắc Giang) tán thành phương án không thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và giữ nguyên như Luật hiện hành. Đại biểu cho rằng, việc áp dụng biện pháp xử phạt hành chính đối với tất cả các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là hợp lý vì biện pháp xử lý hành chính, thủ tục đơn giản nhanh, kịp thời ngăn chặn các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ.

Theo đại biểu, việc này không những đảm bảo bảo vệ quyền của chủ sở hữu mà còn kịp thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đảm bảo trật tự quản lý hành chính. Đại biểu cho biết thêm, việc xử lý hành chính cũng không loại trừ quyền khởi kiện ra tòa theo thủ tục tố tụng dân sự nên vẫn đảm bảo được quyền của các bên có tranh chấp về sở hữu trí tuệ.

Theo đại biểu Dương Tấn Quân (Đoàn Bà Rịa – Vũng Tàu), việc xử lý hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng các biện pháp xử phạt vi phạm chính đã có những ưu điểm vượt trội so với việc giải quyết thủ tục tố tụng hình sự như trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật đã phân tích rất rõ. Theo đại biểu, tại Khoản 2, Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành cũng đã giao cho Chính phủ quy định cụ thể cái hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và thủ tục xử phạt.

Đại biểu Dương Tấn Quân cho rằng, quy định như vậy là linh hoạt, kịp thời, nhanh chóng và phù hợp với tình hình thực tế sự phát triển của xã hội

Tuy nhiên, đại biểu Thái Thị An Chung (Nghệ An) đề nghị, ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc thêm các quy định về hình thức xử lý vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả.

Tại Khoản 2, Điều 214 dự thảo Luật quy định: “Ngoài các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ”.

Theo đại biểu Thái Thị An Chung, quy định này sẽ dẫn đến chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định hiện hành về xử lý vi phạm hành chính. Bởi, các văn bản này đã quy định rõ các trường hợp áp dụng, các hình thức xử phạt như phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; và các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc tiêu hủy đối với hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì…

Mặt khác, nếu cho phép tiếp tục phân phối, sử dụng hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ như dự thảo luật sẽ không bảo đảm tính nghiêm minh trong xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, không bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Để góp phần hoàn thiện hơn dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, đại biểu Nguyễn Thị Lan (Đoàn TP. Hà Nội) đề nghị Quốc hội rà soát, nghiên cứu để xây dựng được một hệ thống cơ chế giám sát, kiểm soát mang tính liên ngành rõ ràng, không chồng chéo nhằm phòng, chống một cách hiệu quả, triệt để hơn các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ./.

Theo Báo mới.

Cảnh báo đa cấp biến tướng thông qua ứng dụng điện tử… chữa Covid-19

Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) cảnh báo người dân cẩn trọng trước thông tin quảng cáo về việc chữa Covid-19 qua ứng dụng điện tử Limbic Arc và InfoBoosts không hợp pháp tại Việt Nam.

Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng cho biết, vừa qua, đơn vị này đã ghi nhận các thông tin tài liệu trên mạng internet về việc một số tổ chức, cá nhân tổ chức mời gọi người dân sử dụng một ứng dụng điện tử có tên Limbic Arc hay InfoBoosts.

Ứng dụng này được các đối tượng giới thiệu là công nghệ năng lượng lượng tử và công nghệ chăm sóc sức khỏe chủ động của thời đại mới với nhiều tác dụng chữa bệnh, bao gồm cả công dụng đối với cả bệnh nhân mắc Covid-19.

Dấu hiệu kinh doanh đa cấp không có giấy chứng nhận hợp pháp của các đối tượng liên quan đến Ứng dụng điện tử Limbi Arc

Ngoài các công dụng trị bệnh, các đối tượng này giới thiệu những người tham gia mời gọi thêm các thành viên khác để được hưởng hoa hồng lợi ích theo mô hình đa cấp.

Theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, các đối tượng giới thiệu về ứng dụng điện tử Limbi Arc trên mạng xã hội có dấu hiệu thổi phồng công dụng chữa bệnh.

Tính đến thời điểm hiện nay, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng chưa cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp, tổ chức nào có tên Limbi Arc hay Infoboost nêu trên theo quy định của Nghị định 40/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp.

Vì vậy, các tổ chức cá nhân trên có dấu hiệu hiệu kinh doanh theo phương thức đa cấp khi chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp và có thể bị xử lý hình sự với mức phạt tới 5 tỷ đồng hoặc 5 năm tù giam.

Do đó, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng cảnh báo người dân không nên tham gia sử dụng và mời gọi người khác tham gia sử dụng những sản phẩm, ứng dụng theo truyền miệng để chữa bệnh mà không có cơ sở khoa học rõ ràng để tránh gặp thiệt hại về sức khỏe, mất cơ hội điều trị bệnh đúng đắn. Bên cạnh đó, người dân cũng không nên tham gia vào các hoạt động có dấu hiệu kinh doanh theo phương thức đa cấp trái phép nêu trên để hạn chế tối đa các rủi ro, thiệt hại về vật chất và pháp lý.

Theo Baomoi.com

Sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 Luật kịp thời hỗ trợ sản xuất, kinh doanh

Vừa qua, tiếp tục chương trình của Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất, Quốc hội đã nghe Tờ trình và báo cáo Thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự.

Toàn cảnh phiên họp của Quốc hội 

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về dự án Luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 Luật xuất phát từ yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng, hoàn thiện pháp luật nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội, nhất là trong điều kiện vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp, việc sửa đổi, bổ sung lần này cũng nhằm đáp ứng yêu cầu phát sinh từ thực tiễn liên quan tới hoạt động đầu tư, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp; công tác bảo vệ an ninh mạng; thi hành án dân sự; thực hiện chính sách xã hội hóa đầu tư vào hệ thống truyền tải điện quốc gia; khuyến khích đầu tư sản xuất và sử dụng phương tiện giao thông thân thiện với môi trường; tăng cường phân quyền đồng thời bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ nguồn lực của đất nước.

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định của 08 luật bao gồm 10 Điều, trong đó, có 08 Điều sửa đổi, bổ sung một số quy định của 08 luật hiện hành, 01 điều quy định về điều khoản chuyển tiếp và 01 Điều quy định về hiệu lực thi hành.

Trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh khẳng định, đa số ý kiến các Ủy ban được phân công thẩm tra dự án đều tán thành về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung dự án Luật nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách và quy trình, thủ tục để thúc đẩy đầu tư, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; thể chế hóa các văn kiện của Đảng và thực hiện các nghị quyết của Quốc hội.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long trình bày Tờ chính của Chính phủ

Cụ thể, đối với Luật Đầu tư công (Điều 1 dự thảo Luật), ngoài việc nhất trí việc sửa đổi, bổ sung, đa số ý kiến Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội – cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra về nội dung cho rằng, cần có quy định cụ thể về trách nhiệm các chủ thể được phân quyền trong việc bảo đảm tính hiệu quả sử dụng nguồn lực, tính tuân thủ, công khai, minh bạch khi tổ chức thực hiện.

Có ý kiến đề nghị cân nhắc, vì quy định như hiện nay nhằm mục đích kiểm soát chặt chẽ việc vay vốn nước ngoài, bảo đảm an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia; đồng thời, liên quan đến điều ước quốc tế giữa Nhà nước, Chính phủ Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, cần kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm uy tín của Việt Nam… Do vậy, Chính phủ cần đánh giá tác động cụ thể.

Đối với dự án nhóm A của địa phương sử dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, đa số ý kiến đề nghị chuyển thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tương tự như các dự án nhóm B, C. Ngoài ra, cũng có ý kiến nhất trí với đề nghị của Chính phủ.

Về thẩm quyền điều chỉnh chủ trương đầu tư, Ủy ban Kinh tế đề nghị quy định rõ việc phân cấp thẩm quyền điều chỉnh chỉ áp dụng trong trường hợp không làm thay đổi phân loại dự án; trường hợp làm thay đổi phân loại dự án, phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến trước khi điều chỉnh.

Đối với Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (Điều 7 dự thảo Luật), đa số ý kiến Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội đồng ý với sự cần thiết sửa đổi nội dung này của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo Thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 luật.

Ủy ban Tài chính, Ngân sách cơ bản nhất trí với sự cần thiết ban hành chính sách này; và nhất trí với hướng thiết kế các mức thuế suất theo 2 bước như đề xuất của Chính phủ. Bên cạnh đó, có một số ý kiến đề nghị chỉ áp dụng cho thời hạn khoảng 2-3 năm, dự kiến trong năm 2022, doanh nghiệp sản xuất trong nước cơ bản đã hoàn thiện được hệ thống hạ tầng và sản xuất trong nước khoảng 9.500 xe và việc giảm thuế sâu, kéo dài trong nhiều năm sẽ tác động tiêu cực ngay đến các nhà sản xuất, lắp ráp xe ô tô trong nước đối với xe chạy bằng xăng dầu khi không có đủ thời gian, công nghệ và nguồn lực để chuyển đổi kịp thời sang dòng xe điện chạy pin.

Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cũng đề nghị Chính phủ cần cân nhắc về thời điểm sửa đổi và đánh giá tác động, phân tích sâu hơn nhằm đạt mục tiêu chính sách; đồng thời cần đẩy nhanh tiến độ sửa đổi toàn diện Luật Thuế TTĐB, trình Quốc hội xem xét, quyết định trong năm 2022, để có thể đồng thời điều chỉnh tăng thuế suất đối với một số mặt hàng không khuyến khích và cần hạn chế tiêu dùng, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cũng cho biết, về các Luật: Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Điều 2 dự thảo Luật); Luật Đầu tư (Điều 3 dự thảo Luật); Luật Đấu thầu (Điều 4 dự thảo Luật); Luật Doanh nghiệp (Điều 6 dự thảo Luật) đã được Ủy ban Kinh tế – cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra về nội dung cơ bản tán thành việc sửa đổi, bổ sung theo đề nghị của các cơ quan của Chính phủ.

Đối với Luật Điện lực (Điều 5 dự thảo Luật), đa số ý kiến Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường – cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra về nội dung cũng đều tán thành với quan điểm trước mắt cần sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến truyền tải điện tại Luật Điện lực. Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung Luật cần bảo đảm thận trọng, chặt chẽ. Bên cạnh đó, phải đẩy nhanh tiến độ sửa đổi tổng thể Luật Điện lực, bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các quy định có liên quan trong Luật.

Đối với Luật Thi hành án dân sự (Điều 8 dự thảo Luật), Ủy ban Tư pháp – cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra về nội dung tán thành với dự thảo Luật về các nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56 và Điều 57 Luật Thi hành án dân sự đã tiếp thu, chỉnh lý theo các ý kiến tại Thông báo số 558/TB-TTKQH và ý kiến thẩm tra của Ủy ban Tư pháp…

Theo Baomoi.com

Cho tặng nhà đất phải làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất

Câu hỏi: Ông bà ngoại tôi là chủ sở hữu một căn nhà gắn liền với đất đã được cấp chủ quyền. Tháng 3/2012, ông bà ngoại tôi có ra phòng công chứng làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất cho mẹ tôi. Tháng 5/2012, ông tôi bị bệnh mất, giờ chỉ còn bà tôi sống cùng chúng tôi. Đến tháng 19/2012, mẹ tôi đột ngột qua đời mà chưa làm thủ tục sang tên tài sản đó.

Như vậy, gia đình tôi có được hưởng thừa kế từ tài sản của ông bà ngoại đã cho mẹ tôi không? Trường hợp nhà đất này của gia đình tôi sẽ được giải quyết thế nào? Bà N.T. Lan

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 459 Bộ luật Dân sự, “tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật”.

Theo đó, khoản 1 Điều 95 Luật Đất đai quy định: “Đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người được giao đất để quản lý”. Đồng thời, Điều 503 Bộ luật Dân sự quy định về hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất thì việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật Đất đai.

Vì mẹ bà chưa làm thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng đất đối với quyền sử đất được ông bà tặng cho nên căn cứ theo các quy định nêu trên thì Hợp đồng tặng cho chưa có hiệu lực và mẹ bà chưa có quyền sở hữu đối với quyền sử dụng đất thửa đất đó và như vậy đây không được coi là di sản thừa kế của mẹ bà.

Như vậy, có thể căn cứ vào quy định tại khoản 3, Điều 422 Bộ luật dân sự để xác định Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông bà ngoại và mẹ bà đã chấm dứt. Quyền sử dụng đất của thửa đất đó trở lại là tài sản chung của ông bà ngoại của bà.

Do ông ngoại đã mất nên ½ giá trị quyền sử dụng đất là tài sản thừa kế của ông ngoại, được chia cho các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật và ½ giá trị quyền sử dụng đất là tài sản của bà ngoại bà.

Để giải quyết vấn đề một cách tốt nhất, theo tôi, các diện thừa kế theo pháp luật của ông ngoại bà nên thỏa thuận để bà ngoại được hưởng toàn bộ tài sản thừa kế là ½ giá trị quyền sử dụng đất của ông ngoại để bà ngoại có toàn quyền sử dụng đối với thửa đất đó. Sau đó, bà ngoại làm thủ tục tặng cho lại con cháu theo đúng quy định của pháp luật.

Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Ủy quyền cho người thứ ba?

Câu hỏi: Năm 2000, mẹ tôi lập văn bản ủy quyền, có nội dung mẹ ủy quyền cho anh tôi (N.V.B.) thay bà giải quyết tranh chấp liên quan đến cây cối trên mảnh đất do bà đứng tên (đây là tài sản chung của cha mẹ tôi, cha tôi chết năm 1998). Nay anh tôi đến UBND xã lập giấy ủy quyền cho người khác có nội dung được thay anh tôi quản lý sử dụng quyền sử dụng đất của mẹ tôi (mẹ tôi chết năm 2005), việc ủy quyền trên có hợp pháp không? Xin được luật sư hướng dẫn. (Anh Định – Đội Cấn, Hà Nội)

Luật sư xin tư vấn như sau: Theo thông tin bạn cung cấp thể hiện quyền sử dụng đất là tài sản chung của cha mẹ bạn, do có tranh chấp liên quan đến cây trồng trên đất nên bà đã ủy quyền cho anh của bạn thay bà giải quyết các vấn đề liên quan đến sự việc trên. Hiện nay người anh sử dụng văn bản ủy quyền giữa mẹ và anh của anh để ủy quyền cho người khác có nội dung khác với nội dung mà bà đã ủy quyền như vậy là không đúng ý chí của bà, mặt khác trong văn bản ủy quyền không thể hiện việc cho ủy quyền lại.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành, thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 1 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Về việc chấm dứt việc ủy quyền được Bộ luật Dân sự quy định như sau: hợp đồng đã được hoàn thành; theo thỏa thuận của các bên; cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện…

Như vậy, người anh sử dụng văn bản ủy quyền giữa mẹ và anh của anh lập năm 2000 để lập giấy ủy quyền lại cho người khác là không phù hợp với quy định pháp luật dân sự.

Để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, anh có thể khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố văn bản ủy quyền trên vô hiệu. Vì cha mẹ anh chết không để lại di chúc nên vấn đề thừa kế được chia theo pháp luật, anh có thể thỏa thuận với các đồng thừa kế khác về việc phân chia di sản thừa kế, hoặc khởi kiện tòa án ở địa phương có đăng ký quyền sử dụng đất để giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc ủy quyền cho người thứ ba .Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Vì sao ông Hồ Quang Cua gặp khó khi bảo vệ thương hiệu “Gạo ngon nhất thế giới”?

“Cha đẻ” của giống lúa ST25 muốn bảo hộ danh hiệu “Gạo ngon nhất thế giới” tại Việt Nam nhưng không được. Vì sao ông Hồ Quang Cua gặp khó khăn trong việc bảo vệ tài sản thương hiệu của mình?

Chưa đủ căn cứ bảo hộ gạo ST25, “Gạo ông Cua”

Thông tin từ Tổng cục Quản lý thị trường (QLTT) cho biết, gia đình ông Hồ Quang Cua, “cha đẻ” của giống lúa ST24, ST25 đã có đơn gửi đến Tổng cục đề nghị lực lượng này hỗ trợ bảo vệ thương hiệu giống lúa và gạo ST24, ST25 tại thị trường Việt Nam.

Ngay sau khi nhận được đơn đề nghị của gia đình ông Cua, Tổng cục QLTT đã có văn bản chỉ đạo Cục QLTT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động rà soát, thẩm tra, xác minh các nội dung doanh nghiệp (DN) phản ánh tại hồ sơ đối với các cơ sở bị cho là vi phạm trên địa bàn quản lý của Cục QLTT các tỉnh, thành phố.

Tổng cục đặc biệt lưu ý, đối với các hành vi xâm phạm nhãn hiệu, gian lận nguồn gốc xuất xứ, chỉ dẫn địa lý, bao bì, tem, nhãn hàng hóa, đề nghị Cục QLTT các tỉnh, thành phố kịp thời kiểm tra, xử lý vi phạm theo thẩm quyền. Bên cạnh đó, đối với hành vi xâm phạm quyền về giống cây trồng (giống lúa, gạo) thuộc phạm vi quản lý của Bộ/Sở NN&PTNT, Tổng cục cũng yêu cầu Cục QLTT các tỉnh, thành phố phối hợp với Bộ/Sở NN&PTNT (khi có đề nghị) để kiểm tra, xử lý vi phạm theo thẩm quyền.

Tuy nhiên, theo đại diện Tổng cục QLTT, do chưa nắm rõ quy định của pháp luật nên gia đình ông Cua cũng chưa có hồ sơ tự công bố chất lượng sản phẩm theo quy định. Việc sản xuất, kinh doanh các sản phẩm gạo mang nhãn hiệu “Gạo ông Cua”, “Gạo ST” chưa có Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu gạo cũng như hồ sơ tự công bố dẫn đến tình trạng chưa đủ căn cứ để lực lượng QLTT xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với các nhãn hiệu này.

Tổng cục QLTT đã trao đổi, hướng dẫn đại diện gia đình ông Cua tiến hành hoàn thiện hồ sơ để bảo hộ cho 2 nhãn hiệu nói trên, cũng như hoàn thiện thủ tục về chất lượng sản phẩm nhằm góp phần phòng chống việc làm giả, làm nhái nhãn hiệu gạo nổi tiếng này.

Qua đây, Tổng cục QLTT khuyến cáo, DN cần chủ động tìm hiểu các quy định pháp luật, chủ động xây dựng các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và phối hợp chặt chẽ với các hiệp hội, thương vụ, Cục SHTT, các bộ, ngành liên quan để được hỗ trợ thủ tục cần thiết trước, trong và sau quá trình dự thi, tham gia kinh doanh tại thị trường quốc tế nhằm bảo hộ thương hiệu tại nước ngoài.

Cục Sở hữu trí tuệ nói gì?

Vụ việc có nhiều DN ở Hoa Kỳ, Úc đăng ký sở hữu nhãn hiệu gạo ST25 đã xảy ra cách đây vài tháng. Ngay sau đó ông Cua đã có các biện pháp bảo hộ sản phẩm của mình ở các thị trường này. Đến thời điểm này, DN Hồ Quang Trí (con trai ông Cua) mới chính thức đề nghị can thiệp bảo hộ cho sản phẩm của mình tại thị trường Việt Nam.

Theo gia đình ông Hồ Quang Cua, bao bì của một số sản phẩm gạo ST25 do các DN khác sản xuất đang lưu hành trên thị trường có sử dụng dòng chữ mang ý nghĩa “The World’s Best Rice” (Gạo ngon nhất thế giới) mà Tổ chức lúa gạo toàn cầu (TRT) đã cấp cho sản phẩm gạo của gia đình ông. Đây cũng là cụm từ gia đình ông đã đăng ký độc quyền tại Mỹ.

Tuy nhiên, đại diện Tổng cục QLTT cho biết, theo quy định của Việt Nam, cụm từ này không thể được bảo hộ độc quyền trong nước dẫn đến khó khăn cho lực lượng QLTT trong việc xử lý các đối tượng mà gia đình ông Cua cho là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu sản phẩm của gia đình ông.

Trả lời PLVN về việc tại sao không thể bảo hộ danh xưng “Gạo ngon nhất thế giới” khi TRT đã chứng nhận độc quyền cho gạo ST25 của ông Cua, ông Nguyễn Văn Bảy, Phó Cục trưởng Cục SHTT cho biết, theo Điều 47 Luật SHTT, những cụm từ mang tính mô tả tính chất, chất lượng của sản phẩm sẽ không thể được đăng ký nhãn hiệu. Quy định này không chỉ có ở Việt Nam mà còn xuất hiện ở các quốc gia khác trên toàn thế giới.

Được biết, hiện nay, DN Hồ Quang Trí mới có Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu gạo cho các sản phẩm mang nhãn hiệu “SR SOC RICE”. Hai nhãn hiệu khác mang nhãn hiệu “Gạo ông Cua”, “Gạo ST” đã nộp hồ sơ đăng ký tại Cục SHTT và đang trong quá trình chờ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu.

Từ trường hợp này, Tổng cục QLTT khuyến nghị, DN cần chủ động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Cục SHTT (Bộ Khoa học và Công nghệ) và hoàn thiện hồ sơ tự công bố chất lượng sản phẩm của chính mình nhằm tránh những tranh chấp rất phổ biến hiện nay. Đây cũng là cách để bảo vệ thành quả, sức lao động và chất xám, bảo vệ thành tựu của DN nói riêng và quốc gia nói chung.

Theo Baomoi.com

Định nghĩa mới nhất về ca bệnh COVID-19: Thế nào được coi là F0?

Trong hướng dẫn mới nhất ngày 29/12, Bộ Y tế đưa ra các định nghĩa điều chỉnh về ca bệnh COVID-19. Trong đó người được coi là F0 khi có 1 trong 4 yếu tố dịch tễ…

Bộ Y tế ngày 29/12 đã có công văn gửi giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trong cả nước và Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ về việc điều chỉnh định nghĩa ca bệnh COVID-19.

Theo Bộ Y tế, hiện nay, tình hình dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới với các biến chủng có khả năng lây lan nhanh và gây nguy hiểm như Delta và Omicron.

Tại Việt Nam, dịch bệnh cơ bản đang được kiểm soát, tuy nhiên số ca mắc mới có xu hướng tăng tại một số tỉnh, thành phố; để tiếp tục chủ động tăng cường giám sát, phát hiện sớm các trường hợp mắc, quản lý hiệu quả các ca bệnh COVID-19 trong bối cảnh cả nước đang thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, phù hợp với điều kiện và nguồn lực của các địa phương, Bộ Y tế yêu cầu Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế tổ chức thực hiện giám sát bệnh COVID-19 với các nhóm đối tượng, cụ thể:

Người được coi là F0 khi có kết quả xét nghiệm dương tính với virus SARS-CoV-2 bằng phương pháp PCR.

Ca bệnh giám sát (ca bệnh nghi ngờ) là một trong số các trường hợp

– Là người tiếp xúc gần (F1) và có ít nhất 2 trong số các biểu hiện lâm sàng như sốt; ho; đau họng; chảy nước mũi, nghẹt mũi; đau người, mệt mỏi, ớn lạnh; giảm hoặc mất vị giác; giám hoặc mất khứu giác; đau, nhức đầu; tiêu chảy; khó thở; viêm đường hô hấp.

– Là người có yếu tố dịch tễ (không bao gồm F1) và có có ít nhất 2 trong số các biểu hiện lâm sàng như trên.

– Là người có kết quả xét nghiệm nhanh kháng nguyên dương tính với virus SARS-CoV-2 ().

– Người có yếu tố dịch tễ (không bao gồm F1) là người có mặt trên cùng phương tiện giao thông hoặc cùng địa điểm, sự kiện, nơi làm việc, lớp học… với ca bệnh xác định (F0) đang trong thời kỳ lây truyền.

– Người ở, đến từ khu vực ổ dịch đang hoạt động.

Ca bệnh xác định (F0) là một trong số các trường hợp sau:

– Là người có kết quả xét nghiệm dương tính với virus SARS-CoV-2 bằng phương pháp phát hiện vật liệu di truyền của virus (PCR).

– Là người tiếp xúc gần (F1) và có kết quả xét nghiệm nhanh kháng nguyên dương tính với virus SARS-CoV-2.

– Là người có biểu hiện lâm sàng nghĩ mắc COVID-19 (ca bệnh nghi ngờ và có kết quả xét nghiệm nhanh kháng nguyên dương tính với vi rút SARS-CoV-2 và có yếu tố dịch tễ (không bao gồm F1).

– Là người có kết quả xét nghiệm nhanh kháng nguyên dương tính 2 lần liên tiếp (xét nghiệm lần 2 trong vòng 8 giờ kể từ khi có kết quả xét nghiệm lần 1 với virus SARS-CoV-2 và có yếu tố dịch tễ (không bao gồm F1).

Sinh phẩm xét nghiệm nhanh kháng nguyên với virus SARS-CoV-2 phải thuộc danh mục được Bộ Y tế cấp phép. Xét nghiệm nhanh kháng nguyên do nhân viên y tế thực hiện hoặc người nghi nhiễm thực hiện dưới sự giám sát của nhân viên y tế bằng ít nhất một trong các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp qua các phương tiện từ xa.

Người tiếp xúc gần (F1) là một trong số các trường hợp sau:

– Người có tiếp xúc cơ thể trực tiếp (bắt tay, ôm, hôn, tiếp xúc trực tiếp dưới da, cơ thể…) với F0 trong thời kỳ lây truyền của F0.

– Người đeo khẩu trang có tiếp xúc, giao tiếp trong vòng 2 mét hoặc trong cùng không gian hẹp, kín và tối thiểu trong thời gian 15 phút với ca bệnh xác định (F0) khi đang trong thời kỳ lây truyền của F0.

– Người không đeo khẩu trang có tiếp xúc, giao tiếp gần trong vòng 2 mét hoặc ở trong cùng không gian hẹp, kín với F0 trong thời kỳ lây truyền của F0.

– Người trực tiếp chăm sóc, khám và điều trị ca bệnh xác định (F0) khi đang trong thời kỳ lây truyền của F0 mà không sử dụng đầy đủ các phương tiện phòng hộ cá nhân (PPE).

Theo Bộ Y tế, thời kỳ lây truyền của ca bệnh xác định (F0) được tính từ 2 ngày trước khi khởi phát (đối với ca bệnh xác định không có triệu chứng thì thời kỳ lây truyền được tính từ 2 ngày trước ngày được lấy mẫu có kết quả xét nghiệm dương tính) cho đến khi kết quả xét nghiệm âm tính hoặc giá trị CT>30.

Theo Baomoi.com

Đẩy nhanh tốc độ thẩm định đơn đăng ký sáng chế và nhãn hiệu

Theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), dù bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19 và giãn cách xã hội, nhưng lượng đơn đăng ký bảo hộ độc quyền sáng chế nộp vào Cục vẫn tăng 8,3%.

Cán bộ Cục Sở hữu trí tuệ giải quyết đơn sở hữu công nghiệp.

Kết quả xử lý đơn sở hữu công nghiệp tăng 5,4% so năm 2020, trong đó kết quả xử lý đơn nhãn hiệu quốc gia tăng 8,2%. Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về sở hữu công nghiệp tăng gần 50% và các loại đơn, yêu cầu liên quan đến văn bằng bảo hộ tăng trên 30% so với năm 2020.

Mặc dù kết quả xử lý đơn ngày càng được cải thiện, nhưng tình trạng tồn đọng đơn đăng ký sở hữu công nghiệp vẫn còn nhiều. Để đẩy nhanh công tác xử lý đơn, Cục Sở hữu trí tuệ đã xây dựng và phê duyệt “Giải pháp giải quyết tình trạng tồn đọng đơn đăng ký nhãn hiệu” và “Giải pháp xử lý đơn đăng ký sáng chế giai đoạn 2021-2025”, bắt đầu áp dụng từ đầu năm 2022.

Theo đó, để giải quyết tình trạng tồn đọng đơn đăng ký nhãn hiệu, Cục sẽ tập trung nâng cao năng suất trong công đoạn tra cứu phục vụ thẩm định nội dung bằng việc tách công việc này ra thành một công đoạn độc lập; tuyển dụng và đào tạo các tra cứu viên để thực hiện công đoạn tra cứu, đồng thời tận dụng kinh nghiệm của các thẩm định viên để tập trung thực hiện đánh giá khả năng bảo hộ của nhãn hiệu dựa trên kết quả tra cứu đã có sẵn. Phấn đấu tình trạng tồn đơn đăng ký nhãn hiệu cơ bản được giải quyết vào năm 2024.

Đối với giải pháp xử lý đơn đăng ký sáng chế, Cục Sở hữu trí tuệ đề ra mục tiêu cho giai đoạn 2022-2023. Theo đó mỗi năm, năng lực thẩm định tăng 20-25%. Đến năm 2025 cơ bản đáp ứng thời hạn thẩm định theo quy định; rút ngắn thời gian thẩm định đối với đơn trong nước.

Để thực hiện được các mục tiêu, các nhiệm vụ chính sẽ triển khai gồm: Tuyển dụng, đào tạo thẩm định viên; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xã hội hóa một số công đoạn trong quy trình thẩm định để huy động các nguồn lực bên ngoài; chuẩn hóa dữ liệu, nâng cấp hệ thống quản trị đơn theo hướng chuyển đổi số. Từ năm 2022, xây dựng cơ chế tự chủ cho nhiệm vụ thẩm định đơn nhằm nâng cao năng suất, chất lượng trong thẩm định đơn đăng ký bảo hộ độc quyền sáng chế.

Theo Baomoi.com