Tranh chấp nào thường phát sinh trong giao dịch bất động sản nghỉ dưỡng?

Luật Kinh doanh bất động sản 2023 ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho các giao dịch của loại hình bất động sản nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, người mua vẫn phải lưu ý đến điều kiện giao dịch, tiến độ thanh toán, điều kiện bàn giao, chất lượng bất động sản… để hạn chế rủi ro trong quá trình giao dịch.

Một dự án bất động sản nghỉ dưỡng tại Đà Nẵng. Ảnh minh họa: Nhân Tâm

Để hạn chế những tranh chấp phát sinh từ các giao dịch mua bán đối với loại hình bất động sản nghỉ dưỡng như condotel, resort villa…, người mua phải kiểm soát nội dung thoả thuận ban đầu giữa các bên trong hợp đồng mua bán và có những sự chuẩn bị chu đáo về mặt pháp lý để sẵn sàng cho mọi sự cố có thể xảy ra trong giao dịch.

Những tranh chấp phổ biến trong các giao dịch này thường là tranh chấp về điều kiện giao dịch của bất động sản, tranh chấp về tiến độ thanh toán, thời hạn và điều kiện bàn giao, chất lượng bất động sản được bàn giao…

Tranh chấp về điều kiện giao dịch

Điều người mua cần phải kiểm tra đầu tiên là đối tượng của hợp đồng như condotel, resort villa… (bất động sản) được chào bán có đảm bảo pháp lý để được đưa vào kinh doanh hay không. Luật Kinh doanh bất động sản 2014 (sửa đổi) không quy định về điều kiện giao dịch đối với loại hình bất động sản căn hộ du lịch, dẫn đến đã có nhiều tranh chấp phát sinh liên quan đến điều kiện đưa vào giao dịch đối với loại hình bất động sản này.

Vụ việc thực tế thể hiện tại Bản án số 11/2022/DS-ST ngày 2-6-2022 của Toà án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà về việc tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ giữa nguyên đơn và chủ đầu tư là Công ty cổ phần T. cho thấy toà án theo quan điểm không tuyên hợp đồng mua bán căn hộ du lịch vô hiệu.

Theo tòa án, thời điểm hiện tại dự án đã có giấy phép xây dựng, điều kiện về giấy phép xây dựng đã được khắc phục và toà nhà có căn hộ đã được phép đưa vào sử dụng dù cho tại thời điểm ký kết hợp đồng dự án chưa được cấp giấy phép xây dựng. Toà án nhận định rằng mục đích và nội dung của hợp đồng mà các bên hướng tới đã đạt được, không thay đổi về bản chất nên yêu cầu tuyên hợp đồng mua bán căn hộ vô hiệu của người mua là không có căn cứ.

Để khắc phục tình trạng này, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 (Luật KDBĐS 2023) tại khoản 1 Điều 8 đã quy định nghiêm cấm hành vi kinh doanh bất động sản không đủ điều kiện theo quy định.

Quy định về điều kiện đối với công trình xây dựng hình thành trong tương lai (trong đó có loại hình bất động sản nghỉ dưỡng) được đưa vào kinh doanh theo Điều 24 của Luật KDBĐS 2023 như sau: Công trình xây dựng đã được khởi công xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng; có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất; có giấy phép xây dựng công trình xây dựng và hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng… đã được công khai thông tin về bất động sản, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh theo quy định tại Điều 6 của Luật KDBĐS 2023.

Một khi người mua thẩm định được tính pháp lý của căn hộ đã đủ điều kiện kinh doanh thì sẽ tránh được rủi ro bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nguy cơ hợp đồng vô hiệu. Cần lưu ý thêm để người mua yêu cầu giải quyết hệ quả của hợp đồng vô hiệu, nhận lại số tiền đã thanh toán cũng chưa hẳn là điều dễ thực hiện.

Tranh chấp về tiến độ thanh toán giá bán bất động sản

Hiện nay, Điều 25 Luật KDBĐS 2023 quy định việc thanh toán trong mua bán công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng hình thành trong tương lai được thực hiện nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng bao gồm cả tiền đặt cọc.

Những lần thanh toán tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng cho bên mua; trường hợp bên bán là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng.

Trong thực tế, vấn đề người mua nhận bàn giao căn hộ đạt đúng quy chuẩn đã thoả thuận sau đó thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ hay thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ thoả thuận trước, sau đó mới nhận bàn giao vẫn là nội dung các bên thường tranh chấp.

Điều này dẫn đến hệ quả khi xảy ra sự việc căn hộ bàn giao không đúng chất lượng, quy chuẩn đã thoả thuận và người mua không đồng ý thanh toán theo tiến độ khi chất lượng căn hộ chưa đạt yêu cầu.

Vì vậy, hợp đồng nên quy định rõ bên nào phải là bên thực hiện nghĩa vụ trước hoặc việc một bên vi phạm chất lượng bàn giao là điều kiện để bên kia được hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ. Tránh trường hợp hợp đồng chỉ quy định chung chung, không xác định rõ bên nào phải thực hiện nghĩa vụ trước dẫn đến những tranh chấp sau này.

Một số hợp đồng mua bán trong thực tế cho thấy các bên thường thoả thuận tại phụ lục hợp đồng về tiến độ thanh toán giá trị căn hộ có nội dung bên mua sẽ thanh toán đạt 70% (hoặc 50%) giá trị hợp đồng tại thời điểm có thông báo bàn giao căn hộ.

Nội dung thỏa thuận này có thể được hiểu rằng, ngay khi có thông báo nhận bàn giao, bên mua phải tiến hành thanh toán dù rằng bên mua chưa được kiểm tra chất lượng căn hộ, chưa được nhận bàn giao nhưng đã phải thanh toán giá trị căn hộ đến tiến độ khi đã nhận bàn giao theo luật. Điều này là không phù hợp với tinh thần của Luật Kinh doanh bất động sản và gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của bên mua.

Do đó, cần ràng buộc điều kiện được xem như là các bên đã bàn giao hoàn tất khi người mua đồng ý ký vào biên bản nhận bàn giao căn hộ. Thời điểm này mới được xem là người mua đã hoàn tất việc nhận bàn giao và sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán đạt đến 70% (hoặc 50%) giá trị căn hộ.

Thiết nghĩ, hợp đồng mẫu (hợp đồng mua bán công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích du lịch, lưu trú) do Chính phủ quy định (1)nên theo hướng việc mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo phương thức thanh toán nhiều lần thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 25 của Luật KDBĐS 2023.

Việc thanh toán sẽ không được quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao căn hộ cho khách hàng (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng).

Người mua cũng phải lưu ý những thoả thuận mang tính chất không bảo đảm công bằng trong giao dịch cho người mua. Đơn cử như trong trường hợp người mua vi phạm thời hạn thanh toán của bất kỳ đợt thanh toán theo tiến độ nào cũng sẽ bị mất quyền được yêu cầu chủ đầu tư thực hiện nghĩa vụ chịu phạt khi vi phạm thời hạn bàn giao căn hộ, vi phạm thời hạn nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận.

Trong khi đó, ở chiều hướng ngược lại, dù chủ đầu tư vi phạm nghĩa vụ bàn giao căn hộ, nghĩa vụ nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận nhưng vẫn có quyền phạt vi phạm khi người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ ngoài khoản tiền chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo luật.

Tranh chấp về thời hạn, điều kiện bàn giao và vận hành khai thác

Tranh chấp về thời hạn bàn giao căn hộ là tranh chấp phổ biến giữa các bên. Trong thực tiễn, để đảm bảo quyền lợi của khách hàng, tới thời điểm bàn giao, tuy chưa thể thực tế hoàn thiện dự án để đưa vào vận hành, khai thác (vì nguyên nhân chủ quan từ phía chủ đầu tư) nhưng một số chủ đầu tư có thiện chí sẽ vẫn ký thoả thuận nhận bàn giao và chi trả phí như khi đưa vào vận hành, khai thác thực tế cho khách hàng.

Người mua cần lưu ý thoả thuận liên quan đến cam kết về tiến độ (khoảng thời hạn gia hạn bàn giao), những sự kiện pháp lý được xem là sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan để chủ đầu tư được miễn trừ các trách nhiệm dân sự khi vi phạm thời hạn bàn giao. Bên cạnh đó là tìm phương án giải quyết khi đến thời điểm bàn giao, đưa vào vận hành khai thác (sau khi hết thời hạn gia hạn, khoảng thời hạn diễn ra sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan) nhưng chủ đầu tư không thể đáp ứng được tiến độ.

Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử, có toà án đã nhận định rằng đối với việc bàn giao căn hộ khi chưa hoàn thành phần sử dụng chung, phần sở hữu chung, phần sở hữu riêng của bên bán… chưa hoàn thiện hệ thống xử lý chất thải không ảnh hưởng đến các điều kiện bàn giao căn hộ theo quy định tại Điều 27 Nghị định 06/2021/NĐ-CP.

Vì vậy, ngoài chất lượng của căn hộ bàn giao, để đảm bảo đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng, người mua cần lưu ý thoả thuận về việc căn hộ được bàn giao phải đáp ứng được điều kiện để đưa vào vận hành, khai thác kinh doanh dịch vụ phục vụ du lịch.

Hiện tại, Điều 27 của Luật KDBĐS 2023 quy định chủ đầu tư dự án bất động sản bàn giao công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng cho bên mua theo đúng hợp đồng đã ký kết và bảo đảm các nguyên tắc công trình xây dựng đã được nghiệm thu, kiểm tra công tác nghiệm thu đưa vào khai thác, sử dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng.

Tuy nhiên, Nghị định 35/2023/NĐ-CP về quản lý chất lượng, thi công xây dựng và bảo trì công trình xây dựng quy định căn cứ vào điều kiện cụ thể, công trình, từng phần công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành và được nghiệm thu theo quy định được bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng theo yêu cầu của chủ đầu tư hoặc đơn vị khai thác, sử dụng.

Dù vậy, để người mua đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng khi nhận bàn giao căn hộ thì cần lưu ý đến những cam kết của chủ đầu tư đối với tiến độ những hạng mục khác của dự án để đảm bảo căn hộ có thể được đưa vào khai thác, sử dụng.

Bình Định là địa phương đang được nhiều nhà đầu tư bất động sản nghỉ dưỡng quan tâm. Ảnh minh họa: Hiếu Trương

Tranh chấp về chất lượng bất động sản được bàn giao

Thông thường, các hợp đồng mua bán căn hộ du lịch tại phụ lục thoả thuận về danh mục trang thiết bị, vật liệu gắn liền với căn hộ thường có thoả thuận cho phép chủ đầu tư được tuỳ nghi lựa chọn vật liệu, trang thiết bị thay thế từ các nhà cung cấp như “chất lượng tương đương”, “tuỳ theo thiết kế của chủ đầu tư”…

Không ít trường hợp khách hàng mua căn hộ khi nhận bàn giao thì phát hiện căn hộ được bàn giao không đúng với thiết kế ban đầu và/hoặc nội thất, chất lượng căn hộ không đúng với bản mô tả ban đầu tại hợp đồng đã ký kết hoặc không phù hợp với khái niệm “tương đương” đã thoả thuận.

Để hạn chế các tranh chấp liên quan đến trường hợp này, người mua cần yêu cầu chủ đầu tư cung cấp các văn bản về nghiệm thu chất lượng công trình, các văn bản thể hiện nguồn gốc, xuất xứ nguyên vật liệu… Ngoài ra, khi giao kết hợp đồng mua bán căn hộ du lịch thì người mua cần yêu cầu chủ đầu tư làm rõ các khái niệm như “vật liệu tương đương”, “chất lượng tương đương”…, đây là các khái niệm có nội hàm rộng, dễ đánh tráo nhưng lại khó chứng minh.

Trường hợp xác định rõ chủ đầu tư có vi phạm thì người mua có quyền yêu cầu chủ đầu tư khắc phục trong thời hạn nhất định theo thoả thuận tại hợp đồng trước khi ký biên bản nhận bàn giao căn hộ. Trường hợp trong hợp đồng mua bán quy định chế tài do vi phạm thì người mua cũng nên xem xét áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Vì vậy, hợp đồng cần ghi nhận rõ những quyền này của người mua căn hộ.

Ngoài ra, nếu người mua có ý định theo đuổi một tiến trình tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình khi chủ đầu tư bàn giao căn hộ không đúng chất lượng đã thoả thuận (khi các bên không thể thống nhất được qua quá trình tự thương lượng, hoà giải) thì phải cân nhắc đến việc thu thập chứng cứ chứng minh cho lập luận này.

Như vậy, Luật KDBĐS 2023 ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho các giao dịch của loại hình bất động sản nghỉ dưỡng, bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người mua. Tuy nhiên, người mua cũng cần phải lưu ý đến những nội dung như bài viết đã đề cập để hạn chế rủi ro liên quan đến những vấn đề này trong quá trình giao dịch.

Theo: https://thesaigontimes.vn

Lận đận danh phận condotel

Không như kỳ vọng, các chuyên gia cho biết số lượng condotel hiện nay đang rất lớn, song tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và Luật Đất đai năm 2024, danh phận của condotel vẫn rất mờ nhạt.

Từng là “gà đẻ trứng vàng”, phát triển ồ ạt trong giai đoạn 2015 – 2018, thế nhưng sau ồn ào từ việc thiếu hành lang pháp lý rõ ràng, khó khăn trong cấp sổ hồng, đến vụ vỡ trận cam kết lợi nhuận Cocobay, phân khúc condotel rơi vào trầm lắng và chưa tìm thấy lối ra.

 Nguồn cung và lượng tiêu thụ condotel trong tháng 5/2024. Nguồn: DKRA

Nguồn cung và lượng tiêu thụ condotel trong tháng 5/2024. Nguồn: DKRA

Condotel “dò đáy”

Thực tế, theo báo cáo của Hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), condotel xuất hiện ở nước ta từ năm 2014 và phát triển bùng nổ ở giai đoạn 2015 – 2018, hàng chục nghìn sản phẩm condotel với tổng giá trị khoảng 297.128 tỷ đồng được tung ra thị trường tại nhiều địa bàn có lợi thế du lịch như Nha Trang (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang), Đà Nẵng…

Thế nhưng bắt đầu từ năm 2019, sau những “cú đấm bồi” từ pháp lý đến cam kết lợi nhuận, dịch bệnh… loại hình sản phẩm này mất điểm trong mắt các nhà đầu tư, rơi vào trầm lắng.

Đã có nhiều kỳ vọng rằng khi các “luật đinh” của thị trường bất động sản được sửa đổi, bổ sung, condotel sẽ có “danh phận”, sớm phục hồi và ổn định.

Song, báo cáo phân tích mới đây của DKRA cho thấy sức cầu condotel hồi quý I/2024 đã xuống mức thấp nhất trong 5 năm qua, lượng tiêu thụ chỉ bằng 35% so với cùng kỳ, 90% dự án không ghi nhận phát sinh giao dịch trong quý. Trong khi đó, 2 tháng đầu của quý II, thị trường cũng chỉ ghi nhận 1 dự án ở giai đoạn tiếp theo và tiêu thụ được 1 căn.

Theo ông Nguyễn Văn Đính – Chủ tịch VARS, lượng giao dịch kém do nguồn cung yếu, hàng tồn kho chủ yếu là sản phẩm giá trị cao, phải cạnh tranh trực tiếp với các sản phẩm đã cắt lỗ từ trước của các chủ đầu tư. Trong khi, niềm tin nhà đầu tư chưa được phục hồi do hành lang pháp lý chưa rõ ràng, chủ đầu tư không thực hiện đúng cam kết, thanh khoản kém.

“Một số dự án condotel vẫn “đóng” giỏ hàng, không phát sinh giao dịch do vướng mắc pháp lý. Để “hồi sinh” loại hình condotel, Nhà nước cần sớm “lấp đầy” khoảng trống pháp lý cho người mua, quy định ràng buộc quyền lợi, trách nhiệm rõ ràng của chủ đầu tư, khách mua, đơn vị quản lý…”, ông Đính chia sẻ.

Mờ nhạt danh phận condotel

Cũng theo đánh giá của nhiều chuyên gia “mùa đông condotel” sẽ tiếp tục kéo dài. Sức cầu chung tiếp tục giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi trong ngắn hạn.

Bởi lẽ, dù đã được nhắc đến tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và Luật Đất đai 2024 nhưng nội dung của 2 bộ luật quan trọng trên cho thấy, bóng dáng của loại hình condotel vẫn còn khá mờ nhạt.

Cụ thể, tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có 6 lần cụm từ “du lịch” được nhắc đến, tuy nhiên cụ thể loại hình căn hộ du lịch (condotel) là gì, định nghĩa, chức năng, quyền sở hữu,…. dường như vẫn chưa được thể hiện một cách rõ ràng.

Hay tại Luật Đất đai 2024 nội dung liên quan đến đất đai gắn với loại hình căn hộ du lịch, nghỉ dưỡng cũng chưa thật sự xuất hiện một cách rõ ràng, tường minh.

Tại điều 9 quy định về phân loại đất hiện không xuất hiện cụm từ “du lịch, nghỉ dưỡng” nào và loại hình condotel được cho là nằm trong phạm trù điều chỉnh của khoản đ, điểm 2 điều 9 “ Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, gồm đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp; đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản”.

Tại điều 143 quy định về Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với đất xây dựng khu đô thị, khu dân cư nông thôn, dự án sản xuất kinh doanh có nhiều mục đích sử dụng đất khác nhau, loại hình condotel có thể nằm trong phạm trù của khoản C, điểm 1.

Song, khái niệm về căn hộ du lịch, nghỉ dưỡng (condotel) liên quan đến xác định mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,… vẫn chưa được tách bạch một cách rõ ràng, tường minh.

Trao đổi riêng với DĐDN, ông Đỗ Viết Chiến – Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (VNREA) cho rằng condotel là loại sản phẩm mới so, thiếu hành lang pháp lý rõ ràng, thế nhưng nhiều địa phương lại cấp phép cho phát triển ồ ạt, số lượng condotel trên cả nước hiện nay là rất lớn và khó để “xử lý”.

Việc định danh cho phân khúc này đã được tính toán nhiều lần, thế nhưng rất khó. Bởi xét trên khía cạnh quy hoạch, xác định đơn vị ở sẽ làm gia tăng dân số, và đặt ra những yêu cầu nhiều hơn về hạ tầng xã hội như y tế, trường học…Cũng từ đó, để xác định loại đất thực hiện dự án là gì cũng khó khăn.

Theo ông Chiến, khung pháp lý vẫn tiếp tục là trở ngại lớn cho condotel, ngay cả Luật Đất đai 2024 hay trước đó là Nghị định 10/2023/NĐ-CP cũng khó cởi trói vấn đề cấp sổ hồng. Muốn giải phóng hàng tồn kho lớn không phải là câu chuyện một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có thời gian triển khai dài và có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bên, từ Chính phủ, các ban ngành cho đến các chủ đầu tư và nhà đầu tư.

Theo: https://cafef.vn

Doanh nghiệp bất động sản nỗ lực gia hạn nợ trái phiếu

Trước áp lực đáo hạn ngày càng lớn, nhiều doanh nghiệp bất động sản buộc phải tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính nhằm duy trì hoạt động và đảm bảo dòng tiền.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục chứng kiến làn sóng gia hạn nợ, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản. Trước áp lực đáo hạn lớn, nhiều doanh nghiệp buộc phải tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính để duy trì hoạt động.

Một trong những trường hợp điển hình là CTCP Đầu tư và Phát triển Bất động sản Thế Kỷ (Cen Invest). Trái phiếu mã CIVCB2124001, phát hành tháng 10/2021 với lãi suất cố định 10,5%/năm, ban đầu có kỳ hạn 3 năm và dự kiến đáo hạn vào ngày 13/10/2024. Tuy nhiên, sau lần thỏa thuận thứ hai với trái chủ vào cuối tháng 10/2024, Cen Invest đã kéo dài thời gian tất toán đến ngày 13/10/2025.

Trước đó, trái phiếu này được đảm bảo bằng 50 triệu cổ phiếu CTCP Bất động sản Thế Kỷ (Cen Land, HoSE: CRE) của Cen Group cùng quyền tài sản từ hợp đồng hợp tác giữa Galaxy Land và CRE tại dự án khu đô thị Hoàng Văn Thụ (Hoàng Mai, Hà Nội). Tuy nhiên, với việc giá cổ phiếu CRE lao dốc từ mức hơn 25.000 đồng/cổ phiếu đầu năm 2022 xuống dưới 7.000 đồng/cổ phiếu, Cen Invest đã phải bổ sung tài sản đảm bảo.

sss
Cơ cấu trái phiếu đáo hạn theo ngành năm 2025 theo số liệu của VNDIRECT Research.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Theo văn bản gửi Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) ngày 11/2/2025, doanh nghiệp này đã thế chấp thêm 20,7 triệu cổ phần CTCP Đầu tư Thành Đạt VN (tương đương 67,87% vốn điều lệ), chủ đầu tư dự án khu dân cư Khe Cát tại Quảng Yên, Quảng Ninh, cùng quyền tài sản phát sinh từ dự án.

Không chỉ đóng vai trò tài sản thế chấp, Thành Đạt VN còn cam kết bảo lãnh thanh toán cho trái phiếu của Cen Invest, đồng thời không phát sinh thêm khoản vay mới hay dùng tài sản để đảm bảo cho nghĩa vụ khác. Nếu phải bán toàn bộ cổ phần tại Thành Đạt VN để thanh toán nợ, Cen Invest cam kết mức giá tối thiểu 373 tỷ đồng, với điều kiện được trái chủ chấp thuận. Giao dịch này sẽ hoàn tất muộn nhất vào ngày 31/05/2025, và số tiền thu về sau khi trừ chi phí sẽ được chuyển vào tài khoản trả nợ trái phiếu.

Tình trạng tương tự cũng xảy ra tại CRE, doanh nghiệp vừa được trái chủ chấp thuận gia hạn trái phiếu CRE202001 thêm gần 9 tháng. Trái phiếu này có giá trị 450 tỷ đồng, phát hành cuối năm 2020 với kỳ hạn ban đầu 36 tháng, nhưng đã được gia hạn tổng cộng 22 tháng. Đến cuối năm 2024, công ty đã mua lại một phần nợ gốc, giảm dư nợ xuống còn khoảng 354 tỷ đồng.

Trái phiếu của CRE cũng được đảm bảo bằng gần 59 triệu cổ phiếu CRE, cùng với 50 triệu cổ phiếu Cen Invest, quyền tài sản từ Galaxy Land và một số tài sản khác. Tuy nhiên, do giá trị cổ phiếu sụt giảm, công ty phải điều chỉnh phương án thanh toán.

Theo văn bản gửi HNX ngày 24/1/2025, CRE cam kết chuyển toàn bộ dòng tiền từ hợp đồng hợp tác tại dự án Khe Cát vào tài khoản trả nợ cho trái chủ. Đồng thời, lãi suất trái phiếu cũng được điều chỉnh giảm từ 12%/năm xuống 10,5%/năm từ tháng 2/2025.

Ngoài Cen Invest và CRE, nhiều doanh nghiệp bất động sản khác cũng đang phải gồng mình gia hạn nợ trái phiếu. Đơn cử, Công ty CP Đầu tư và Kinh doanh Nam An đối mặt với khoản trái phiếu đáo hạn 4.700 tỷ đồng, Nam An đang gặp áp lực lớn khi tình hình tài chính khó khăn, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu vượt ngưỡng an toàn.

Hay tại Công ty cổ phần Đầu tư Kinh Doanh và Phát triển Đô thị Ngôi Sao Phương Nam, với 4.695 tỷ đồng trái phiếu đến hạn, doanh nghiệp này đang trong tình trạng báo động về khả năng thanh toán.

Tương tự, Công ty cổ phần Đầu tư Nam Long (NLG) đã tất toán trước hạn 2 lô trái phiếu tổng giá trị 1.000 tỷ đồng để giảm áp lực nợ, mặc dù kỳ hạn gốc đến tháng 3/2029 mới đáo hạn. Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Bất động sản Hải Phát cũng đã hoàn tất mua lại 390 tỷ đồng trái phiếu trước hạn, đưa dư nợ trái phiếu về 0…

Theo báo cáo của bộ phận nghiên cứu Chứng khoán VNDIRECT (VNDIRECT Research), năm 2025 sẽ tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi tổng giá trị trái phiếu đáo hạn ước tính lên đến 203.000 tỷ đồng, tăng 8,5% so với năm 2024. Trong đó, nhóm bất động sản đối mặt với áp lực lớn nhất với hơn 130.000 tỷ đồng trái phiếu đến hạn, chiếm 64% tổng giá trị đáo hạn toàn thị trường và cao gấp đôi so với năm 2024.

Một yếu tố đáng lo ngại là 56.000 tỷ đồng trái phiếu bất động sản đã được gia hạn trước đó sẽ đến hạn thanh toán trong năm 2025, làm gia tăng áp lực thanh khoản cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường bất động sản vẫn trầm lắng. Việc tháo gỡ pháp lý cho các dự án vẫn còn chậm so với kỳ vọng, kéo theo khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp địa ốc.

Không chỉ ngành bất động sản, các doanh nghiệp tài chính – ngân hàng cũng có khối lượng trái phiếu đáo hạn đáng kể trong năm 2025, với giá trị hơn 33.000 tỷ đồng, chiếm hơn 16% tổng giá trị đáo hạn.

Nhìn chung, với áp lực nợ ngày càng lớn, doanh nghiệp bất động sản không chỉ phải tìm cách tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính mà còn phải đảm bảo dòng tiền ổn định để vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Theo https://baodautu.vn/

Bản án phúc thẩm Tranh chấp hợp đồng hợp tác giữa Nhà đầu tư và Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bản án số: 454/2024/DS-PT Ngày: 15/7/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng hợp tác

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

page1image926495936 page1image926486320

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Bà Trần Thị Liên Anh

Các Thẩm phán: Ông Vũ Toàn Giang
Bà Trần Thị Thu Nam

Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thùy Trang, Thư ký Tòa án

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội: Bà Nguyễn Thị Phương Lan, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Ngày 15 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 209/2024/TLPT-DS ngày 21/6/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 311/2024/QĐ-PT ngày 26/6/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 401/2024/QĐPT-HPT ngày 08/7/2024, giữa các đương sự sau:

Nguyên đơn: Ông Ngô Quang Dũng, sinh năm 1964.
Địa chỉ: số 28, ngõ 445/46, đường Lạc Long Quân, phường Xuân La, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội.
Bị đơn: Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE
Địa chỉ: Tầng 7, Tòa nhà Sunshine Centre, số 16, đường Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lương Thành Long – Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Nghị Lực, ông Đặng Thành Vinh, bà Cao Thị Ngọc Mai, bà Nguyễn Kiều Oanh (theo giấy ủy quyền số 45/2023/GUQ-KSFINANCE ngày 07.11.2023 của Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE)

Do có kháng cáo của Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

* Nguyên đơn ông Ngô Quang Dũng trình bày:

Ngày 28.02.2022, ông và Công ty cổ phần đầu tư KSFinance (sau đây gọi tắt là KSF) ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 có nội dung như sau:

– Mục đích hợp tác kinh doanh: Bên B (Ngô Quang Dũng) đồng ý góp vốn và Bên A (Công ty cổ phần đầu tư KSFinance) đồng ý nhận và quản lý phần góp vốn của Bên B để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án theo Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thỏa thuận tại Hợp đồng này phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan; Bên A cam kết đảm bảo bên B sẽ được hưởng các quyền lợi đầu tư theo quy định của pháp luật.

– Giá trị khoản đầu tư: 4.000.000.000 đồng (bốn tỷ đồng).

– Thời hạn hợp tác áp dụng với Khoản đầu tư là 01 năm từ ngày 28.02.2022 đến ngày 28.02.2023.

– Phân chia kết quả kinh doanh: lợi nhuận cố định áp dụng và tính trên khoản đầu tư là 11.0%/năm (trên cơ sở tính 1 năm là 365 ngày), tính từ ngày Bên B chuyển đủ khoản giá trị khoản đầu tư đến ngày Bên B nhận lại khoản đầu tư gốc.

– Thời điểm chi trả lợi nhuận cố định: 03 tháng

– Mục tiêu Dự án đầu tư: Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long địa chỉ tại Hà Nội.

Thực hiện Hợp đồng, ngày 28.02.2023 ông Dũng đã nộp 4.000.000.000 đồng (bốn tỷ đồng) vào tài khoản của KSF tại Ngân hàng TMCP Kiên Long. Sau đó ông nhận được Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 do KSF phát hành.

Quá trình thực hiện hợp đồng, ông đã nhận được 02 lần lợi nhuận cố định cụ thể:

Lần 1, nhận ngày 30.5.2022, số tiền là 104.213.699 đồng; lần 2 nhận ngày 29.8.2022 số tiền là 104.213.699 đồng. Ngoài các lần trên, kể từ ngày 28.11.2022 đến nay ông không nhận được số tiền lợi nhuận cố định theo thỏa thuận của Hợp đồng nữa. Thời điểm ngày 28.11.2022, ông đã đề nghị KSF thực hiện điều 3.3 và Phụ lục 2 của Hợp đồng, chấp nhận trả phí rút một phần hoặc rút hết vốn, nhưng không được KSF trả lời, ông đến văn phòng công ty để làm việc nhưng bị bảo vệ chặn ở tầng 1 không cho gặp người có thẩm quyền của KSF.

Hết thời hạn hợp tác theo quy định của Hợp đồng, ngày 28.02.2023 ông có yêu cầu công ty hoàn trả lại vốn thông qua ứng dụng KSFInvest (là ứng dụng mà điều khoản 5.2,5.5 của Hợp đồng quy định) và có gọi điện cho nhân viên tư vấn (cô Hiền) nhưng không được trả lời và cũng không nhận lại được vốn. Đến ngày 16.8.2023, ông nhận được tin nhắn tự động của KSF về việc gia hạn và chuyển đổi hợp đồng đặt mua, sở hữu bất động sản thương hiệu Sunshine, có số điện thoại liên hệ qua tổng đài 1900633566 nhưng không thể liên hệ. Và từ đó đến nay KSF không liên hệ và không trả tiền vốn cho ông theo thỏa thuận của Hợp đồng.

Về mục đích sử dụng vốn hợp tác kinh doanh theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH 00043184 và Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH 00043184: Tại Điều 1.1 Phần B (các điều kiện chính của hợp đồng) có nội dung: Bên B (Ngô Quang Dũng) đồng ý góp vốn và Bên A (Công ty cổ phần đầu tư KSFinance) đồng ý nhận và quản lý phần góp vốn của Bên B để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án theo Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thỏa thuận tại Hợp đồng này phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, tại mục 5 Phần A của hợp đồng lại thỏa thuận về Mục tiêu Dự án đầu tư là Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long. Điều này tiếp tục được khẳng định tại mục 3 Giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 (dự án đầu tư: ITLH00043184) sau khi KSF nhận vốn góp của ông. Như vậy, KSF có trách nhiệm thực hiện đúng cam kết là sử dụng khoản vốn góp hợp tác đầu tư của ông để đầu tư cho Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long. Lý do: các điều kiện riêng của hợp đồng luôn có giá trị cao hơn các điều kiện chung của hợp đồng . Hơn nữa, giấy chứng nhận đầu tư không thể hiện KSF được sử dụng vốn của ông vào các mục đích kinh doanh khác.

Quá trình giải quyết vụ án, KSF cung cấp tài liệu chứng cứ về Dự án do Công ty cổ phần đầu tư Xuân La với KSF trong đó có Hợp đồng dịch vụ Tư vấn và Môi giới Bất động sản số 2012/HDDV/XUANLA-KSF, nội dung: Công ty KSF cung cấp dịch vụ tư vấn, quản lý bất động sản, dịch vụ truyền thông maketing, dịch vụ môi giới cho Công ty cổ phần đâu tư xây dựng Xuân La tại Dự án xây dựng nhà ở thấp tầng tại ô đất TT6 – 2 thuộc quy hoạch chi tiết Khu chức năng đô thị Tây Tựu, phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội (do Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Xuân La làm chủ đầu tư theo Văn bản số 2224/UBND – SXD ngày 05.6.2020 của UBND Thành phố Hà Nội). Tuy nhiên không có căn cứ pháp lý cũng như căn cứ nội bộ của công ty Cổ phần đầu tư Xuân La cho thấy Dự án nêu trên là Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long. Trường hợp giả định Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long là tên thương mại của Dự án do Công ty cổ phần đầy tư xây dựng Xuân La làm chủ đầu tư thì:

– Tại Hợp đồng dịch vụ Tư vấn và Môi giới bất động sản số 2012/HDDV/XUANLA –KSF, Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Xuân La không cho phép Công ty KSF huy động vốn cho Dự án; KSF không cũng không có quyền/nghĩa vụ/trách nhiệm được/bắt buộc phải góp vốn đầu tư với Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Xuân La. Tại Điều 3.c quy định rõ “không quy định nào trong Hợp đồng này được hiểu là bên A ủy quyền cho Bên B để thu bất kỳ khoản tiền nào của khách hàng”.

– Tại Điều 4.12 của Hợp đồng dịch vụ Tư vấn và Môi giới Bất động sản chỉ quy định cho Bên B (KSF) có quyền ký các hợp đồng, Phụ lục hợp đồng liên kết/hợp tác/phân phối các văn bản thương thảo, các giao dịch phát sinh với Đại lý (là đơn vị khác có chức năng phù hợp tham gia thực hiện một phần/toàn bộ dịch vụ tại Hợp đồng này) liên quan đến hoạt động truyền thông maketing, kinh doanh, môi giới bất động sản tại các Dự án của Bên A (Công ty cổ phần đầu tư Xuân La).

Như vậy, không có căn cứ để cho rằng KSF đã sử dụng vốn đầu tư của ông cho Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long.

Mặt khác, có dấu hiệu gian dối của Ban lãnh đạo KSF chiếm dụng vốn, nay mất khả năng thanh toán, gây thiệt hại 100% giá trị hợp đồng cho nhà đầu tư: bằng việc đưa ra nhu cầu huy động vốn hợp tác kinh doanh cho Dự án Sunshine Capital Tây Thăng Long một cách mập mờ, không có căn cứ hợp pháp, không có mối liên hệ về đầu tư vốn hợp pháp, Ban lãnh đạo của KSF đã cam kết sử dụng vốn đúng mục đích, với mức lợi nhuận cố định 11%/năm, cam kết ông được linh hoạt rút vốn đầu tư trước hạn…nhằm thu tiền để sử dụng cho các mục đích bất hợp pháp không theo thỏa thuận hợp đồng, không thanh toán lợi nhuận và tiền gốc đầu tư theo cam kết. Mặc dù ông đã liên tục yêu cầu thanh toán, nhưng KSF không thanh toán lợi nhuận, không thanh toán tiền gốc khi kết thúc thời hạn hợp đồng, gây thiệt hại rất lớn về kinh tế cho ông là 100% giá trị góp vốn đầu tư và hơn 50% giá trị lợi nhuận cố định, tiếp tục chiếm dụng vốn thời điểm hiện nay. Đến nay, KSF mất khả năng thanh toán, không lý giải được tiền góp vốn đầu tư của ông được sử dụng vào mục đích gì, không cam kết về thời hạn hoàn trả tiền gốc góp vốn và tiền lãi theo cam kết. Ông đề nghị Tòa án đánh giá có hay không hành vi phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật và quyết định chuyển vụ án đến cơ quan chức năng xử lý theo quy định để bảo vệ an toàn cho các nhà đầu tư, kịp thời ngăn chặn việc tiếp tục coi thường pháp luật, lợi dụng lòng tin của các nhà đầu tư để trục lợi và đề nghị Tòa án nhanh chóng đưa vụ án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Đối với lời khai của KSF với nội dung: “Khi phát sinh vấn đề trên, KSF đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với ông Ngô Quang Dũng để tháo gỡ khó khăn. Đồng thời, KSFinance cũng đã hết sức nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm quyền lợi của khách hàng” ông Dũng bác bỏ hoàn toàn lời khai này. Trong thời gian đó, khi ông và nhiều khách hàng khác đến trụ sở tại số 16, đường Phạm Hùng thì Công ty cử người chặn ngay từ cửa tầng 1, gọi điện cho nhân viên tư vấn thì được hướng dẫn lòng vòng sang các số điện thoại khác, không thể gặp trực tiếp được ai. Đến tháng 8 năm 2023 ông nhận được các tin nhắn tự động từ tổng đài của KSF hướng dẫn về việc chuyển đổi bất động sản, ngoài ra không gặp bất kỳ ai hướng dẫn tháo gỡ khó khăn như lời khai của bị đơn.

Đối với đề nghị của bị đơn về việc xem xét Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án, nguyên đơn có ý kiến như sau: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân là đúng thẩm quyền, tại thời điểm nộp đơn khởi kiện thì bị đơn đang có trụ sở tại quậnThanh Xuân, Tòa án quận Thanh Xuân đã có Thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí ngày 20.10.2023, ngày 23.10.2023 Tòa án thụ lý vụ án, ngày 27.10.2023, bị đơn mới có thông báo về việc chuyển trụ sở, thông báo này chỉ gửi cho Tòa án chứ không gửi cho nguyên đơn nên nguyên đơn không thể biết được. Do vậy ông đề nghị Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Đối với thư bảo lãnh ngày 28.02.2022 của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine đối với Bên bảo lãnh là Công ty cổ phần đầu tư KSFinance để bảo lãnh không hủy ngang cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh phát sinh từ Hợp đồng hợp tác đầu tư số ITLH00043184 ngày 28.02.2022, ông Ngô Quang Dũng (bên nhận bảo lãnh) không yêu cầu Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Ngô Quang Dũng yêu cầu Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân giải quyết: Yêu cầu Công ty KSF thanh lý hợp đồng đã ký giữa hai bên và hoàn trả số tiền lợi nhuận cố định theo thỏa thuận của Hợp đồng, cụ thể:

  • Số tiền gốc đã đầu tư: 4.000.000.000 đồng (bốn tỷ đồng).
  • Số tiền lợi nhuận cố định tính đến ngày 28.2.2023 là: 207.282.192 đồng.
  • Lãi quá hạn theo quy định của pháp luật đối với số tiền 4.000.000.000 đồng từ 01.3.2023 đến ngày 21.12.2023.*Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Vũ Nghị Lực trình bày:

    Trong năm 2022, KSF và ông Ngô Quang Dũng có thỏa thuận ký kết các Hợp đồng hợp tác kinh doanh với các nội dung cơ bản như sau:

    – Mục đích hợp tác kinh doanh: Ông Ngô Quang Dũng đồng ý góp vốn và KSF đồng ý nhận và quản lý phần vốn góp của ông Ngô Quang Dũng để thực hiện hoạt động kinh doanh tại các dự án và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái với các quy định của pháp luật, nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận và kết quả đạt được theo thỏa thuận tại hợp đồng hợp tác kinh doanh này. Cụ thể, tại Hợp đồng hợp tác kinh doanh đã ký, ông Ngô Quang Dũng được hưởng lợi nhuận cố định là 11%/năm tính trên giá trị Khoản đầu tư.

    – Thời hạn hợp tác: 01 năm
    – Số tiền ông Dũng đã nộp vào KSF: 4.000.000.000 đồng (bốn tỷ đồng). Thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh nêu trên, KSF đã nhận các

    Khoản đầu tư của ông Ngô Quang Dũng và thực hiện các hoạt động kinh doanh theo thỏa thuận tại các hợp đồng đã ký.

    Tuy nhiên, trong giai đoạn từ Quý IV năm 2022 đến nay, do sự suy thoái chung của nền kinh tế toàn cầu, thị trường bất động sản trong nước đóng băng, chính sách siết chặt tín dụng của các Ngân hàng … đã khiến cho các công ty bất động sản gặp rất nhiều khó khăn (không chỉ riêng KSF và các Chủ đầu tư dự án bất động sản mà KSF có quan hệ hợp tác, đầu tư), trực tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn thu và dòng tiền của KSF.

    Do đó, khi đến hạn hoàn trả giá trị Khoản đầu tư và Lợi nhuận cố định theo các Hợp đồng hợp tác đầu tư, KSF chưa có khả năng thanh toán ngay cho ông Ngô Quang Dũng theo đúng thỏa thuận.

    Khi phát sinh vấn đề trên, KSF đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với ông Ngô Quang Dũng để tháo gỡ khó khăn. Đồng thời, KSFinance cũng đã hết sức nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm quyền lợi của khách hàng. Cụ thể, trong thời gian vừa qua, công ty đã đề xuất khách hàng cảm thông và xem xét các phương án giải quyết như sau:

    1. Gia hạn thời gian thực hiện Hợp đồng thêm 24 tháng để Công ty có thể thu xếp nguồn tiền hợp lý chi trả, đồng thời Khách hàng sẽ được nhận thêm một khoản lợi nhuận bổ sung theo thỏa thuận của các bên.

    2. Chuyển đổi giá trị khoản tiền đầu tư sang thành khoản thanh toán các bất động sản khác đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và ký kết Hợp đồng mua bán với Chủ đầu tư, tại các Dự án: Sunshine Green Iconic, Sunshine Golden River, Sunshine Sky City, Sunshine Diamond River, Sunshine Capital Tây Thăng Long, Sunshine City, Sunshine Garden, Sunshine Palace…

Tuy nhiên đến nay, Nguyên đơn và KSF vẫn chưa đạt được sự đồng thuận. Đề nghị: Tòa án xem xét, tiếp tục tạo điều kiện cho các bên được thương lượng, trao đổi về các phương án giải quyết vụ việc trên tinh thần thiện chí; chia sẻ và hỗ trợ cho KSF có thêm thời gian thu hồi các khoản đầu tư và các nguồn thu khác, để sớm có khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với ông Ngô Quang Dũng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Ngô Quang Dũng đối với Công ty cổ phần đầu tư KSFinance.

Xác nhận Công ty cổ phần đầu tư KSFinance còn nợ ông Ngô Quang Dũng theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 tổng số tiền nợ gốc, lợi nhuận cố định và lãi là 4.681.972.602 đồng, trong đó nợ gốc là 4.000.000.000 đồng, lợi nhuận cố định là 220.602.739 đồng, nợ lãi là 461.469.863 đồng.

Buộc Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải trả cho ông Ngô Quang Dũng tổng số tiền nợ gốc, lợi nhuận cố định và lãi là 4.681.972.602 đồng đồng.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE, kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE đề nghị Hủy bản án sơ thẩm do vi phạm thẩm quyền xét xử vụ án.

Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn vắng mặt tại phiên toà. HĐXX công bố lời khai của nguyên đơn.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS- ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

2. Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng giữa cá nhân và doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh, là tranh chấp theo quy định tại Khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Theo Khoản 8.2 Điều 8 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 thì khi phát sinh tranh chấp, hai bên có quyền đưa vụ việc ra Tòa án nơi bên A đặt trụ sở chính để giải quyết. Tại thời điểm nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì bị đơn đang có trụ sở tại quận Thanh Xuân, Tòa án quận Thanh Xuân đã có Thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí ngày 20.10.2023, ngày 23.10.2023 (cũng là ngày nguyên đơn chuyển trụ sở) Tòa án thụ lý vụ án, ngày 27.10.2023, bị đơn mới có thông báo về việc chuyển trụ sở, thông báo này chỉ gửi cho Tòa án sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án và không gửi cho nguyên đơn nên nguyên đơn không thể biết được bị đơn đã chuyển trụ sở.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 39 BLTTD: Trường hợp vụ án dân sự đã được Toà án thụ lý và đang giải quyết theo đúng quy định của Bộ luật này về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ thì phải được Toà án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch của đương sự. Do đó Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân giải quyết vụ kiện là đúng quy định. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn về nội dung này.

3. Về nội dung:

Ngày 28.02.2022, giữa ông Ngô Quang Dũng và KSF ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022, mục đích hợp tác kinh doanh là ông Ngô Quang Dũng đồng ý góp vốn và Công ty cổ phần đầu tư KSFinance đồng ý nhận và quản lý phần góp vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái với quy định của pháp luật nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thỏa thuận tại Hợp đồng này phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan.

Thực hiện Hợp đồng với KSF, ngày 28.02.2022, ông Dũng đã nộp 4.000.000.000 đồng vào tài khoản số 95119899 của KSF tại Ngân hàng Kiên Long (theo Giấy nộp tiền ngày 28.02.2022) và được KSF cấp giấy chứng nhận đầu tư số ITLH00043184 ngày 28.02.2022. Cùng ngày, Công ty cổ phần tập đoàn Sunrise phát hành thư bảo lãnh để bảo lãnh không hủy ngang cho nghĩa vụ của Bên được bảo lãnh (Công ty cổ phần đầu tư KSFinance) phát sinh từ Hợp đồng hợp tác.

Quá trình thực hiện hợp đồng, KSF đã thực hiện việc trả lợi nhuận cố định cho ông Dũng được 02 lần vào ngày 30.5.2022 và ngày 29.8.2022, tổng số tiền đã trả là 208.427.398 đồng (đã trừ 5% thuế thu nhập). Từ sau ngày 29.8.2022, KSF không thực hiện việc chi trả lợi nhuận cố định cho ông Dũng nữa. Ngày 28.11.2022, ông Dũng đến KSF để yêu cầu thực hiện việc rút một phần hoặc rút hết vốn theo quy định của hợp đồng nhưng không được KSF chấp nhận. Hết thời hạn thực hiện hợp đồng, ông Dũng yêu cầu KSF thanh lý hợp đồng nhưng KSF không thanh toán cả gốc và lợi nhuận cố định theo đúng cam kết của hợp đồng. Hai bên cũng không ký gia hạn hợp đồng hoặc các phụ lục khác về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc chuyển đổi hình thức đầu tư.

Tại các buổi hòa giải, bị đơn KSF đưa ra các phương án giải quyết như gia hạn thực hiện hợp đồng thêm 24 tháng hoặc chuyển đổi giá trị khoản đầu tư sang thành khoản thanh toán các bất động sản khác đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh nhưng nguyên đơn không đồng ý. Theo hợp đồng thỏa thuận ngày hết hạn là ngày 28.02.2023. Như vậy có đủ cơ sở xác định Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 giữa ông Ngô Quang Dũng và Công ty cổ phần đầu tư KSFinance đã hết thời hạn và chấm dứt hiệu lực từ ngày 01.3.2023. Tại phiên tòa bị đơn cũng đồng ý thanh toán cho ông Dũng toàn bộ số tiền gốc ban đầu là: 4.000.000.000 đồng. Theo điểm 3.1 Điều 3 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 và quy định của pháp luật buộc KSF phải thanh toán số tiền gốc 4.000.000.000 đồng cho ông Dũng là có căn cứ. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của ông Dũng buộc KSF phải trả cho ông Dũng số tiền gốc là: 4.000.000.000 đồng.

Đối với yêu cầu buộc bị đơn thanh toán tiền lợi nhuận cố định từ ngày 29.8.2022 đến ngày 28.02.2023, lãi suất 11%/năm là 220.602.739 đồng. Nhận thấy:

Tại mục 3 phần A – Thông tin chung của Hợp đồng quy định: “Phân chia kết quả kinh doanh: lợi nhuận cố định áp dụng và tính trên khoản đầu tư là 11.0%/năm (trên cơ sở một năm bằng 365 ngày), tính từ ngày bên B chuyển đủ giá trị khoản đầu tư đến ngày bên B nhận lại khoản đầu tư gốc (LNCĐ).

Thỏa thuận về lãi 11%/năm là phù hợp quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự do vậy là hợp pháp, được chấp nhận.

Tại điểm 3.1 hợp đồng quy định quyền của bên B: “ được hoàn lại giá trị của khoản đầu tư và lợi nhuận cố định khi hết thời hạn hoặc khi có yêu cầu của bên B”.

Như vậy, theo thỏa thuận của hợp đồng, lợi nhuận cố định sẽ được tính từ ngày ông Dũng nộp tiền vào KSF (ngày 28.02.2022) cho đến ngày hợp đồng hết hạn. Như đã phân tích, Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 đã hết thời hạn từ ngày 01.3.2023. KSF đã thanh toán lợi nhuận cố định cho ông Dũng được 02 kỳ (kỳ 1 ngày 30.5.2022 và kỳ 2 ngày 29.8.2022), còn 02 kỳ chưa thanh toán (kỳ 3 ngày 28.11.2022 và lợi nhuận cuối kỳ). Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn cũng đồng ý nhất trí thanh toán cho nguyên đơn số tiền lợi nhuận cố định của 02 kỳ còn thiếu là 220.602.739 đồng. Do vậy, bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán số tiền lợi nhuận cố định của 02 kỳ còn thiếu là 220.602.739 đồng là đúng quy định.

Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán số tiền lãi chậm trả trên số tiền nợ gốc 4.000.000.000 đồng tính từ ngày 01.3.2023 đến ngày 25.4.2024, lãi suất là 10%/năm, nhận thấy:

Theo hợp đồng, KSF được sử dụng phần vốn góp của ông Ngô Quang Dũng từ ngày 28.02.2022 đến ngày 28.02.2023, hết thời hạn trên, do KSF không thanh toán gốc nên phải chịu lãi trên nợ gốc quá hạn theo quy định tại Điều 357 và 468 Bộ luật dân sự. Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp nên chấp nhận, buộc KSF phải thanh toán cho ông Ngô Quang Dũng tiền lãi trên nợ gốc trên số tiền 4.000.000.000 đồng, lãi suất 10%, thời gian từ ngày 01.3.2023 đến ngày 25.4.2024 tương đương 421 ngày, số tiền là 461.369.863 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn cũng nhất trí thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền lãi tạm tính đến ngày 25/4/2024 là 461.369.863 đồng. Vì vậy, bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền lãi là 461.369.863 đồng là đúng quy định.

Như vậy, tổng số tiền KSF phải thanh toán cho ông Ngô Quang Dũng là: 4.681.972.602 đồng.

Đối với thư bảo lãnh ngày 28.02.2022 của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine đối với Bên bảo lãnh là Công ty cổ phần đầu tư KSFinance để bảo lãnh không hủy ngang cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh phát sinh từ Hợp đồng hợp tác đầu tư số ITLH00043184 ngày 28.02.2022, do ông Ngô Quang Dũng (bên nhận bảo lãnh) không yêu cầu Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nên Tòa án không xem xét giải quyết. Giành quyền khởi kiện giải quyết về việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho các đương sự bằng vụ án khác khi các bên có yêu cầu.

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, bị đơn Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Ngô Quang Dũng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 25/4/2024 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ:
– Điều 357, 385, 422, 429, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự 2015;
– Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11.01.2019 của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

– Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Quang Dũng đối với Công

ty cổ phần đầu tư KSFinance.
Xác nhận Công ty cổ phần đầu tư KSFinance còn nợ ông Ngô Quang

Dũng theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00043184 ngày 28.02.2022 tổng số tiền nợ gốc, lợi nhuận cố định và lãi là 4.681.972.602 đồng, trong đó nợ gốc là 4.000.000.000 đồng, lợi nhuận cố định là 220.602.739 đồng, nợ lãi là 461.469.863 đồng (tạm tính đến ngày 25/4/2024).

Buộc Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải trả cho ông Ngô Quang Dũng tổng số tiền nợ gốc, lợi nhuận cố định và lãi là 4.681.972.602 đồng đồng.

2. Giành quyền khởi kiện giải quyết về việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh ngày 28.02.2022 của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine cho các đương sự bằng vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

3.Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, đối trừ vào số tiền dự phí kháng cáo đã nộp tại Biên lai thu số 0036117 ngày 16/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty cổ phần đầu tư KSFinance phải chịu 112.670.844 đồng án phí dân sự sơ thẩm (chưa nộp).

Hoàn trả ông Ngô Quang Dũng số tiền 56.000.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0012536 ngày 23/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

– VKSND Thành phố Hà Nội;
– TAND quận Thanh Xuân
– Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân;
– Các đương sự;
– Lưu văn phòng;
– Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Trần Thị Liên Anh

Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án

(LĐ&PL) Trao đổi với PV Báo Lao động Thủ đô, Luật sư Trần Văn Sáng, Công ty Luật TNHH Hiệp Thành cho rằng: “Đã hơn 03 tháng qua kể từ khi xảy ra vụ án, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa tiến hành trưng cầu giám định đối với người đã chết và những người bị thương là chưa đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như nhanh chóng xử lý những sai phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan”. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn.

PV: Văn bản số 587 ngày 3/3/2023 của Bệnh viện Bạch Mai cho biết, trong số những công nhân bị nhiễm độc methanol khi làm việc tại Công ty TNHH HS Tech Vina (Công ty HS Tech Vina) thì 1 người đã tử vong, 4 người tiên lượng di chứng mù và 1 người tiên lượng di chứng nặng với não (rối loạn ý thức, rối loạn vận động). Thưa luật sư, như vậy có thể coi đó là vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hay chưa? Và cơ quan nào chịu trách nhiệm tiến hành điều tra vụ việc? (Sở lao động Thương binh và xã hội Bắc Ninh hay Công an thị xã Thuận Thành?).

Luật sư Trần Văn Sáng: Để trả lời cho câu hỏi đây có phải là vụ tai nạn lao động hay không? Đặc biệt nghiêm trọng không? Thì trước hết, chúng ta cần xác định tai nạn lao động là gì?

Theo quy định tại khoản 8, Điều 3 – Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 thì tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.

Như vậy, theo quy định này, thì sự việc 35 công nhân bị nhiễm độc methanol trong quá trình làm việc tại xưởng sản xuất của Công ty HS Tech Vina đủ điều kiện để coi là một vụ tai nạn lao động.

Tiếp theo, để xác định mức nghiêm trọng của vụ tai nạn lao động này thì cần phải có con số thống kê số người chết hay tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những lao động thì mới có thể nhận định vụ án ở mức nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng được. Khi có con số thông kê cụ thể, đối chiếu với quy định tại điểm a, khoản 1, khoản 5 Điều 295 – Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 97, Điều 1, Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2017 quy định về tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người thì cơ quan chức năng có thể xác định được mức nghiêm trọng của vụ tai nạn.

Còn về thẩm quyền điều tra vụ việc. Theo điểm b, khoản 2, Điều 11 – Nghị định 39/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ hướng dẫn Luật An toàn, vệ sinh lao động thì trước hết thẩm quyền điều tra thuộc Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và xã hội của địa phương nơi xảy ra tai nạn. Trong trường hợp này là Thanh tra Sở LĐ-TB& XH tỉnh Bắc Ninh Quy định cụ thể như sau:

Điều 11. Quyết định thành lập Đoàn Điều tra tai nạn lao động

2. Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh

a) Khi nhận được tin báo xảy ra tai nạn làm chết người hoặc làm từ 02 người bị tai nạn nặng trở lên thuộc thẩm quyền Điều tra, Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cử người đến hiện trường trong thời hạn 02 giờ và thông báo cho các cơ quan cử người tham gia Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh.”.

Trong trường hợp tai nạn lao động có dấu hiệu hình sự, Đoàn Điều tra tai nạn lao động cần phối hợp với cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra vụ tai nạn lao động.

Cụ thể, theo điểm a, b khoản 1 Điều 20 Nghị định 39/2016/NĐ-CP ngày

15/5/2016 của Chính phủ hướng dẫn Luật An toàn, vệ sinh lao động quy định như sau:

Điều 20. Phối hợp Điều tra tai nạn lao động chết người và tai nạn lao động khác có dấu hiệu tội phạm

1. Việc phối hợp Điều tra tai nạn lao động chết người thực hiện như sau:

a) Khi phát hiện hoặc nhận được tin báo tai nạn lao động chết người, Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Cảnh sát Điều tra có thẩm quyền Điều tra ban đầu thực hiện việc sau đây: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, thu thập hồ sơ và tài liệu liên quan; đồng thời thông báo cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi;

b) Cơ quan đến nơi xảy ra tai nạn lao động trước có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đến sau (cơ quan Cảnh sát Điều tra thông báo cho Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh thông qua Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội). Sau khi thông báo, nếu Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh chưa đến kịp, cơ quan Cảnh sát Điều tra vẫn tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, thu thập hồ sơ và tài liệu liên quan theo quy định của pháp luật và có trách nhiệm thông báo cho Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh những công việc mà cơ quan Cảnh sát Điều tra đã tiến hành thuộc phạm vi quan hệ phối hợp quy định tại Điểm a Khoản này;”.

Như vậy, đối với vụ việc tai nạn lao động mà có dấu hiệu hình sự, thì thẩm quyền điều tra sẽ là Cơ quan Cảnh sát điều tra nơi xảy ra vụ việc tai nạn.

Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án
Luật sư Trần Văn Sáng – Công ty Luật TNHH Hiệp Thành (Đoàn luật sư TP Hà Nội)

PV: Thưa luật sư, sự việc đã xảy ra hơn 3 tháng, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa khởi tố vụ án, chưa đưa những công nhân bị nhiễm độc methanol nặng đi giám định thì liệu có bất thường hay không?

Luật sư Trần Văn Sáng: Theo chúng tôi đánh giá vụ việc này ở mức độ rất nghiêm trọng khi có tới 35 người nhiễm độc methanol, trong đó có người chết và nhiều người khác bị thương nặng. Do đó, các cơ quan Điều tra cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn khác, đặc biệt là về lĩnh vực Y tế để xác định rõ nguyên nhân dẫn đến chết người, gây ra mức tổn hại sức khỏe đối với người lao động nhằm đảm bảo xử lý đúng quy định của pháp luật, đúng người đúng tội.

Khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định. Các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định theo khoản 3 và 4, Điều 206 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bao gồm: Nguyên nhân chết người; Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động.

Bên cạnh đó, theo điểm b và c, khoản 1, Điều 208 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thời hạn giám định như sau:

“Điều 208. Thời hạn giám định

1. Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:

b) Không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 206 của Bộ luật này;

c) Không quá 09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 của Bộ luật này.”.

Theo đó, liên quan đến vấn đề chết người, mức tổn hại cho sức khỏe thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định. Thời gian giám định đối với trường hợp chết người không quá 01 tháng và không quá 09 ngày đối với tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động.

Tuy nhiên, đã hơn 03 tháng qua kể từ khi xảy ra vụ án, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa tiến hành trưng cầu giám định đối với người đã chết và những người bị thương là chưa đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như nhanh chóng xử lý những sai phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan. Do đó, cần đẩy nhanh việc thực hiện điều tra sớm kết quả vụ án và qua đó cần xác định nguyên nhân, mức độ tổn thương đối với những người lao động bị nhiễm độc methanol.

PV: Theo tìm hiểu của PV, trong số những người bị nhiễm độc methanol, nhiều công nhân là người dân tộc thiểu số, có người mới 16 tuổi, phần lớn trong số họ không ký hợp đồng trực tiếp với công ty HS Tech Vina mà được các công ty tuyển dụng lao động đưa vào công ty HS Tech Vina làm việc, họ cũng không được ký hợp đồng với các công ty này. Thưa luật sư, vậy Công ty HS Tech Vina hay các công ty kia phải chịu trách nhiệm với những người công nhân bị nhiễm độc methanol?

Luật sư Trần Văn Sáng: Đầu tiên, cần làm rõ vai trò của các công ty tuyển dụng người lao động đưa vào làm việc tại Công ty TNHH HS Tech Vina. Họ là đơn vị giới thiệu người lao động hay thực hiện cung ứng (cho thuê lại) người lao động để làm rõ trách nhiệm trong vụ việc này. Các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải xác định vai trò của Công ty đã giới thiệu người lao động để xem xét trách nhiệm với những người công nhân bị nhiễm độc methanol.

Thứ nhất, về đảm bảo quy định pháp luật lao động của người sử dụng lao động đối với người lao động. Theo thông tin đăng tải, người lao động được đưa vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina mà không được ký Hợp đồng lao động với Công ty HS Tech Vina hay Công ty cung ứng lao động – đơn vị đưa họ vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina là không đúng với quy định tại khoản 2, Điều 13 – Bộ luật Lao động năm 2019. Đồng thời, người sử dụng lao động không ký hợp đồng lao động bằng văn bản với người lao động là vi phạm quy định tại Điều 14 – Bộ luật Lao động năm 2019. Vì trường hợp này không thuộc trường hợp được giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.

Đối với hành vi vi phạm này, đơn vị sử dụng lao động có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 9 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/10/2022 của Chính Phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với mức tiền phạt cao nhất là 25 triệu đồng.

Thứ hai, về trách nhiệm đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.

Điều 134 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc như sau:

“Điều 134. Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc

1. Người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.

2. Người lao động có trách nhiệm chấp hành quy định, nội quy, quy trình, yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động; tuân thủ pháp luật và nắm vững kiến thức, kỹ năng về các biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.”

Như vậy, Công ty TNHH HS Tech Vina có trách nhiệm đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc, cụ thể là nhà máy, phân xưởng sản xuất theo đúng quy định của pháp luật yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động.

Khi Công ty HS Tech Vina có vi phạm trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc có thể bị xử lý vi phạm hành chính quy định tại Nghị định số 12/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng.

Ngoài ra, hành vi của Công ty có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người” quy định tại Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

PV: Một số người nhà nạn nhân của vụ nhiễm độc methanol cho biết, họ được Công ty HS Tech đưa tiền (có người vài triệu có người hàng trăm triệu) nhưng phải ký vào giấy những nội dung cam kết như tự chịu trách nhiệm về sức khỏe sau này hoặc không được khiếu kiện. Thưa luật sư, việc làm đó có phù hợp với quy định của pháp luật hay không?

Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án
Một công nhân làm việc tại Công ty HS Tech Vina bị nhiễm methanol rất nặng

Luật sư Trần Văn Sáng: Về trách nhiệm dân sự, cụ thể là bồi thường thiệt hại các bên chủ thể có quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận về mức bồi thường. Trường hợp Công ty HS Tech Vina và các Công ty cung ứng, giới thiệu người lao động vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina trao đổi, thỏa thuận và thống nhất về mức bồi thường, số tiền cụ thể bồi thường là phù hợp với nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong dân sự.

Về trách nhiệm hình sự, việc Công ty HS Tech Vina có dấu hiệu vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động mà mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì việc xử lý trách nhiệm hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan Nhà nước (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án).

Tóm lại, về trách nhiệm dân sự, các bên chủ thể có thể thỏa thuận với nhau về số tiền bồi thường thiệt hại; về trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm không thể thỏa thuận, nếu hành vi có mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu, xử lý trách nhiệm hình sự thì chủ thể thực hiện buộc phải chịu trách nhiệm pháp lý này.

PV: Vâng, xin cảm ơn luật sư về cuộc trao đổi này. Xin chúc luật sư thật nhiều sức khỏe. Trân trọng cảm ơn!

Để hiểu rõ thêm về vụ việc, chúng tôi đã làm việc với ông Nguyễn Quang Huy, Đội trưởng đội Điều tra tổng hợp- Công an Thị xã Thuận Thành. Suốt buổi làm việc, những câu hỏi chúng tôi đặt ra như: Cồn methanol nhập từ đâu, có đảm bảo chất lượng hay không, ai là người chỉ định đưa cồn methanol vào sản xuất? Những công nhân bị nhiễm độc methanol có được Công ty HS Tech Vina ký hợp đồng lao động và đóng bảo hiểm hay không? Tuy nhiên ông Huy chỉ trả lời chung chung: “Ngay sau khi nhận được tin báo Công ty HS Tech Vina xẩy ra tai nạn, Công an thị xã Thuận thành đã tiến hành các biện pháp theo quy định của pháp luật. Khi nào có kết quả cụ thể sẽ thông tin theo quy định”.

Đến ngay cả những câu hỏi của chúng tôi đưa ra mà “nhắm mắt cũng có thể trả lời được” như: Ngoài trường hợp chị H bị tử vong, có những trường hợp khác được BV Bạch Mai chẩn đoán là bị nhiễm độc methanol nặng có thể bị mù, Công an Thị xã Thuận Thành đã đưa đi giám định thương tật chưa? Đã khởi tố vụ án hay chưa?…thì ông Huy vẫn chỉ một mực nói: “Nội dung Báo Lao động Thủ đô đề nghị, do chưa có kết quả chính thức nên xin phép chúng tôi chưa phát ngôn”.

Theo Báo Lao động và Pháp luật.

Giao dịch bất động sản phải qua sàn: Nên thay bằng công chứng?

Việc giao cho sàn giao dịch xác nhận hợp đồng, giao dịch bất động sản là không đúng với bản chất độc lập trong việc thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công về phòng ngừa tranh chấp của Nhà nước.

LTS: Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) quy định bắt buộc một số giao dịch bất động sản phải thông qua sàn. Nhiều ý kiến đồng tình với quy định này nhưng cũng có người cho rằng đề xuất này là chưa hợp lý.

Để rộng đường dư luận, Pháp Luật TP.HCM xin giới thiệu bài viết của TS Ninh Thị Hiền; số báo sau, chúng tôi sẽ tiếp tục đăng tải các ý kiến khác xung quanh vấn đề này.

Từ năm 2014 đến nay, pháp luật không buộc phải công chứng, chứng thực đối với các giao dịch bất động sản (BĐS) của tổ chức kinh doanh BĐS mà tùy theo yêu cầu của các bên. Đây là một phần nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án liên quan đến giao dịch BĐS có số người bị hại lên đến vài ngàn người.

Tại dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và Luật Kinh doanh BĐS (sửa đổi) đang được lấy ý kiến nhân dân đã quy định: Chủ đầu tư bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, công trình xây dựng hình thành trong tương lai; chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS phải thực hiện thông qua sàn giao dịch BĐS.

Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) quy định chủ đầu tư bán nhà ở hình thành trong tương lai… phải thông qua sàn giao dịch bất động sản. 

Dự thảo cũng quy định xác nhận của sàn giao dịch BĐS đối với các giao dịch thông qua sàn là cơ sở để các chủ thể tham gia giao dịch kê khai nộp thuế cho Nhà nước, đăng ký biến động, sang tên quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất – tức là có giá trị như xác nhận trên hợp đồng của các tổ chức hành nghề công chứng hiện nay.

Có thể gây nên “bong bóng” BĐS

Theo dự thảo, sàn giao dịch BĐS là nơi tổ chức việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS; giới thiệu, kiểm tra giấy tờ về BĐS bảo đảm đủ điều kiện được giao dịch; niêm yết, cung cấp công khai thông tin về BĐS đủ điều kiện được đưa vào kinh doanh cho các bên tham gia có nhu cầu giao dịch; làm trung gian cho các bên trao đổi, đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua BĐS.

Mối quan hệ giữa chủ đầu tư dự án và sàn giao dịch BĐS được thực hiện thông qua hình thức chủ đầu tư thành lập ra sàn giao dịch BĐS để bán chính hàng hóa của mình, hoặc ký hợp đồng dịch vụ BĐS với sàn giao dịch BĐS, hoặc chủ đầu tư ủy quyền cho nhân viên môi giới BĐS của sàn giao dịch BĐS thực hiện.

Sàn giao dịch sẽ thực hiện nghĩa vụ của chính mình, thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có quyền hoặc bên ủy quyền. Khi đó, sàn sẽ được thu phí dịch vụ của chủ đầu tư hoặc khách hàng có BĐS được đưa lên sàn. Cá nhân môi giới BĐS được hưởng tiền thù lao, hoa hồng từ sàn.

Từ đây sẽ phát sinh mối quan hệ phụ thuộc giữa một bên giao việc và một bên thực hiện công việc nhằm đạt được mục đích của chủ đầu tư là bán hàng hóa càng nhiều thì tiền phí dịch vụ, thù lao, hoa hồng của sàn cũng như nhân viên môi giới sẽ càng tăng. Cá nhân môi giới, tư vấn BĐS sẽ quan tâm đến lợi ích tốt nhất của chủ đầu tư cũng như sàn giao dịch BĐS.

Bài học kinh nghiệm ở các quốc gia đã qua thời kỳ lạm phát và bong bóng BĐS chỉ ra rằng một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này xuất phát từ mối quan hệ phụ thuộc giữa sàn giao dịch BĐS, nhân viên môi giới, nhân viên tư vấn BĐS với chủ đầu tư.

Các nhân viên môi giới, tư vấn BĐS có thể gây nhầm lẫn hoặc không tiết lộ thông tin quan trọng, quảng cáo về sự đảm bảo tính thanh khoản của BĐS hay các vấn đề liên quan đến sự hoàn thiện về mặt vật lý cũng như pháp lý của BĐS nhằm chốt các giao dịch, cấp các khoản cho vay để đảm bảo doanh số bán hàng và kiếm tiền phí dịch vụ, thù lao và hoa hồng. Các nghĩa vụ mà chủ đầu tư áp đặt đối với các đại lý BĐS, các sàn giao dịch BĐS cũng có thể ảnh hưởng đến cách các nhân viên môi giới và tư vấn thực hiện nhiệm vụ của họ.

Cần một tổ chức độc lập

Hiện nay, tại Việt Nam nhân viên môi giới BĐS chỉ cần có trình độ tốt nghiệp THPT trở lên, đã qua sát hạch về kiến thức môi giới BĐS. Nhân viên tư vấn BĐS thì không xác định tiêu chuẩn như thế nào. Không có một văn bản pháp luật riêng biệt, một quy tắc đạo đức hành nghề, quy trình hay tiêu chuẩn ứng xử chuyên nghiệp của nhân viên môi giới và nhân viên tư vấn để có thể xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên nhằm bảo vệ người tiêu dùng.

Vì vậy, để đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ bên yếu thế cũng như góp phần minh bạch thông tin trong thị trường BĐS thì các giao dịch về BĐS cần phải có sự xác nhận của một bên hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc về mặt lợi ích với các chủ đầu tư kinh doanh BĐS. Có thể thấy vai trò này hiện nay đang do các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện.

Vậy nên chăng, thay vì yêu cầu phải thực hiện giao dịch qua sàn giao dịch BĐS như dự thảo đã nêu thì nên tăng cường, mở rộng phạm vi cho các tổ chức hành nghề công chứng bằng cách yêu cầu các giao dịch BĐS mà “một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh BĐS” cũng bắt buộc phải công chứng?

Công chứng tự nguyện hiện nay tại Việt Nam đối với các giao dịch về BĐS tự nó không thể giải quyết được công bằng xã hội, sự bất công, do nó tự sinh ra. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục đích và là động lực chi phối mạnh mẽ các hoạt động của các chủ thể, dẫn đến cạnh tranh gay gắt, kể cả thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Khi đó, bản chất độc lập trong hoạt động công chứng sẽ giúp kiểm tra, giám sát việc thực thi, chấp hành đúng pháp luật của chủ đầu tư, nhân viên môi giới, tư vấn BĐS để bảo vệ người yếu thế, đồng thời nhằm duy trì ổn định, trật tự để kinh tế phát triển.

Ngoài ra, vai trò phòng ngừa tranh chấp của hoạt động công chứng cũng tác động đến cách hành xử của người yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động giải thích và tư vấn pháp luật độc lập của công chứng viên (CCV), nhận thức của người người yêu cầu công chứng được nâng cao, họ tự hành xử cẩn thận hơn vì sợ trách nhiệm nếu tham gia vào các giao dịch gian dối.

Ở khía cạnh công bằng và trung thực, để có niềm tin từ công chúng, Nhà nước buộc CCV là người có trình độ cao, với tiêu chuẩn đào tạo, bồi dưỡng, quản lý khắt khe trong quá trình hành nghề, quy trình công chứng minh bạch, hoạt động nghề nghiệp độc lập, không thiên vị với các hành vi mà CCV soạn thảo và xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp. Các quy định này khiến CCV trở thành một “thẩm phán phòng ngừa” tự nguyện phục vụ các bên tham gia giao dịch chịu trách nhiệm quản lý giám sát của cơ quan chức năng và các bên để gìn giữ sứ mệnh phòng ngừa tranh chấp, bảo đảm minh bạch thông tin và công bằng xã hội.

Các nước quy định ra sao?

Tại Pháp, “mọi văn bản hay quyền để thực hiện các thủ tục đăng ký đất đai đều phải được thể hiện dưới hình thức văn bản công chứng do một CCV hành nghề tại Pháp lập, quyết định của tòa án hay một văn bản của cơ quan hành chính. Văn bản ký tư, có chữ ký hay không, ngay cả khi có công nhận chữ viết và chữ ký, được nộp tại lưu trữ của văn phòng công chứng đều không có giá trị để đăng ký đất đai…” (Điều 710 BLDS Pháp).

Trong khi đó, Điều 925 BLDS Đức quy định: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu thửa đất phải được công chứng, cho dù có hợp đồng sơ bộ nào được ký kết trong thực tế thì hợp đồng này cũng phải được công chứng, vì chức năng của hành vi công chứng là cung cấp lời khuyên pháp lý cho các bên trước khi họ bị ràng buộc. CCV phải xác nhận cho người mua về sự tồn tại của hầu hết điều kiện tiên quyết cần thiết. Hợp đồng chuyển quyền BĐS được đăng ký trong sổ đăng ký đất đai được thực hiện bởi CCV (Điều 55 Luật Đăng ký BĐS).

Còn tại Trung Quốc, một số hợp đồng yêu cầu phải công chứng như các hợp đồng chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê, xây dựng và phát triển liên quan đến BĐS thương mại, các hợp đồng liên quan đến nhà ở cho người nước ngoài sử dụng. Một số các hợp đồng về BĐS sẽ không được đăng ký nếu không có công chứng.

Theo Báo mới.

Điểm danh những thương hiệu của Thế giới Di động bị ‘khai tử’

Là doanh nghiệp bán lẻ thành công nhất thị trường nhưng không phải mô hình kinh doanh nào của Công ty CP Đầu tư Thế giới Di động cũng mang lại lợi nhuận. Vài năm gần đây, Thế giới Di động đã khai tử nhiều mô hình kinh doanh sau một thời gian không đạt hiệu quả như kỳ vọng.

Đóng Bluetronics vì thua lỗ triền miên

Trong buổi gặp gỡ nhà đầu tư vừa được tổ chức, ông Đoàn Văn Hiểu Em – Thành viên HĐQT Công ty CP Đầu tư Thế giới Di động (mã chứng khoán: MWG) – thông tin, sẽ quyết định ngừng kinh doanh ở Campuchia sau 6 năm hoạt động để tập trung vào những mô hình kinh doanh khác và những thị trường khác.

Tại Campuchia, Thế giới Di động có các cửa hàng Bluetronics – một mô hình tương tự như Điện Máy Xanh ở Việt Nam. Theo công bố của MWG, tính tới ngày 31/3/2022, Bluetronics có 44 cửa hàng ở Campuchia.

“Sau gần 6 năm hoạt động, MWG đã quyết định đóng toàn bộ cửa hàng Bluetronics tại thị trường Campuchia trong quý I/2023 để tập trung cho các thị trường khác như Indonesia và dồn lực cho các mô hình kinh doanh khác”, ông Hiểu Em nói.

Thế giới Di động quyết định ngừng kinh doanh các cửa hàng Bluetronics ở Campuchia sau 6 năm.

Công ty CP đầu tư Thế giới Di động tham gia thị trường Campuchia từ giữa năm 2017 khi mở cửa hàng điện thoại đầu tiên tại thủ đô Phnom Penh với tên gọi BigPhone. Sử dụng bộ nhận diện thương hiệu tương tự chuỗi bán lẻ tại Việt Nam, công ty kỳ vọng mỗi cửa hàng thuộc chuỗi này có doanh số 2 tỷ đồng/tháng.

Đến cuối năm 2019, BigPhone được đổi tên thành Bluetronics để kinh doanh điện thoại lẫn điện máy. Bluetronics khi đó được ban lãnh đạo Thế giới Di động xem là bàn đạp cho tham vọng xâm nhập thị trường bán lẻ Đông Nam Á.

Doanh thu của chuỗi liên tiếp tăng trưởng ba chữ số trong nhiều năm và đạt đỉnh gần 500 tỷ đồng vào 2021. Dù vậy, mức này đóng góp chưa đến 0,5% tổng doanh thu của công ty. Báo cáo tài chính quý IV/2022 cho thấy, Thế giới Di động tại Campuchia cũng lỗ liên tục từ 2017 đến nay. Trong đó năm 2021 và 2022 lỗ lớn nhất với 187 tỷ đồng và 330 tỷ đồng.

“Dọn dẹp” chuỗi AvaSport

Ngoài chuỗi Bluetronics tại Campuchia, AVAFashion – chuỗi cửa hàng thời trang gia đình của Thế giới Di động cũng đóng cửa vào giữa năm 2022, chỉ sau 6 tháng khai trương. Trang web bán hàng cũng ngưng hoạt động kể từ ngày 29/6/2022.

Hồi giữa tháng 1/2022, Thế giới Di động ra mắt 5 chuỗi cửa hàng thuộc nhóm AVA, gồm AVAFashion (thời trang gia đình), AVASport (đồ thể thao), AVAKids (mẹ và bé), AVAJi (trang sức) và AVACycle (bán xe đạp – dưới hình thức “shop in shop” tại hệ thống Điện máy Xanh).

AVAFashion - chuỗi cửa hàng thời trang gia đình của Thế giới Di động cũng đóng cửa vào giữa năm 2022, chỉ sau 6 tháng khai trương.

AVAFashion – chuỗi cửa hàng thời trang gia đình của Thế giới Di động cũng đóng cửa vào giữa năm 2022, chỉ sau 6 tháng khai trương.

Tại thời điểm ra mắt, AVAFashion có 4 cửa hàng chính ở các tuyến đường sầm uất trên địa bàn TPHCM, gồm đường Võ Văn Ngân (TP.Thủ Đức), Huỳnh Tấn Phát (quận 7), Nguyễn Trãi (quận 5), Phan Văn Trị (nằm trong Trung tâm thương mại Emart2, quận Gò Vấp).

AVAFashion bao gồm các sản phẩm quần áo nam nữ, trẻ em với đa dạng kiểu dáng từ áo T-shirt, áo polo, quần jeans, kaki, váy đầm, đồ công sở đến các sản phẩm phụ kiện như vớ, khẩu trang, dây nịt, mũ nón… và thời trang trẻ em.

Ngoài ra, MWG cũng sẽ chủ động dọn dẹp, thu hẹp chuỗi AvaSport, do đánh giá không có tiềm năng đóng góp doanh thu, lợi nhuận đáng kể trong tương lai. Điều này được ban lãnh đạo MWG đánh giá là giảm gánh nặng trong năm 2023. Đến cuối năm 2022, AVASport có tất cả 12 cửa hàng.

Trang thương mại vuivui.com chỉ tồn tại được 1 năm

Thế giới Di động cũng đã đóng cửa trang thương mại điện tử vuivui.com chỉ sau một năm khai trương (12/2016). Trang thương mại điện tử này ra đời với mục đích mang đến cho khách hàng trải nghiệm mua sắm trực tuyến thực sự an toàn, tin cậy, thuận tiện cùng giá cả cạnh tranh với gần 40.000 sản phẩm.

Ông Nguyễn Đức Tài – Chủ tịch Hội đồng quản trị MWG – nói tại đại hội cổ đông năm 2017 rằng: “Chúng tôi đầu tư cho vuivui là đầu tư cho tương lai, khi thế hệ trẻ có xu hướng thay đổi phương thức mua sắm. Có thể kỳ vọng đóng góp của Vuivui từ năm 2020 trở đi”.

Cuối năm 2018, MWG đóng cửa trang thương mại điện tử này sau 2 năm hoạt động.

Cuối năm 2018, MWG đóng cửa trang thương mại điện tử này sau 2 năm hoạt động.

Tuy nhiên, kết thúc năm 2017, doanh thu của Vuivui chỉ đạt 75 tỷ đồng, đóng góp không nhiều vào cơ cấu doanh thu của MWG. Cuối năm 2018, MWG đóng cửa trang thương mại điện tử này sau 2 năm hoạt động, dù trước đó Vuivui được kỳ vọng sẽ tăng trưởng vượt bậc sau 4 – 5 năm và doanh thu bán hàng sẽ vượt cả chuỗi thegioididong.com.

Toàn bộ nền tảng website, hậu cần và giao nhận của vuivui.com đã được chính thức chuyển sang cho bachhoaxanh.com từ ngày 27/11/2018.

Mắt kính bị “khai tử” sau 9 tháng

Cuối tháng 6/2019, Thế giới Di động bắt đầu thử nghiệm mô hình kinh doanh kính mắt bằng cách kê thêm tủ kính mắt tại cửa hàng điện thoại thuộc chuỗi thegioididong, nằm tại phường Phước Long B, quận 9, TPHCM. Đây cũng là cửa hàng đầu tiên bán mắt kính theo mô hình “shop in shop” của MWG.

Lúc này, cửa hàng có khoảng 600 mẫu mắt kính các loại nhắm đến phân khúc trung cấp, giá bán trong khoảng 600.000 đồng đến 3 triệu đồng/sản phẩm. MWG cho rằng, cặp đôi đồng hồ và mắt kính thường đi chung với nhau và muốn tăng doanh thu từ mặt hàng này. Tuy nhiên, trong khi đồng hồ liên tục được MWG mở rộng thì mắt kính lại sớm bị khai tử.

Sau 9 tháng ra mắt, Thế giới Di động quyết định ngừng bán kính mắt.

Sau 9 tháng ra mắt, Thế giới Di động quyết định ngừng bán kính mắt.

Đến tháng 3/2020, sau 9 tháng ra mắt, Thế giới Di động quyết định ngừng bán kính mắt. Lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng, việc phải dừng kinh doanh vì các cửa hàng nhỏ lẻ bên ngoài có lợi thế về kính thuốc. Nếu đưa máy đo mắt vào các cửa hàng điện thoại, điện máy thì có phần không phù hợp.

Thất bại với Điện thoại Siêu rẻ

Chuỗi Điện thoại Siêu rẻ ra đời vào tháng 8/2019, các sản phẩm tại đây chủ yếu là điện thoại dưới 8 triệu đồng và được bán với giá rẻ hơn tại chuỗi Thế giới Di động khoảng 10%.

Mô hình này được ra đời nhằm mục đích chiếm lấy 20% thị phần từ các cửa hàng di động nhỏ và hộ gia đình. Cửa hàng Điện thoại Siêu rẻ đầu tiên được mở thử nghiệm trên đường Lê Đức Thọ, quận Gò Vấp, TPHCM với diện tích khoảng 15 m2, một nhân viên phục vụ.

Website của Điện thoại Siêu rẻ thông báo sẽ ngừng hoạt động và chuyển hướng về thegioididong.com.

Website của Điện thoại Siêu rẻ thông báo sẽ ngừng hoạt động và chuyển hướng về thegioididong.com.

Tuy nhiên, đến ngày 29/6/2020, website của Điện thoại Siêu rẻ thông báo sẽ ngừng hoạt động và chuyển hướng về thegioididong.com. Đại diện MWG cho biết, việc đóng cửa hệ thống Điện thoại Siêu rẻ là bước đầu để chuyển đổi sang mô hình thử nghiệm mới.

Từ thành lập đến đóng cửa chưa đầy một năm, MWG đã mở 17 cửa hàng chuỗi Điện thoại Siêu rẻ với cam kết phân phối hàng chính hãng, giá rẻ nên biên lợi nhuận thấp. Trong khi đó, các cửa hàng di động nhỏ và hộ gia đình thường có lợi thế khi đi kèm loạt dịch vụ khác như vừa bán vừa sửa chữa.

Theo Báo mớ/

Yêu cầu không chia nhỏ các tiểu dự án khi làm vành đai 4

Phó thủ tướng yêu cầu địa phương không chia nhỏ các tiểu dự án; phải dự toán phù hợp, không đẩy tổng mức đầu tư lên cao làm ảnh hưởng đến nguồn vốn chung của toàn dự án vành đai 4.

Phối cảnh một phần đường của dự án vành đai 4 – vùng thủ đô. 

Văn phòng Chính phủ vừa ban hành thông báo kết luận của Phó thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp về tình hình thực hiện dự án đầu tư xây dựng tuyến vành đai 4 – vùng thủ đô.

Theo đó, Phó thủ tướng yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh chủ động quyết định các nội dung thuộc thẩm quyền trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, phê duyệt các dự án thành phần…

Các nội dung trên phải được thực hiện theo đúng cơ chế, chính sách đã được quy định tại Nghị quyết số 56 của Quốc hội và Nghị quyết số 106 của Chính phủ, bảo đảm tiến độ triển khai.

Phó thủ tướng lưu ý với việc mở rộng, cải tạo, chỉnh trang các nghĩa trang hiện có phục vụ công tác giải phóng mặt bằng, các địa phương cần thực hiện việc chỉ định theo thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật.

Việc xây mới các nghĩa trang phải có quy hoạch được duyệt, phù hợp với các quy hoạch khác có liên quan, đồng bộ với hạ tầng kinh tế – xã hội.

Ngoài ra, việc sử dụng vốn hợp pháp của địa phương cho công tác giải phóng mặt bằng, đền bù, tái định cư phải trên cơ sở dự án được duyệt theo đúng quy định; đẩy nhanh hỗ trợ giải phóng mặt bằng.

Đáng lưu ý, Phó thủ tướng yêu cầu địa phương không chia nhỏ các tiểu dự án; phải tiên lượng, dự toán phù hợp, không đẩy tổng mức đầu tư lên cao làm ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn chung của toàn bộ dự án.

Đồng thời, các nút giao giữ nguyên như báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đã được Quốc hội, Chính phủ chấp thuận; các nút giao cắt phải khác đồng mức.

Lãnh đạo Chính phủ cũng yêu cầu đơn vị liên quan điều chỉnh cao độ tĩnh không các cầu cạn cho phù hợp; thiết kế mặt cắt ngang cầu qua sông phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch và xu thế phát triển trong tương lai.

Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng được chỉ đạo phối hợp, hướng dẫn khâu thẩm định, thiết kế, thi công các dự án.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm xem xét và có ý kiến thỏa thuận với đề nghị của UBND Hà Nội về phương án thiết kế các công trình cầu qua sông có đê thuộc dự án.

Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm xem xét và có ý kiến về đề xuất của Ban Chỉ đạo về những nội dung liên quan; thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường các dự án thành phần, bao gồm việc khai thác mỏ vật liệu xây dựng trong tháng 2.

Ngoài ra, Bộ Công Thương phối hợp, giúp đỡ các địa phương về việc thỏa thuận giải pháp thiết kế di chuyển, bảo vệ hệ thống điện cao thế 110 KV, 220 KV, 500 KV, trong phạm vi giải phóng mặt bằng.

Phó thủ tướng yêu cầu Hà Nội là cơ quan đầu mối tổ chức thực hiện và báo cáo kết quả triển khai, bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ toàn dự án.

Thành phố cũng được giao chủ trì, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét và quyết định việc điều chỉnh chủ trương đầu tư trong trường hợp phát sinh các yếu tố dẫn đến điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án.

Theo Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông Hà Nội, tính đến hết ngày 17/2, gần 5.200 ngôi mộ đã được di chuyển để giải phóng mặt bằng làm dự án vành đai 4 – vùng thủ đô, đạt 44% kế hoạch.

Các đơn vị cũng phê duyệt và thu hồi 236,82 ha đất, đạt 29,2% chỉ tiêu với tổng số tiền chi trả là hơn 1.900 tỷ đồng. Một số huyện cơ bản hoàn thành công tác di dời mộ gồm: Mê Linh, Sóc Sơn, Thanh Oai, Thường Tín.

Theo Báo mới.

Luật Đất đai (sửa đổi): Giá đất được quy định thế nào?

Mục 2, Chương XI, Tài chính về đất đai, giá đất (từ Điều 153 đến Điều 158) dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã quy định các nội dung về giá đất.

Giao Chính phủ quy định phương pháp định giá đất

Tại Điều 153. Nguyên tắc, phương pháp định giá đất, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định, Việc định giá đất phải bảo đảm các nguyên tắc: Theo mục đích sử dụng đất định giá; Theo thời hạn sử dụng đất và các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá đất; Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường quyền sử dụng đất trong điều kiện bình thường; Tuân thủ đúng phương pháp, trình tự, thủ tục định giá đất theo quy định của pháp luật; Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, trung thực, khách quan của kết quả định giá đất giữa cơ quan định giá, cơ quan thẩm định và cơ quan quyết định.

Giá đất phổ biến trên thị trường trong điều kiện bình thường được xác định bằng bình quân của các mức giá giao dịch thực tế của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng trên thị trường xuất hiện với tần suất nhiều nhất thông qua thống kê tại một khu vực và trong một khoảng thời gian nhất định, không chịu tác động của các yếu tố gây tăng hoặc giảm giá đột biến, giao dịch có quan hệ huyết thống hoặc có những ưu đãi khác.

Dự thảo giao: “Chính phủ quy định phương pháp định giá đất; quy trình xây dựng bảng giá đất, định giá đất cụ thể; xây dựng cơ sở dữ liệu giá đất; kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện”.

Bảng giá đất và các trường hợp áp dụng bảng giá đất

Về bảng giá đất, Điều 154, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định: Bảng giá đất được xây dựng định kỳ hàng năm được công bố công khai và áp dụng từ ngày 01/01 của năm.

Căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá đất, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng bảng giá đất, được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để xây dựng bảng giá đất; trình Hội đồng thẩm định bảng giá đất; căn cứ kết quả của Hội đồng thẩm định bảng giá đất trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua bảng giá đất trước khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định ban hành.

Bảng giá đất được xây dựng theo vị trí. Đối với khu vực có bản đồ địa chính số và cơ sở dữ liệu giá đất thì xây dựng bảng giá đất đến từng thửa đất theo vùng giá trị, thửa đất chuẩn.

Bảng giá đất được áp dụng cho các trường hợp:

Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất ở của hộ gia đình, cá nhân; chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân;

Tính tiền thuê đất khi Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm;

Tính thuế sử dụng đất, thuế đối với các dự án chậm tiến độ hoặc không đưa đất vào sử dụng;

Tính thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân;

Tính tiền sử dụng đất tăng thêm đối với những trường hợp chậm đưa đất vào sử dụng, không đưa đất vào sử dụng;

Tính phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai;

Tính tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;

Tính tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai;

Tính giá trị quyền sử dụng đất để trả cho người tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước đối với trường hợp đất trả lại là đất Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất có thu tiền sử dụng đất, đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê;

Tính giá khởi điểm đối với trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất, cho thuê đất.

Làm căn cứ để tính giá thuê đất xây dựng công trình ngầm, xây dựng công trình trên không

Đối với các trường hợp tính thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, tính tiền thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm thì giá đất để tính thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, tính tiền thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm ổn định trong 05 năm.

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Các trường hợp áp dụng giá đất cụ thể

Điều 155 (Giá đất cụ thể) quy định, giá đất cụ thể được áp dụng cho các trường hợp sau:

Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất; khi Nhà nước giao đất cho nhà đầu tư trúng đấu thầu dự án có sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức mà phải nộp tiền sử dụng đất;

Tính tiền thuê đất trả tiền một lần đối với trường hợp Nhà nước cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, khi Nhà nước cho thuê đất cho nhà đầu tư trúng đấu thầu dự án có sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức mà phải nộp tiền thuê đất.

Tính giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà doanh nghiệp cổ phần sử dụng đất thuộc trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; tính tiền thuê đất đối với trường hợp doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm;

Tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;

Tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết mà ảnh hưởng đến hệ số sử dụng đất; cho phép chuyển hình thức sử dụng đất.

Việc quyết định giá đất cụ thể thực hiện theo quy định sau đây:

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết, thu hồi đất, xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất để giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức, xác định giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giá đất cụ thể đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết, thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, cơ quan quản lý đất đai cấp huyện được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để tư vấn xác định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai trình Hội đồng thẩm định giá đất thẩm định kết quả tư vấn xác định giá đất; căn cứ kết quả của Hội đồng thẩm định giá đất trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định.

Đối với khu vực đã có bảng giá đất tới từng thửa đất theo vùng giá trị đất, giá thửa đất chuẩn thì việc định giá đất cụ thể được xác định theo bảng giá đất tại thời điểm định giá.

Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng các phương pháp để định giá đất cụ thể và quy định chi tiết Điều này.

Hội đồng thẩm định giá đất

Điều 156, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định về Hội đồng thẩm định giá đất.

Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng thẩm định bảng giá đất bao gồm các thành phần sau:

Đại diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng;

Giám đốc Sở Tài chính làm thường trực Hội đồng; lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giao thông vận tải, Sở Công Thương, Sở Tư pháp, Cục Thuế tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh;

Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất, chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể cấp tỉnh bao gồm các thành phần sau:

Giám đốc Sở Tài chính làm Chủ tịch Hội đồng;

Lãnh đạo Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giao thông vận tải, Sở Công Thương, Sở Tư pháp, Cục Thuế tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh;

Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất, chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể cấp huyện bao gồm các thành phần sau:

Lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện làm Chủ tịch Hội đồng;

Trưởng Phòng Tài chính – Kế hoạch làm thường trực Hội đồng; lãnh đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường, các phòng, ban chuyên môn có liên quan; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện;

Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất, chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định.

Hội đồng thẩm định bảng giá đất, Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể quyết định thành lập Tổ giúp việc cho Hội đồng, được thuê tổ chức tư vấn định giá đất để tư vấn thẩm định giá đất.

Hội đồng thẩm định giá đất làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số; Chủ tịch và các thành viên chịu trách nhiệm cá nhân về ý kiến của mình. Hội đồng thực hiện thẩm định việc tuân thủ nguyên tắc, việc áp dụng phương pháp, trình tự, thủ tục định giá đất, kết quả thu thập thông tin, tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, khách quan trong quá trình định giá và chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định theo quy định của pháp luật.

Kết quả thẩm định giá đất của Hội đồng là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định Bảng giá đất, giá đất cụ thể.

Tư vấn xác định giá đất

Điều 157, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định về tư vấn xác định giá đất.

Theo đó, tư vấn xác định giá đất được thực hiện trong các trường hợp: Khi xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất và giá đất cụ thể; khi giải quyết khiếu nại về giá đất theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các bên có liên quan.

Dự thảo giao Chính phủ quy định điều kiện hoạt động của tư vấn xác định giá đất, hành nghề tư vấn xác định giá đất.

Việc xác định giá đất của tư vấn xác định giá đất phải độc lập, khách quan, trung thực và tuân theo nguyên tắc, phương pháp định giá đất quy định tại Điều 153 của Luật này.

Giá đất do tư vấn xác định là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định giá đất.

Quyền và nghĩa vụ của tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất

Điều 158, quy định tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất có các quyền: Thực hiện tư vấn xác định giá đất theo quy định của Luật này, Luật giá và quy định khác của pháp luật có liên quan;

Yêu cầu bên thuê tư vấn cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc tư vấn xác định giá đất; được nhận tiền dịch vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng;

Đơn phương chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng tư vấn xác định giá đất khi bên thuê tư vấn vi phạm điều kiện do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật;

Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất có nghĩa vụ: Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của kết quả tư vấn xác định giá đất; Thực hiện thỏa thuận theo hợp đồng tư vấn xác định giá đất với bên thuê tư vấn;

Chịu sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tổ chức, kết quả hoạt động tư vấn xác định giá đất định kỳ hàng năm hoặc trong trường hợp đột xuất;

Thực hiện nghĩa vụ về thuế và các nghĩa vụ tài chính khác có liên quan theo quy định của pháp luật;

Đăng ký danh sách định giá viên và việc thay đổi, bổ sung danh sách định giá viên với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi tổ chức tư vấn xác định giá đất đặt trụ sở chính;

Lưu trữ hồ sơ, tài liệu về kết quả tư vấn xác định giá đất; Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Theo Báo mới.

Hải Phòng có thêm 3 dự án vốn đầu tư gần 10.000 tỷ đồng

TP Hải Phòng khẳng định sức hút khi ngay từ đầu năm đã thu hút thêm gần 10.000 tỷ đồng đầu tư 3 dự án mới.

Gần 10.000 tỷ đồng vốn đầu tư vào Hải Phòng 

Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị, UBND TP. Hải Phòng đã được trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 3 dự án mới với tổng vốn gần 10.000 tỷ đồng.

Trong đó, Dự án Đầu tư xây dựng Khu nhà ở xã hội tại Tổng kho 3 Lạc Viên, 142 Lê Lai do Công ty cổ phần Thái-Holding làm chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư gần 4.900 tỷ đồng.

Mục tiêu của Dự án là đầu tư xây dựng khu nhà ở xã hội để bán và cho thuê (bán tối đa 80%, cho thuê tối thiểu 20%), nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển về nhà ở xã hội của Thành phố và Nghị quyết số 04/NQ-HĐND ngày 12/4/2022 của HĐND Thành phố về Đề án xây dựng nhà ở xã hội kết hợp giải quyết nhà ở cho các hộ dân sinh sống tại các chung cư cũ trên địa bàn.

Dự án nghiên cứu, phát triển và sản xuất Cell Pin 1 do Công ty cổ phần Giải pháp năng lượng VinES làm chủ đầu tư, với tổng vốn đầu tư gần 3.300 tỷ đồng.

Dự án sản xuất pin và ắc quy tại nhà xưởng thuê trong Tổ hợp sản xuất ô tô VinFast, đảo Cát Hải, huyện Cát Hải, thuộc Khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải. Nhà xưởng diện tích khoảng 27.000m³; sản phẩm, dịch vụ cung cấp là Cell pin và các linh phụ kiện đi kèm với công suất thiết kế 2,2 GWh/năm.

Dự án khai thác tàu container do Zim Integrated shipping services Ltd., (Isarel) và Công ty cổ phần Xếp dỡ Hải An làm chủ đầu tư. Với tổng vốn đầu tư 1.383,3 tỷ đồng, Dự án hình thành với mục tiêu cung cấp các loại hình dịch vụ vận tải biển, dự kiến vận hành, khai thác từ quý IV/2023.

Theo Báo mới.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ra Chỉ thị về sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn vừa ra Chỉ thị số 643/CT- BGDĐT về việc sử dụng sách giáo khoa và sách tham khảo trong các cơ sở giáo dục phổ thông.

Học sinh không viết, vẽ vào SGK để SGK được sử dụng lại lâu bền 

Để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng sách giáo khoa (SGK), tăng tỷ lệ SGK được sử dụng lại nhiều lần; không ép buộc học sinh, gia đình học sinh mua sách tham khảo, sách bài tập, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT yêu cầu Giám đốc các Sở GD&ĐT chỉ đạo các Phòng GD&ĐT, các cơ sở giáo dục phổ thông ở địa phương tổ chức quán triệt, tuyên truyền đến từng cán bộ quản lý giáo viên và học sinh về việc giữ gìn, bảo quản SGK; không viết, vẽ vào SGK để SGK được sử dụng lại lâu bền.
Các đơn vị thực hiện nghiêm quy định tại Thông tư số 21/2014/TT-BGDĐT ngày 7/7/2014 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định về quản lý và sử dụng xuất bản phẩm tham khảo trong các cơ sở giáo dục mầm non giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, trong đó có việc: “Giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục các cấp không được lạm dụng vị trí công tác của mình để thực hiện hoặc tham gia thực hiện việc ép buộc, vận động học sinh, học viên hoặc cha mẹ học sinh, học viên mua xuất bản phẩm tham khảo dưới bất kì hình thức nào” tại khoản 4 Điều 5 của Thông tư này.
Thêm nữa, giám đốc các Sở GD&ĐT chỉ đạo cơ sở giáo dục không được vận động học sinh, hoặc cha mẹ học sinh, học viên mua xuất bản phẩm ngoài danh mục SGK đã được Bộ GD&ĐT phê duyệt và các địa phương đã lựa chọn dưới bất kì hình thức nào; không thực hiện việc lập danh mục, đóng gói thành bộ SGK kèm sách bài tập, sách tham khảo và các tài liệu khác ngoài danh mục SGK đã được phê duyệt, lựa chọn để học sinh, phụ huynh học sinh mua và sử dụng.

Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đề nghị bố trí nguồn kinh phí hợp lý để mua SGK cho các thư viện trường học, tổ chức cho học sinh mượn SGK để học tập; vận động học sinh quyên góp, ủng hộ SGK cũ vào thư viện để học sinh các lớp sau tiếp tục được mượn và sử dụng.

Đối với Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam và các nhà xuất bản có SGK đã được phê duyệt, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đề nghị tổ chức rà soát, đánh giá cụ thể việc in ấn, phát hành SGK nhằm tiết kiệm, giảm giá thành SGK; kịp thời in ấn, phát hành SGK bảo đảm đủ số lượng, chất lượng, phục vụ nhu cầu của giáo viên và học sinh.

Các đơn vị báo cáo Bộ GD&ĐT về kết quả rà soát, đánh giá và phương án giảm giá thành SGK trước khi phát hành hoặc tái bản.

Sở GD&ĐT phối hợp với các ban, ngành liên quan tổ chức việc thanh tra, kiểm tra việc phát hành và sử dụng SGK, sách bài tập, xuất bản phẩm tham khảo trong các cơ sở giáo dục phổ thông; xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Bộ trưởng cũng đề nghị Chỉ thị này được quán triệt đến tất cả cán bộ, công chức, viên chức ở các cấp quản lý giáo dục, nhà giáo ở các cơ sở giáo dục phổ thông và các tổ chức, cá nhân có liên quan để thực hiện.

Theo Báo mới.

Kê khai sai giá chuyển nhượng nhà đất có thể bị truy cứu hình sự

Tổng cục Thuế khuyến nghị người dân, doanh nghiệp cần kê khai chính xác, trung thực, đầy đủ giá thực tế chuyển nhượng bất động sản. Kê khai sai có thể bị truy cứu hình sự vì hành vi trốn thuế.

Khi chuyển nhượng sang tên nhà đất, cả người mua, người bán cũng như người tặng cho đều phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, nhưng không phải ai cũng nắm rõ quy định pháp luật của nhà nước về vấn đề nay. Vậy khi chuyển nhượng nhà đất, người dân sẽ phải nộp những khoản thuế phí nào; các loại thuế này tính trên giá chuyển nhượng thực tế, hay theo bảng giá do Nhà nước quy định; nếu kê khai thấp hơn giá chuyển nhượng thực tế thì có bị xử lý không?

Liên quan đến vấn đề này, PV VOV trao đổi với bà Lý Thị Hoài Hương, Phó Vụ trưởng Vụ quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh, cá nhân, Tổng cục Thuế.

PVNgoài các khoản như lệ phí địa chính, lệ phí cấp sổ đỏ, trích lục hồ sơ, khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay còn gọi là bán nhà, đất người dân phải nộp khoản thuế phí nào theo quy định, thưa bà?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Theo quy định tại điều 17, Thông tư 92 ngày 15/6/2015, khi chuyển nhượng bất động sản, người bán phải nộp thuế thu nhập cá nhân với thuế xuất, thuế chuyển nhượng bất động sản là 2% trên giá chuyển nhượng.

Còn người mua phải nộp phí trước bạ đối với mức thu thuế nhà đất là 0,5% theo quy định tại khoản 1, điều 8, Nghị định số 10 ngày 15/1/2022 của Chính phủ.

PVTheo quy định luật pháp, hiện nay giá chuyển nhượng bất động sản được xác định như thế nào, thưa bà?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Đối với thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản, căn cứ quy định tại khoản 11, Điều 2, Nghị định số 12/2015 của Chính phủ, giá chuyển nhượng bất động sản là giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng.

Trường hợp trên hợp đồng chuyển nhượng không ghi giá, hoặc giá đất trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định, thì giá chuyển nhượng đất là giá do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm chuyển nhượng theo quy định của Luật Đất đai.

Trường hợp chuyển nhượng nhà gắn liền với đất, giá trị nhà, kết cấu hạ tầng, công trình kiến trúc gắn liền với đất được xác định căn cứ theo giá tính lệ phí trước bạ do UBND cấp tỉnh quy định.

Trường hợp UBND cấp tỉnh quy định không có giá tính lệ phí trước bạ, căn cứ vào quy định của Bộ Xây dựng về phân loại nhà, về tiêu chuẩn, định mức xây dựng cơ bản, về giá trị còn lại thực tế của công trình trên đất.

Đối với lệ phí trước bạ, căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 7, Nghị định số 10/2022 của Chính phủ, giá tính lệ phí trước bạ đối với đất là giá đất tại bảng giá đất do UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành theo quy định của pháp luật về đất đai tại thời điểm kê khai lệ phí trước bạ.

Giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà là giá do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành theo quy định của pháp luật về xây dựng tại thời điểm kê khai lệ phí trước bạ.

Trường hợp giá nhà, đất tại hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất cao hơn giá do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành thì giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà, đất tại hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà.

PVThực tế cho thấy, không ít trường hợp người dân khi làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ghi giá chuyển nhượng thấp hơn số tiền mà họ giao dịch trên thực tế. Thường họ chỉ ghi bằng bảng giá đất do địa phương quy định. Theo bà, điều này có vi phạm quy định của pháp luật?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Luật Quản lý thuế quy định rõ việc người nộp thuế có nghĩa vụ kê khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ, hồ sơ khai thuế.

Căn cứ khoản 5, Điều 143 Luật quản lý thuế số 38, việc sử dụng chứng từ, tài liệu, không phản ánh đúng bản chất giao dịch, hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp là hành vi vi phạm pháp luật.

Tổng cục Thuế khuyến nghị người dân, doanh nghiệp khi phát sinh các giao dịch chuyển nhượng bất động sản cần kê khai chính xác, trung thực, đầy đủ giá thực tế chuyển nhượng bất động sản trên hợp đồng chuyển nhượng cũng như trên hồ sơ khai thuế, phí để đảm bảo quyền lợi của bản thân tránh khỏi những nội dung pháp lý trong quá trình sử dụng bất động sản như:

Tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo, đền bù và các tình huống pháp lý khác. Các bên mua, bán có thể bị truy cứu hình sự vì hành vi trốn thuế.

PVNếu cơ quan chức năng phát hiện ra giá chuyển nhượng thực tế cao hơn giá trị ghi trên hợp đồng, người dân bị xử lý thế nào?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Hợp đồng chuyển nhượng là giao dịch dân sự giữa các bên và có thể thỏa thuận bằng văn bản hoặc bằng lời nói.

Giá chuyển nhượng bất động sản là giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng thực tế tại thời điểm chuyển nhượng.

Việc người dân kê khai giá chuyển nhượng trên hợp đồng thấp hơn giá giao dịch thực tế, không phản ánh đúng bản chất các giao dịch bất động sản. Khi người bán và người mua cố tình khai thấp hơn giá trị thực tế để né thuế là hành vi vi phạm pháp luật.

Tùy theo mức độ vi phạm, khi bị cơ quan chức năng phát hiện sẽ tiến hành truy thu, xử phạt vi phạm hành chính, thậm chí bị xử phạt hình sự theo quy định của pháp luật.

Cơ quan thuế thực hiện xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Đối với các trường hợp có dấu hiệu tội phạm, cơ quan thuế sẽ phối hợp với các cơ quan có thẩm điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật về hình sự và các pháp luật khác có liên quan.

PVĐể người dân đồng tình với các quy định của pháp luật thuế trong chuyển nhượng bất động sản, ngành Thuế đã và đang triển khai các giải pháp nào, thưa bà?

Bà Lý Thị Hoài Hương: Thời gian qua, Bộ Tài chính cũng như Tổng cục Thuế đã chỉ đạo rất nhiều giải pháp đảm bảo các chủ thể khai sát với giá giao dịch thực tế trong hoạt động kinh doanh về chuyển nhượng bất động sản. Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cơ quan thuế không được gây khó khăn, phiền hà cho người nộp thuế trong quá trình xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản. Đồng thời, cũng quán triệt các phòng, đội tham gia vào công tác xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản.

Thực hiện nghiêm túc các quy định về trình tự, thủ tục xử lý hồ sơ, xác định nghĩa vụ tài chính và quy trình làm việc trực tiếp với người nộp thuế theo quy định và có cơ chế giám sát cán bộ trong quá trình tuyên truyền, hướng dẫn việc kê khai bất động sản cho người nộp thuế.

Trường hợp công chức có hành vi nhũng nhiễu để trục lợi sẽ bị xử lý nghiêm. Chỉ đạo các Cục thuế tập trung hỗ trợ các Chi cục thuế thời gian qua có nhiều giao dịch bất động sản gây ra quá tải cho việc xử lý hồ sơ của cơ quan thuế.

Thực hiện rà soát lại lực lượng cán bộ, công chức đang làm công tác giải quyết xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản để điều động công chức tại các bộ phận khác sang tăng cường, bổ sung lực lượng cho bộ phận xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản. Tổ chức làm thêm giờ để giải quyết triệt để các hồ sơ còn tồn đọng.

Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế ưu tiên triển khai các biện pháp tuyên truyền chính sách pháp luật cho người nộp thuế.

Ngoài ra, Bộ Tài chính sẽ kiến nghị Chính phủ trong thời gian tới thực hiện một số giải pháp như: rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản để sửa đổi, bổ sung đảm bảo thống nhất đồng bộ.

Cấp thẩm quyền, cần bổ sung quy định giao dịch bất động sản phải thanh toán qua ngân hàng để minh bạch trong kiểm soát giao dịch của các ngành, phục vụ công tác quản lý giao dịch, tài sản bất động sản của các chủ thể trong xã hội của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, quản lý thuế nói riêng.

PVXin trân trọng cảm ơn bà!.

Theo Báo mới.