Hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Bạn đọc Nguyễn Thanh Vân ở phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội, hỏi: Đề nghị tòa soạn cho biết pháp luật quy định như thế nào về hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng?

Luật sư xin tư vấn như sau:

Điều 9, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định rõ nội dung hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng như sau:

1. Ký kết và thực hiện hợp đồng, thỏa thuận liên quan đến việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

2. Tìm kiếm, phát triển thị trường lao động ở nước ngoài; cung cấp thông tin, quảng cáo, tư vấn về cơ hội việc làm ở nước ngoài.

3. Chuẩn bị nguồn lao động và tuyển chọn người lao động.

4. Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ, giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài.

5. Quản lý người lao động; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

6. Thực hiện chế độ, chính sách đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

7. Thanh lý hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

8. Hỗ trợ giới thiệu việc làm cho người lao động sau khi về nước.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Quy định về chế độ thai sản đối với người lao động

Anh Nguyễn Văn Hùng ở xã Hải An (Hải Hậu, Nam Định), hỏi: Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được quy định như thế nào trong Luật bảo hiểm xã hội?

Luật sư xin tư vấn như sau:

Khoản 2 Điều 34 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định, lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản, thời gian nghỉ như sau:

– 5 ngày làm việc;

– 7 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi;

Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. 

– Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh 3 trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 3 ngày làm việc;

– Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc.

Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định nêu trên được thực hiện trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến quy định về chế độ thai sản đối với người lao động. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Hỗ trợ học nghề người lao động phải đáp ứng đủ những điều kiện gì?

Ông Bùi Văn Dũng (Thạch Thất, Hà Nội): Xin hỏi, để được hỗ trợ học nghề người lao động phải đáp ứng đủ những điều kiện gì?

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo quy định tại Điều 55 Luật Việc làm thì người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hỗ trợ học nghề khi có đủ các điều kiện sau đây:

– Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau đây: Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;

– Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về lao động thành lập trong thời thời hạn 3 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

– Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:

+ Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;

+ Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;

+ Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

+ Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù;

+ Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;

+ Chết.

– Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 9 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung liên quan đến những điều kiện để được hỗ trợ học nghề đối với người lao động. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Lao động nghỉ hưu trước tuổi được hỗ trợ thêm lương?

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vừa có tờ trình về việc sửa đổi chính sách đối với người lao động dôi dư khi thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Theo đó, đối với người lao động dôi dư được nghỉ hưu trước tuổi thì được hỗ trợ thêm 0,4 hoặc 0,2 tháng lương tối thiểu vùng bình quân cho mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội. Đối với người lao động dôi dư không đủ điều kiện hưởng chế độ nghỉ hưởng lương hưu trước tuổi trong doanh nghiệp thực hiện sắp xếp lại theo hình thức cổ phần hóa, bán, chuyển thành trách nhiệm hữu hạn hai thành viên, chuyển thành đơn vị sự nghiệp thì được hỗ trợ 0,05 tháng lương tối thiểu vùng bình quân cho mỗi năm làm việc tại doanh nghiệp.

Đề xuất người lao động dôi dư nghỉ hưu trước tuổi được hỗ trợ thêm 0,4 hoặc 0,2 tháng lương tối thiểu vùng bình quân cho mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội. Ảnh minh họa

Trường hợp người lao động dôi dư không đủ điều kiện hưởng chế độ nghỉ hưởng lương hưu trước tuổi trong doanh nghiệp thực hiện sắp xếp lại theo hình thức giải thể phá sản thì được hỗ trợ 0,2 tháng tiền lương cho mỗi năm làm việc tại doanh nghiệp.

Đối với người lao động dôi dư được tuyển dụng lần cuối cùng từ ngày 21/4/1998 hoặc từ ngày 26/4/2002 trở về sau: Người lao động dôi dư thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động và được hưởng trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm theo quy định tại Bộ luật Lao động.

Theo Baomoi.com

Xét thăng hạng viên chức giảng dạy đại học công lập dựa theo quy định nào?

Bạn Hoàng Xuân Bình, địa chỉ tại TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên hỏi: Tiêu chuẩn, điều kiện quy định viên chức giảng dạy trong cơ sở giáo dục đại học công lập được đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giảng viên chính (hạng II), mã số V.07.01.02 quy định ra sao?

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo Thông tư số 31/2021/TT-BGDĐT ngày 10/11/2021 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về tiêu chuẩn, điều kiện thi, xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các trường cao đẳng sư phạm, cơ sở giáo dục đại học công lập.

Trong đó quy định viên chức giảng dạy trong cơ sở giáo dục đại học công lập được đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giảng viên chính (hạng II), mã số V.07.01.02 khi có các điều kiện sau:

– Cơ sở giáo dục đại học công lập có nhu cầu và được cấp có thẩm quyền cử tham dự kỳ thi hoặc xét thăng hạng.

– Đang giữ chức danh nghề nghiệp giảng viên (hạng III), mã số V.07.01.03.

– Được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên trong năm công tác liền kề trước năm dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giảng viên chính (hạng II), mã số V.07.01.02;

(Hiện hành quy định hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian 03 năm liên tục tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ dự thi/xét).

– Có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp tốt;

– Không trong thời hạn xử lý kỷ luật, không trong thời gian thực hiện các quy định liên quan đến kỷ luật viên chức quy định của pháp luật.

– Có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đảm nhận nhiệm vụ chức danh nghề nghiệp giảng viên chính (hạng II), mã số V.07.01.02;…

Thông tư 31/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực kể từ ngày 26/12/2021 và thay thế Thông tư 18/2017/TT-BGDĐT ngày 21/7/2017, Thông tư 08/2018/TT-BGDĐT ngày 12/3/2018.

Trên đây là nội dung liên quan đến điều kiện để xét thăng hạng viên chức giảng dạy đại học công lập. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

6 điểm cần lưu ý khi thử việc theo Bộ luật Lao động 2019

Hiện nay, rất nhiều người lao động bị mất việc sau ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 đang dần trở lại guồng quay tìm kiếm việc làm mới.

Sau đây là 6 lưu ý trong giai đoạn thử việc mà NLĐ cần nắm.

Thỏa thuận về thử việc trong hợp đồng

Người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận về vấn đề thử việc, quyền và nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Khoản 1, khoản 4 Điều 24 Bộ luật Lao động 2019 đã quy định có thể thỏa thuận thử việc bằng 2 hình thức:

– Thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động;

– Giao kết hợp đồng thử việc.

Tuy nhiên, không áp dụng thử việc đối với người lao động giao kết hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng.

Nội dung của hợp đồng thử việc bao gồm:

– Tên, địa chỉ của người sử dụng lao động và họ tên, chức danh của người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử dụng lao động;

– Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú, số thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người giao kết hợp đồng lao động bên phía người lao động;

– Công việc và địa điểm làm việc;

– Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

– Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động.

(Căn cứ Điều 21, khoản 2 Điều 24 Bộ luật Lao động 2019 )

Hủy bỏ thỏa thuận thử việc như thế nào?

Khoản 2 Điều 27 Bộ luật Lao động 2019 đã quy định về hủy bỏ thỏa thuận thử việc như sau: Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường.

Thời gian thử việc

Thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc một lần đối với một công việc và bảo đảm điều kiện sau đây:

– Không quá 180 ngày đối với: công việc của người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp , Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp ;

– Không quá 60 ngày đối với: công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;

– Không quá 30 ngày đối với: công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ;

– Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác.

(Điều 25 Bộ luật Lao động 2019 quy định)

Tiền lương thử việc

Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.

(Căn cứ điều 26 Bộ luật Lao động 2019 )

Bảo hiểm xã hội trong thời gian thử việc

Theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014 tại khoản 1 Điều 2 quy định người lao động là công dân nước Việt Nam thuộc các đối tượng bắt buộc tham gia BHXH gồm có:

– Người làm việc có ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hay xác định thời thời gian.

– Người thuộc diện hợp đồng lao động theo mùa vụ hay công việc có thời hạn đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, hợp đồng được ký kết giữa người sử dụng – người đại diện pháp luật của người dưới 15 tuổi.

– Người làm việc có thời hạn từ 1 tháng đến 3 tháng theo hợp đồng lao động.

Như vậy, người lao động ký kết hợp đồng thử việc không phải BHXH bắt buộc.

Tuy nhiên, đối với người lao động có thời gian thử việc ghi trong hợp đồng lao động mà hợp đồng đó thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, thì cả người sử dụng lao động và người lao động phải đóng BHXH bắt buộc cho cả thời gian thử việc.

(Tham khảo Công văn 2447/LĐTBXH-BHXH ngày 26/7/2011)

Kết thúc thời gian thử việc

Điều 27 Bộ luật Lao động 2019 quy định trách nhiệm của các bên khi kết thúc thời gian thử việc như sau:

Khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải thông báo kết quả thử việc cho người lao động.

Trường hợp thử việc đạt yêu cầu:

– Người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết đối với trường hợp thỏa thuận thử việc trong hợp đồng lao động.

– Giao kết hợp đồng lao động đối với trường hợp giao kết hợp đồng thử việc.

Trường hợp thử việc không đạt yêu cầu: chấm dứt hợp đồng lao động đã giao kết hoặc hợp đồng thử việc.

Theo Baomoi.com

Làm việc bán thời gian có phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc?

Câu hỏi: Tôi làm việc bán thời gian cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Tôi và Công ty có ký hợp đồng, trong đó thỏa thuận mức lương cố định hằng tháng và các khoản hỗ trợ như: xăng xe, thù lao theo doanh số… nhưng lại không có nội dung về tham gia bảo hiểm xã hội. Xin hỏi, trường hợp như tôi có thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không? Anh Trần Hoài Nam (Đống Đa, Hà Nội)

Người lao động tìm hiểu thông tin tại Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội 

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa đơn vị với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng (thực hiện từ ngày 1/1/2018).

Như vậy, bạn có thể căn cứ vào loại hợp đồng lao động ký kết với Công ty để biết mình có thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội theo Luật hay không.

Trên đây là nội dung liên quan đến nội dung làm việc bán thời gian có phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hay không. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tạm dừng tuyển chọn lao động đi Hàn Quốc với 10 huyện, thị xã

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vừa thông báo tạm dừng tuyển chọn lao động đi Hàn Quốc với 10 huyện, thành phố của 5 tỉnh năm 2021.

Việc tạm dừng tuyển chọn lao động tại một số địa phương căn cứ theo Bản ghi nhớ về Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài (EPS) với Hàn Quốc và mục tiêu, lộ trình giảm lao động cư trú bất hợp pháp giai đoạn 2020-2022. Đây là các địa phương có tỷ lệ lao động hết hạn hợp đồng không về nước đúng hạn từ 28% trở lên và có số lượng lao động cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc từ 53 người trở lên.

10 huyện, thành phố, thị xã của 5 tỉnh phải tạm dừng tuyển chọn lao động đi Hàn Quốc năm 2021 gồm: Huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; huyện Đông Sơn, huyện Hoằng Hóa, TP Thanh Hóa (tỉnh Thanh Hóa); huyện Nghi Lộc, huyện Nam Đàn, thị xã Cửa Lò (tỉnh Nghệ An); huyện Nghi Xuân, huyện Kỳ Anh (tỉnh Hà Tĩnh); huyện Bố Trạch (tỉnh Quảng Bình).

Theo Baomoi.com

Nếu dạy thêm có đăng ký và đóng thuế như những ngành nghề khác…

Dạy học thêm vẫn là câu chuyện cũ nhưng cần có cách nhìn mới, đa chiều hơn về vấn đề này để đi học thêm vì kiến thức chứ không phải vì người dạy.

Trong phần tranh luận tại phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ GD&ĐT sáng 11/11, nhiều ý kiến của các Đại biểu Quốc hội về vấn đề dạy thêm, học thêm.

Trả lời trước nghị trường, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho biết, nếu dạy thêm ngoài giờ, ngoài nhà trường mà việc dạy thêm đáp ứng các nhu cầu đó thì không thể cấm được.

Còn dạy thêm, học thêm mà giáo viên trực tiếp dạy cho học sinh, nhưng lại bớt nội dung chính thức mới là điều lưu ý.

Ngoài ra, Bộ trưởng cũng thông tin thêm, năm 2016 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã bỏ dạy thêm ra khỏi ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Khi rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, Bộ GD&ĐT đang đề nghị bổ sung việc dạy thêm vào danh mục này.

Dạy thêm, học thêm vẫn là câu chuyện nhiều năm nay

Cần có cái nhìn đa chiều về dạy thêm, học thêm

Trao đổi với Người Đưa tin, TS Lê Viết Khuyến, Phó chủ tịch Hiệp hội Các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) cho rằng chúng ta nên suy nghĩ về việc học thêm, dạy thêm theo hướng đơn giản, không nên chỉ theo thái cực này hay thái cực khác.

Theo ông, việc tổ chức dạy thêm ngay tại trường học, do chính thầy cô giáo học trên lớp dạy thì vẫn không được phép. Nhà trường cũng không nên đứng ra tổ chức các buổi học thêm ngay tại trường.

“Tuy nhiên, nếu dạy thêm có đăng ký rõ ràng và đóng thuế như những ngành nghề khác thì hoàn toàn có thể. Các thầy cô có thể tham gia hoạt động dạy thêm ở các trung tâm khác nhau hoặc tự tổ chức dạy thêm độc lập.

Việc này sẽ tránh tình trạng nhiều người băn khoăn rằng các thầy cô dạy bớt kiến thức để học sinh phải đi học thêm, hay đi học thêm vì thầy cô giáo chứ không phải vì kiến thức”, ông Khuyến bày tỏ.

Như vậy sẽ tạo điều kiện cho các giáo viên có thêm thu nhập, nhất là đối với những giáo viên có trình độ.

Ngược lại, ở phía người học cũng không phải không có nhu cầu, nhiều em muốn học thêm kiến thức nâng cao, gia đình không có thời gian dạy ở nhà, và học sinh vẫn đủ sức khỏe, thời gian để đi học thêm thì cũng không thể ngăn cấm.

TS Lê Viết Khuyến đánh giá rằng: “Nhà giáo và người có khả năng dạy học là hoàn toàn khác nhau. Nếu thầy cô giáo không đủ năng lực có tổ chức dạy thêm học sinh chỉ học 1-2 buổi là sẽ bỏ ngay, không có yếu tố ép buộc ở đây”.

Các em đi học thêm vì kiến thức hay vì thầy cô

Bỏ tư tưởng dạy thêm để tăng thu nhập

Cũng trong phần tranh luận tại Quốc hội sáng 11/11, ĐBQH Nguyễn Công Long đã đưa ra thực trạng dạy thêm là xuất phát từ thu nhập quá thấp, rất nhiều người coi dạy thêm là để mưu sinh. Và qua 2 năm đại dịch vừa rồi, giáo viên cũng là đối tượng cần cứu trợ.

Người Đưa tin cũng có những trao đổi với thầy giáo Vũ Khắc Ngọc, giáo viên luyện thi môn Hóa tại một trung tâm ở Tp.Hà Nội về vấn đề này, thầy cho biết: “Chúng ta cần làm rõ các loại hình dạy thêm, học thêm tránh đánh đồng với nhau.

Loại hình dạy thêm của các thầy cô giáo trong nhà trường tổ chức dạy cho chính học sinh của mình thì cần phải hạn chế, thậm chí là cấm”.

Theo quan điểm của thầy, đến khi điều kiện chín muồi thì có thể xem xét, vì hiện nay mức lương giáo viên vẫn còn thấp, và còn cào bằng giữa thành phố và nông thôn. Nếu mức lương được cải thiện, không có tình trạng coi dạy ngoài giờ để kiếm thêm thu nhập thì sẽ hạn chế những tiêu cực.

“Chúng ta không thể nào lấy việc dạy thêm, học thêm để làm phương án tăng thu nhập cho giáo viên. Nếu lương của các thầy cô mà còn thấp thì rất khó để thu hút sinh viên giỏi theo ngành sư phạm, ngược lại nhiều em đi học vẫn có tư tưởng là làm giáo viên “trông” vào tiền dạy thêm là chính”, thầy Ngọc chia sẻ.

Chúng ta có cái nhìn thiện cảm với đi học tại các trung tâm ngôn ngữ hơn là hoc các môn khác

Loại hình dạy thêm thứ hai theo thầy Ngọc đó là việc dạy học của các giáo viên tự do hoặc thầy cô giáo hợp tác với các trung tâm giáo dục.

Thầy Vũ Khắc Ngọc cho rằng “Việc dạy học như vậy là chính đáng và xuất phát từ nhu cầu của phụ huynh, học sinh muốn cải thiện năng lực.

Những trung tâm tiếng Anh, luyện thi Ielts, SAT,…cũng là một hình thức dạy thêm, học thêm nhưng hiện nay lại không lên án học tại các trung tâm này dù giá thành rất đắt đỏ và không có sự quản lý chặt chẽ”.

Học thêm ngoại ngữ, toán, văn, lý hay thậm chí là các môn năng khiếu như võ thuật, mỹ thuật, âm nhạc là như nhau. Nhưng dư luận hiện nay cái nhìn “thiện cảm” với đi học tiếng Anh ở trung tâm hơn là đi học thêm các môn học khác.

Cần có sự quản lý tại các trung tâm công lập

Đối với loại hình học thêm thứ hai này, rất cần sự quản lý của Nhà nước. Lý do là bởi theo thầy Ngọc thực trạng hiện nay rất nhiều người chỉ có một chút kiến thức, không có bằng cấp hay kỹ năng sư phạm nhưng lại được đứng trên bục giảng và gọi là “thầy”.

Việc phụ huynh, học sinh mất tiền oan cho những trung tâm như vậy không phải là hiếm, nhất là đối với môn ngoại ngữ, hoặc những loại hình giảng dạy mới, dưới những tên gọi mỹ miều như phát triển kỹ năng của trẻ, gợi dậy khả năng sáng tạo, tính nhẩm nhanh,…

Ngoài quản lý về chuyên môn, cũng cần phải quản lý về học phí, điều kiện cơ sở vật chất, số lượng học sinh mỗi lớp, nộp thế,…

“Tôi nghĩ nên tách bạch giữa việc đi học theo nhu cầu, và việc dùng dạy thêm làm công cụ kiếm thêm thu nhập, hay là dùng quyền lực về điểm số để bắt buộc học sinh đi học”, thầy bày tỏ.

Từ đây có thể thấy, dạy học thêm vẫn là câu chuyện cũ nhưng cần có cách nhìn mới. Ngoài mối quan hệ thầy trò, xét theo góc độ kinh tế thì đây như mối liên hệ cung-cầu giữa người có kiến thức và người cần kiến thức.

Và nếu đi theo hệ quy chiếu này thì có lẽ sẽ phải có những điều kiện đi kèm về chất lượng, sự cạnh tranh, có quyền chọn lựa người dạy. Những ai không có chuyên môn sẽ bị thị trường đào thải, và tránh được câu chuyện đi học vì cái uy của người thầy.

Theo Baomoi.com

Gia hạn năm công tác cho GS, TS, hay để họ nghỉ đúng tuổi và hợp đồng nếu cần?

Theo Phó Giáo sư Nguyễn Cao Khang, nếu để dìu dắt thế hệ cán bộ trẻ hay giảng viên là cán bộ lâu năm có uy tín nên phải kéo dài thời gian là không cần thiết.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật số 34/2018/QH14, trong đó có đề xuất kéo dài thời gian làm việc đối với giảng viên đủ tuổi nghỉ hưu.

Theo đó, giảng viên đại học có chức danh giáo sư, phó giáo sư hoặc có trình độ tiến sĩ dự kiến sẽ được kéo dài thời gian làm việc để giảng dạy nếu có mong muốn, đủ sức khỏe và được nhà trường chấp nhận.

Nên đầu tư cho lớp cán bộ trẻ

Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Cao Khang, giảng viên khoa Vật lý Trường Đại học Sư phạm Hà Nội phân tích: “Đóng góp của các giảng viên đại học có các học hàm, học vị được quyết định bằng 3 yếu tố quan trọng nhất cho thấy các nhà khoa học đang làm việc.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Cao Khang, giảng viên khoa Vật lý Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. (NVCC)

Thứ nhất là công bố khoa học quốc tế. Việc này sẽ tạo uy tín cho cá nhân giảng viên cũng như nhà trường.

Thứ hai là làm chủ các đề tài cấp bộ, nhà nước. Việc này sẽ giúp tập hợp lực lượng cán bộ, tạo nhóm nghiên cứu, định hướng và giúp đỡ cán bộ trẻ nghiên cứu, có thu nhập.

Thứ ba là hướng dẫn nghiên cứu sinh. Thường công việc này phải có nhóm nghiên cứu mới có nghiên cứu sinh. Do đó, việc có nghiên cứu sinh thể hiện được cán bộ hướng dẫn đang làm công tác khoa học.

Chính vì vậy, nếu kéo dài độ tuổi công tác thì phải đảm bảo các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đang thực hiện công tác khoa học liên tục trong thời gian được kéo dài đó. Một giảng viên trình độ có cống hiến cho ngành giáo dục hay không không phụ thuộc vào việc kéo dài thời gian làm việc mà phụ thuộc vào các công việc đang làm, kết quả đó thể hiện ở các nghiên cứu, các đề tài, các bài báo… ”.

Theo Phó Giáo sư Nguyễn Cao Khang, để dìu dắt thế hệ cán bộ trẻ hay giảng viên mà cán bộ lâu năm có uy tín phải kéo dài thời gian làm việc là không cần thiết.

Trên thực tế, từ trước đến nay tại một số trường, đối với các cán bộ mặc dù đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng vẫn làm công tác nghiên cứu đề tài mà nhà trường cần, thì các trường vẫn chủ động gia hạn thời gian làm việc bằng các loại hợp đồng.

Không phải bất cứ giảng viên có học hàm, học vị nào đến độ tuổi nghỉ hưu cũng có nhu cầu kéo dài thời gian làm việc và ngược lại. Điều đó còn dựa vào sức khỏe, sức đóng góp và mong muốn của từng người.

Thế nhưng, nếu đồng nhất việc kéo dài độ tuổi làm việc thì dễ dẫn tới trường hợp, có nhiều giảng viên chây ỳ, không cống hiến, không còn các nghiên cứu khoa học, thậm chí họ miễn cưỡng làm việc mà vẫn được hưởng lương như bình thường. Đó lại là bài toán về ngân sách.

“Nếu những giảng viên đại học có học hàm, học vị đến tuổi nghỉ hưu nhưng vẫn mong muốn tiếp tục cống hiến thì chúng ta nên có những chính sách quy định cụ thể.

Bởi nếu kéo dài, chi ngân sách nhưng không đạt kết quả mong muốn thì rất lãng phí. Nguồn ngân sách đó chúng ta nên đầu tư cho lớp cán bộ trẻ, sức cống hiến của họ còn dài, còn nhiều và đó cũng chính là đầu tư cho vấn đề thu hút nhân tài”, Phó Giáo sư Khang nhận định.

Không kéo dài tuổi quản lý

Đối với vấn đề này, theo ý kiến của Thạc sỹ Trần Thanh Bắc, giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên cho rằng, nên kéo dài thời gian công tác chuyên môn của các giảng viên có học hàm, học vị.

Thạc sỹ Trần Thanh Bắc, giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên. (Ảnh NVCC)

“Theo tôi, nếu các giảng viên là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ vẫn đảm bảo sức khỏe thì nên kéo dài thời gian làm việc tại các cơ sở giáo dục. Bởi lẽ, những giảng viên tầm độ tuổi đó thường là những người ‘chín’ về hàm lượng tri thức tổng hợp và kinh nghiệm thực tiễn. Thực tế tôi đã được nhận, được truyền thụ rất nhiều từ những người thầy của mình”, thầy Bắc chia sẻ.

Thế nhưng, theo Thạc sỹ Trần Thanh Bắc, chỉ nên kéo dài tuổi làm việc chứ không nên kéo dài tuổi quản lý.

Thầy Trần Thanh Bắc lý giải: “Những giảng viên trẻ hiện nay rất chủ động trang bị cho mình những kiến thức chuyên môn cũng như tư duy đổi mới rất nhiều để phấn đấu cống hiến. Về chuyên môn quản lý của những người trẻ có thể có phần nào hạn chế nhưng ưu điểm của họ lại là tiếp thu rất nhanh và chúng ta hoàn toàn có thể bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ quản lý trẻ.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần phân biệt rõ rằng, một người có chuyên môn tốt chưa chắc đã trở thành một người quản lý giỏi, mà với vai trò quản lý thì cần bắt kịp xu thế mới. Đó là lí do theo tôi không kéo dài tuổi làm công tác quản lý đối với những giảng viên đã đến tuổi về hưu”.

Việc các giảng viên đại học có chức danh giáo sư, phó giáo sư hoặc có trình độ tiến sĩ dự kiến sẽ được kéo dài thời gian làm việc để giảng dạy theo thầy Trần Thanh Bắc là cần thiết và phù hợp với hoàn cảnh giáo dục đại học hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên cần có những cơ sở cả về lý luận và thực tiễn cũng như nhu cầu, khả năng cam kết đáp ứng của chính những họ. Bên cạnh đó, phải phù hợp với thực tiễn của các cơ sở đào tạo.

“Chúng ta cần có những cái nhìn bao quát, tổng thể và phù hợp với hoàn cảnh của các cơ sở đào tạo. Tôi lấy ví dụ tại các cơ sở giáo dục đại học địa phương, hay cụ thể hơn là các cơ sở tại miền núi, vùng cao, địa phương khó khăn. Để có một giảng viên có học hàm, học vị thì cần có thời gian rất lâu, thậm chí nhà trường cử người đi học cũng rất vất vả. Thế nhưng thời gian sau khi cống hiến chưa được nhiều thì hết tuổi làm việc. Đó cũng được xem là bất cập.

Vì thế, các giảng viên có trình độ, nếu đảm bảo sức khỏe, mong muốn tiếp tục được làm việc và cam kết rằng thời gian tiếp tục làm việc đó vẫn cống hiến hết sức mình cho giáo dục thì chúng ta cần có những chính sách cụ thể, rõ ràng. Như thế vừa không lãng phí nguồn nhân lực cũng không lãng phí nguồn ngân sách nhà nước”, Thạc sỹ Trần Thanh Bắc bày tỏ.

Theo Baomoi.com

Quy định doanh nghiệp trong Bộ Quốc phòng được tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội

Chị Nguyễn Thị Hồng Ngát ở phường Khương Mai (quận Thanh Xuân, TP Hà Nội), hỏi: Các doanh nghiệp trong Bộ Quốc phòng được tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) vào quỹ hưu trí và tử tuất trong các trường hợp nào? Điều kiện tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất?

Luật sư xin tư vấn cụ thể như sau: Theo quy định tại khoản 1, khoản 2, Điều 17, Nghị định số 33/2016/NĐ-CP ngày 10-5-2016 thì các doanh nghiệp trong Bộ Quốc phòng được tạm dừng đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử tuất trong các trường hợp:

– Tạm dừng sản xuất, kinh doanh từ 1 tháng trở lên do gặp khó khăn khi thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc do khủng hoảng, suy thoái kinh tế hoặc thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế hoặc thực hiện cam kết quốc tế;

– Gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, mất mùa.

Việc tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất khi có một trong các điều kiện sau đây:

– Không bố trí được việc làm cho người lao động, trong đó số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc phải tạm thời nghỉ việc từ 50% trở lên trong tổng số lao động có mặt trước khi tạm dừng sản xuất, kinh doanh;

– Bị thiệt hại trên 50% tổng giá trị tài sản do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, mất mùa gây ra (không kể giá trị tài sản là đất).

Trên đây là nội dung liên quan đến các trường hợp doanh nghiệp trong Bộ Quốc phòng được tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

 

 

Kiến nghị có chính sách riêng về nhà ở cho công nhân, quy định tiêu chuẩn tối thiểu về phòng trọ

Tham gia phiên thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội, công tác phòng chống dịch và ngân sách nhà nước chiều 8/11, đại biểu Nguyễn Phi Thường (Hà Nội) chỉ ra nhiều bất cập trong vấn đề nhà ở của công nhân lao động trong bối cảnh đại dịch và đưa ra một số kiến nghị…

Theo đại biểu Nguyễn Phi Thường, đại dịch Covid-19, đặc biệt là đợt bùng phát dịch thứ 4 đã trực tiếp tấn công vào lực lượng công nhân lao động và các khu công nghiệp gây hậu quả hết sức nặng nề. Hàng trăm ngàn doanh nghiệp ngừng hoạt động, nhiều triệu lao động mất việc làm phải ngừng việc, tạm hoãn hợp đồng, nghỉ không lương.

CÓ CHÍNH SÁCH RIÊNG VỀ NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN ĐỂ THU HÚT ĐẦU TƯ

Đại biểu cho rằng dịch bệnh đã phát lộ đầy đủ hơn vấn đề vốn là bức xúc của công nhân lao động – đó là nhà ở.

“Số đông công nhân lao động di cư đang phải ở trong khu nhà trọ chật hẹp, ẩm thấp, san sát nhau, nguy cơ lây nhiễm bệnh tật, ô nhiễm môi trường, mất an ninh trật tự rất cao”, đại biểu đoàn Hà Nội chỉ ra.

Do đó, đại biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về nhà ở xã hội, trong đó tách riêng chính sách về nhà ở cho công nhân để thu hút đầu tư xây dựng và tạo cơ chế để công đoàn là chủ thể tham gia xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân.

Ngoài ra, đại biểu cũng kiế nghị có chính sách và gói hỗ trợ thúc đẩy đầu tư xây dựng, cải tạo nhà ở cho công nhân lao động thuê, mua. Cùng với đó, ban hành quy định về tiêu chuẩn tối thiểu phòng trọ, giúp công nhân an cư lạc nghiệp cũng là góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, hiện đại.

Ngoài vấn đề nhà ở, đại biểu Nguyễn Phi Thường cũng quan tâm tới vấn đề lương tối thiểu cho công nhân lao động. Theo đại biểu, phần lớn công nhân lao động hết thu nhập không thể duy trì cuộc sống sau khi doanh nghiệp ngừng hoạt động một vài tháng.

“Điều này cho thấy thu nhập của công nhân còn rất thấp, không có tích lũy hoặc tích lũy không đáng kể. Do đó, đề nghị Chính phủ tiếp tục có giải pháp thúc đẩy vấn đề tiền lương tối thiểu, đã 2 năm liên tục, ta chưa thể tăng lương tối thiểu vì dịch bệnh”, đại biểu đoàn Hà Nội kiến nghị.

Song song với đó, đại biểu cho rằng cần đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển việc làm bền vững, tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Về các gói hỗ trợ, đại biểu Nguyễn Phi Thường cho rằng các gói hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp có những nội dung chưa khả thi, khó thực hiện, việc triển khai có lúc chưa kịp thời. Do đó, đề nghị Quốc hội, Chính phủ tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện, đảm bảo tất cả gói hỗ trợ đều đến được với người lao động, hỗ trợ họ khắc phục khó khăn, sớm ổn định cuộc sống.

Cùng với việc hỗ trợ, đại biểu cũng quan tâm tới “vấn đề sống còn” để khôi phục sản xuất, kinh doanh, tăng năng suất lao động – đó là đào tạo, đào tạo lại, nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động.

“Những năm qua, công tác này được quan tâm nhưng hiệu quả chưa cao, kỹ năng nghề của lao động Việt Nam còn ở mức rất thấp. Quốc hội, Chính phủ cần quan tâm hơn cả chính sách, nguồn lực, đặc biệt là khâu tổ chức thực hiện, cần đưa công đoàn là một chủ thể tham gia vào quá trình nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động với các chính sách, nguồn lực cụ thể”, đại biểu đoàn Hà Nội kiến nghị.

CẦN CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ ĐỂ HỖ TRỢ NGƯỜI LAO ĐỘNG, DOANH NGHIỆP

Cũng quan tâm về vấn đề hỗ trợ người lao động, đại biểu Trần Văn Khải (Hà Nam) cho rằng để phục hồi và phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới, cần đặc biệt quan tâm tới công nhân lao động, tạo động lực cho người lao động quay trở lại làm việc. Theo đại biểu, đây là thời điểm người lao động là động lực tăng trưởng, bởi hỗ trợ người lao động cũng chính là đóng góp vào động lực tăng trưởng của đất nước.

Đại biểu Trần Văn Khải

Do đó, đại biểu đề nghị Chính phủ chỉ đạo các địa phương có phương án hỗ trợ người lao động quay lại nơi làm việc. Cụ thể, cần đẩy mạnh kết nối cung – cầu lao động và kiến tạo các động lực về cơ hội, hỗ trợ tài chính, ổn định cuộc sống tại các địa bàn có nhu cầu lao động lớn và tạo sinh kế cho người lao động tìm việc làm tăng thu nhập bảo đảm cuộc sống.

Cùng với đó, đại biểu kiến nghị triển khai các chính sách khuyến khích doanh nghiệp, người lao động tham gia đào tạo, đào tạo lại, nâng cao tay nghề, chuyển đổi nghề nghiệp cũng như một số các biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn về bảo vệ sức khỏe phù hợp, giúp tạo tâm lý yên tâm quay trở lại làm việc cho người lao động.

“Đề nghị Quốc hội, Chính phủ có giải pháp lâu dài về nguồn lực để bảo đảm một số dịch vụ xã hội cơ bản nhằm tránh rủi ro và bảo đảm cơ hội công bằng cho toàn dân. Chính phủ có thể phải cân nhắc đến việc bội chi ngân sách và chuẩn bị một khoản ngân sách bất thường để giải quyết các tình huống bất thường”, đại biểu đoàn Hà Nam nêu ý kiến.

Đại biểu Đoàn Thị Thanh Mai

Còn theo đại biểu Đoàn Thị Thanh Mai (Hưng Yên), để tháo gỡ khó khăn cho thị trường lao động, cần đánh giá thực trạng nguyên nhân và có chính sách để tận dụng lực lượng lao động, huy động lực lượng lao động tiềm năng chưa được khai thác, đặc biệt là nhóm lao động trẻ nhằm phát huy tối đa sức mạnh của nguồn lực trong kế hoạch phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Tại phiên thảo luận, nhiều đại biểu Quốc hội cũng kiến nghị Quốc hội và Chính phủ tiếp tục có những giải pháp, chính sách đặc biệt, đặc thù để hỗ trợ người lao động và hỗ trợ doanh nghiệp đang bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh hiện nay. Song song với đó phải tăng cường công tác kiểm tra việc triển khai các giải pháp, các gói hỗ trợ để bảo đảm đúng đối tượng, đúng tiến độ.

Theo Baomoi.com