Vụ ‘thổi giá’ đất lên 30 tỉ đồng/m² ở Hà Nội: Phá đấu giá để giữ đất, ‘làm một vụ chấn động địa cầu’

Nhóm bị cáo biết khu đất đấu giá sẽ có tiềm năng tăng giá nên mong muốn mua 1 – 2 thửa để ở hoặc đầu tư kiếm lời. Tuy vậy, do không đủ khả năng tài chính nên bàn nhau ‘phá’ cuộc đấu giá để giữ đất và muốn làm một vụ ‘chấn động địa cầu’.

Ngày 6-3, TAND Hà Nội đã mở phiên tòa lưu động, xét xử sáu bị cáo trong vụ ‘thổi giá’ đất lên 30 tỉ đồng/m² khi tham gia đấu giá tại huyện Sóc Sơn (Hà Nội) từ ngày 26 đến 29-11-2024.

Sáu bị cáo hầu tòa cùng về tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản gồm: Nguyễn Đức Thành (33 tuổi, trú tại Bắc Ninh), Phạm Ngọc Tuấn (34 tuổi), Ngô Văn Dương (31 tuổi), Nguyễn Thị Quỳnh Liên (44 tuổi), Nguyễn Thế Trung (31 tuổi), Nguyễn Thế Quân (31 tuổi, cùng trú tại Đông Anh, Hà Nội).

‘Thổi giá’ đất ngoại thành lên 30 tỉ đồng/m²

Theo cáo trạng, tháng 11-2024 khi biết Công ty đấu giá hợp danh Thanh Xuân chuẩn bị đấu giá đất tại thôn Đông Lai (xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn) các bị cáo đã bàn bạc, trao đổi góp tiền mua hồ sơ, nộp tiền đặt cọc đăng ký tham gia đấu giá 58 thửa đất.

  • Vụ 'thổi giá' đất lên 30 tỉ đồng/m² ở Hà Nội: Phá đấu giá để giữ đất, 'làm một vụ chấn động địa cầu' - Ảnh 2.

Cả nhóm thống nhất từ vòng thứ nhất đến vòng thứ tư sẽ đấu giá theo trình tự, trả giá dưới mức giá mà Tuấn ấn định từ trước. Kết quả đấu giá ở vòng thứ tư nếu thấy những người tham gia đấu giá khác trả giá vượt mức tối đa mà Tuấn đã ấn định, đến vòng thứ năm các bị cáo sẽ trả giá cao bất thường. Sau đó tới vòng thứ sáu nhóm không trả giá nhằm mục đích để phiên đấu giá không thành công, buộc phải tổ chức đấu giá lại.

Kết quả điều tra xác định có 36/58 thửa đất bị nhóm Tuấn, Dương, Thành, Trung, Liên và Quân thông đồng cố ý nâng giá ở vòng thứ năm với giá cao bất thường từ hơn 59 triệu đồng/m2 đến hơn 30 tỉ đồng/m2. Đến vòng thứ sáu thì tất cả sáu người trên đều không bỏ giá.

Sau khi đấu giá viên công bố kết quả đấu giá ở vòng thứ năm, do nhóm của Tuấn bỏ giá cao bất thường nên nhiều khách hàng chửi bới, gây mất an ninh trật tự tại khu vực đấu giá. Và đúng như “kịch bản” sáu người này không trả giá tại vòng thứ sáu, phiên đấu giá không thành công.

Cáo trạng xác định hành vi nâng giá của nhóm này đã vi phạm Luật Đấu giá tài sản, hậu quả gây thiệt hại tổng gần 420 triệu đồng. Trong đó, gây thiệt hại cho Công ty đấu giá hợp danh Thanh Xuân hơn

252 triệu đồng và 230 người mua hồ sơ tham gia đấu giá hơn 165 triệu đồng.

“Phải làm một vụ chấn động địa cầu”

  • Vụ 'thổi giá' đất lên 30 tỉ đồng/m² ở Hà Nội: Phá đấu giá để giữ đất, 'làm một vụ chấn động địa cầu' - Ảnh 3.

Tại tòa, bị cáo Phạm Ngọc Tuấn thừa nhận hành vi phạm tội và khai khi nắm được tin về việc tổ chức đấu giá đất, biết khu đất này gần Khu công nghiệp Nội Bài, có tiềm năng tăng giá nên mong muốn mua được 1 – 2 thửa để ở hoặc đầu tư kiếm lời.

Để tham gia đấu giá, Tuấn cùng năm người thống nhất mua 58 bộ hồ sơ của 58 thửa đất. Cả nhóm hẹn nhau ở quán cà phê để xem xét hồ sơ, vị trí các thửa đất cũng như mức giá sẽ đưa ra cho từng thửa.

Tuấn sau đó gọi điện tới Công ty đấu giá hợp danh Thanh Xuân (đơn vị tổ chức đấu giá các thửa đất) và được tư vấn có thể bỏ giá tùy theo ý chí cá nhân, không hạn chế mức tiền. Nhóm sau đó lên kế hoạch nếu không đủ khả năng tài chính thì sẽ “phá” cuộc đấu giá.

Hội đồng xét xử hỏi theo hiểu biết cá nhân thì giá 1m2 đất tại khu đấu giá là khoảng bao nhiêu, Tuấn nói tối đa là 40 triệu đồng/m2.

Chủ tọa truy vấn: “Vậy tại sao bị cáo lại trả tới 30 tỉ đồng/m2, một mức giá không tưởng?”. Tuấn nói rằng mục đích của hành vi này là để giữ lại những thửa đất mà mình thích cho phiên đấu giá sau.

Đáng chú ý, khai báo ngay sau đó, bị cáo Ngô Văn Dương thừa nhận sau khi thực hiện phi vụ này, dư luận, báo chí đưa thông tin nên bắt đầu lo lắng, hỏi Tuấn: “Liệu có làm sao không?” và được Tuấn đáp: “Không làm sao hết”.

“Tuấn dặn nếu nhà báo hay ai hỏi, phải nói mình là người có tiền, là giới siêu giàu, phải làm một vụ chấn động địa cầu…”, Dương khai.

Tuy nhiên nhận thấy hành vi của bản thân “chắc chắn là phạm tội”, sợ bị xử lý, Dương cùng một số bị cáo đã ra đầu thú.

Gây rối loạn thị trường bất động sản

Sau nửa ngày xét xử, tòa tuyên phạt bị cáo Phạm Ngọc Tuấn 3 năm tù; Ngô Văn Dương 30 tháng tù; Nguyễn Đức Thành 24 tháng tù; Nguyễn Thị Quỳnh Liên, Nguyễn Thế Trung, Nguyễn Thế Quân từ 12 – 18 tháng tù cho hưởng án treo.

Tòa đánh giá các bị cáo đều có nhận thức, hiểu biết pháp luật song sai phạm vì động cơ vụ lợi, gây hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh hưởng uy tín cơ quan tổ chức liên quan, gây rối loạn thị trường bất động sản, gây bức xúc bất bình trong xã hội.

Theo: https://tuoitre.vn

Tranh chấp nào thường phát sinh trong giao dịch bất động sản nghỉ dưỡng?

Luật Kinh doanh bất động sản 2023 ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho các giao dịch của loại hình bất động sản nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, người mua vẫn phải lưu ý đến điều kiện giao dịch, tiến độ thanh toán, điều kiện bàn giao, chất lượng bất động sản… để hạn chế rủi ro trong quá trình giao dịch.

Một dự án bất động sản nghỉ dưỡng tại Đà Nẵng. Ảnh minh họa: Nhân Tâm

Để hạn chế những tranh chấp phát sinh từ các giao dịch mua bán đối với loại hình bất động sản nghỉ dưỡng như condotel, resort villa…, người mua phải kiểm soát nội dung thoả thuận ban đầu giữa các bên trong hợp đồng mua bán và có những sự chuẩn bị chu đáo về mặt pháp lý để sẵn sàng cho mọi sự cố có thể xảy ra trong giao dịch.

Những tranh chấp phổ biến trong các giao dịch này thường là tranh chấp về điều kiện giao dịch của bất động sản, tranh chấp về tiến độ thanh toán, thời hạn và điều kiện bàn giao, chất lượng bất động sản được bàn giao…

Tranh chấp về điều kiện giao dịch

Điều người mua cần phải kiểm tra đầu tiên là đối tượng của hợp đồng như condotel, resort villa… (bất động sản) được chào bán có đảm bảo pháp lý để được đưa vào kinh doanh hay không. Luật Kinh doanh bất động sản 2014 (sửa đổi) không quy định về điều kiện giao dịch đối với loại hình bất động sản căn hộ du lịch, dẫn đến đã có nhiều tranh chấp phát sinh liên quan đến điều kiện đưa vào giao dịch đối với loại hình bất động sản này.

Vụ việc thực tế thể hiện tại Bản án số 11/2022/DS-ST ngày 2-6-2022 của Toà án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà về việc tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ giữa nguyên đơn và chủ đầu tư là Công ty cổ phần T. cho thấy toà án theo quan điểm không tuyên hợp đồng mua bán căn hộ du lịch vô hiệu.

Theo tòa án, thời điểm hiện tại dự án đã có giấy phép xây dựng, điều kiện về giấy phép xây dựng đã được khắc phục và toà nhà có căn hộ đã được phép đưa vào sử dụng dù cho tại thời điểm ký kết hợp đồng dự án chưa được cấp giấy phép xây dựng. Toà án nhận định rằng mục đích và nội dung của hợp đồng mà các bên hướng tới đã đạt được, không thay đổi về bản chất nên yêu cầu tuyên hợp đồng mua bán căn hộ vô hiệu của người mua là không có căn cứ.

Để khắc phục tình trạng này, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 (Luật KDBĐS 2023) tại khoản 1 Điều 8 đã quy định nghiêm cấm hành vi kinh doanh bất động sản không đủ điều kiện theo quy định.

Quy định về điều kiện đối với công trình xây dựng hình thành trong tương lai (trong đó có loại hình bất động sản nghỉ dưỡng) được đưa vào kinh doanh theo Điều 24 của Luật KDBĐS 2023 như sau: Công trình xây dựng đã được khởi công xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng; có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất; có giấy phép xây dựng công trình xây dựng và hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng… đã được công khai thông tin về bất động sản, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh theo quy định tại Điều 6 của Luật KDBĐS 2023.

Một khi người mua thẩm định được tính pháp lý của căn hộ đã đủ điều kiện kinh doanh thì sẽ tránh được rủi ro bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nguy cơ hợp đồng vô hiệu. Cần lưu ý thêm để người mua yêu cầu giải quyết hệ quả của hợp đồng vô hiệu, nhận lại số tiền đã thanh toán cũng chưa hẳn là điều dễ thực hiện.

Tranh chấp về tiến độ thanh toán giá bán bất động sản

Hiện nay, Điều 25 Luật KDBĐS 2023 quy định việc thanh toán trong mua bán công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng hình thành trong tương lai được thực hiện nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng bao gồm cả tiền đặt cọc.

Những lần thanh toán tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng cho bên mua; trường hợp bên bán là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng.

Trong thực tế, vấn đề người mua nhận bàn giao căn hộ đạt đúng quy chuẩn đã thoả thuận sau đó thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ hay thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ thoả thuận trước, sau đó mới nhận bàn giao vẫn là nội dung các bên thường tranh chấp.

Điều này dẫn đến hệ quả khi xảy ra sự việc căn hộ bàn giao không đúng chất lượng, quy chuẩn đã thoả thuận và người mua không đồng ý thanh toán theo tiến độ khi chất lượng căn hộ chưa đạt yêu cầu.

Vì vậy, hợp đồng nên quy định rõ bên nào phải là bên thực hiện nghĩa vụ trước hoặc việc một bên vi phạm chất lượng bàn giao là điều kiện để bên kia được hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ. Tránh trường hợp hợp đồng chỉ quy định chung chung, không xác định rõ bên nào phải thực hiện nghĩa vụ trước dẫn đến những tranh chấp sau này.

Một số hợp đồng mua bán trong thực tế cho thấy các bên thường thoả thuận tại phụ lục hợp đồng về tiến độ thanh toán giá trị căn hộ có nội dung bên mua sẽ thanh toán đạt 70% (hoặc 50%) giá trị hợp đồng tại thời điểm có thông báo bàn giao căn hộ.

Nội dung thỏa thuận này có thể được hiểu rằng, ngay khi có thông báo nhận bàn giao, bên mua phải tiến hành thanh toán dù rằng bên mua chưa được kiểm tra chất lượng căn hộ, chưa được nhận bàn giao nhưng đã phải thanh toán giá trị căn hộ đến tiến độ khi đã nhận bàn giao theo luật. Điều này là không phù hợp với tinh thần của Luật Kinh doanh bất động sản và gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của bên mua.

Do đó, cần ràng buộc điều kiện được xem như là các bên đã bàn giao hoàn tất khi người mua đồng ý ký vào biên bản nhận bàn giao căn hộ. Thời điểm này mới được xem là người mua đã hoàn tất việc nhận bàn giao và sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán đạt đến 70% (hoặc 50%) giá trị căn hộ.

Thiết nghĩ, hợp đồng mẫu (hợp đồng mua bán công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích du lịch, lưu trú) do Chính phủ quy định (1)nên theo hướng việc mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo phương thức thanh toán nhiều lần thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 25 của Luật KDBĐS 2023.

Việc thanh toán sẽ không được quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao căn hộ cho khách hàng (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng).

Người mua cũng phải lưu ý những thoả thuận mang tính chất không bảo đảm công bằng trong giao dịch cho người mua. Đơn cử như trong trường hợp người mua vi phạm thời hạn thanh toán của bất kỳ đợt thanh toán theo tiến độ nào cũng sẽ bị mất quyền được yêu cầu chủ đầu tư thực hiện nghĩa vụ chịu phạt khi vi phạm thời hạn bàn giao căn hộ, vi phạm thời hạn nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận.

Trong khi đó, ở chiều hướng ngược lại, dù chủ đầu tư vi phạm nghĩa vụ bàn giao căn hộ, nghĩa vụ nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận nhưng vẫn có quyền phạt vi phạm khi người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo tiến độ ngoài khoản tiền chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo luật.

Tranh chấp về thời hạn, điều kiện bàn giao và vận hành khai thác

Tranh chấp về thời hạn bàn giao căn hộ là tranh chấp phổ biến giữa các bên. Trong thực tiễn, để đảm bảo quyền lợi của khách hàng, tới thời điểm bàn giao, tuy chưa thể thực tế hoàn thiện dự án để đưa vào vận hành, khai thác (vì nguyên nhân chủ quan từ phía chủ đầu tư) nhưng một số chủ đầu tư có thiện chí sẽ vẫn ký thoả thuận nhận bàn giao và chi trả phí như khi đưa vào vận hành, khai thác thực tế cho khách hàng.

Người mua cần lưu ý thoả thuận liên quan đến cam kết về tiến độ (khoảng thời hạn gia hạn bàn giao), những sự kiện pháp lý được xem là sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan để chủ đầu tư được miễn trừ các trách nhiệm dân sự khi vi phạm thời hạn bàn giao. Bên cạnh đó là tìm phương án giải quyết khi đến thời điểm bàn giao, đưa vào vận hành khai thác (sau khi hết thời hạn gia hạn, khoảng thời hạn diễn ra sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan) nhưng chủ đầu tư không thể đáp ứng được tiến độ.

Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử, có toà án đã nhận định rằng đối với việc bàn giao căn hộ khi chưa hoàn thành phần sử dụng chung, phần sở hữu chung, phần sở hữu riêng của bên bán… chưa hoàn thiện hệ thống xử lý chất thải không ảnh hưởng đến các điều kiện bàn giao căn hộ theo quy định tại Điều 27 Nghị định 06/2021/NĐ-CP.

Vì vậy, ngoài chất lượng của căn hộ bàn giao, để đảm bảo đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng, người mua cần lưu ý thoả thuận về việc căn hộ được bàn giao phải đáp ứng được điều kiện để đưa vào vận hành, khai thác kinh doanh dịch vụ phục vụ du lịch.

Hiện tại, Điều 27 của Luật KDBĐS 2023 quy định chủ đầu tư dự án bất động sản bàn giao công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng cho bên mua theo đúng hợp đồng đã ký kết và bảo đảm các nguyên tắc công trình xây dựng đã được nghiệm thu, kiểm tra công tác nghiệm thu đưa vào khai thác, sử dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng.

Tuy nhiên, Nghị định 35/2023/NĐ-CP về quản lý chất lượng, thi công xây dựng và bảo trì công trình xây dựng quy định căn cứ vào điều kiện cụ thể, công trình, từng phần công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành và được nghiệm thu theo quy định được bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng theo yêu cầu của chủ đầu tư hoặc đơn vị khai thác, sử dụng.

Dù vậy, để người mua đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng khi nhận bàn giao căn hộ thì cần lưu ý đến những cam kết của chủ đầu tư đối với tiến độ những hạng mục khác của dự án để đảm bảo căn hộ có thể được đưa vào khai thác, sử dụng.

Bình Định là địa phương đang được nhiều nhà đầu tư bất động sản nghỉ dưỡng quan tâm. Ảnh minh họa: Hiếu Trương

Tranh chấp về chất lượng bất động sản được bàn giao

Thông thường, các hợp đồng mua bán căn hộ du lịch tại phụ lục thoả thuận về danh mục trang thiết bị, vật liệu gắn liền với căn hộ thường có thoả thuận cho phép chủ đầu tư được tuỳ nghi lựa chọn vật liệu, trang thiết bị thay thế từ các nhà cung cấp như “chất lượng tương đương”, “tuỳ theo thiết kế của chủ đầu tư”…

Không ít trường hợp khách hàng mua căn hộ khi nhận bàn giao thì phát hiện căn hộ được bàn giao không đúng với thiết kế ban đầu và/hoặc nội thất, chất lượng căn hộ không đúng với bản mô tả ban đầu tại hợp đồng đã ký kết hoặc không phù hợp với khái niệm “tương đương” đã thoả thuận.

Để hạn chế các tranh chấp liên quan đến trường hợp này, người mua cần yêu cầu chủ đầu tư cung cấp các văn bản về nghiệm thu chất lượng công trình, các văn bản thể hiện nguồn gốc, xuất xứ nguyên vật liệu… Ngoài ra, khi giao kết hợp đồng mua bán căn hộ du lịch thì người mua cần yêu cầu chủ đầu tư làm rõ các khái niệm như “vật liệu tương đương”, “chất lượng tương đương”…, đây là các khái niệm có nội hàm rộng, dễ đánh tráo nhưng lại khó chứng minh.

Trường hợp xác định rõ chủ đầu tư có vi phạm thì người mua có quyền yêu cầu chủ đầu tư khắc phục trong thời hạn nhất định theo thoả thuận tại hợp đồng trước khi ký biên bản nhận bàn giao căn hộ. Trường hợp trong hợp đồng mua bán quy định chế tài do vi phạm thì người mua cũng nên xem xét áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Vì vậy, hợp đồng cần ghi nhận rõ những quyền này của người mua căn hộ.

Ngoài ra, nếu người mua có ý định theo đuổi một tiến trình tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình khi chủ đầu tư bàn giao căn hộ không đúng chất lượng đã thoả thuận (khi các bên không thể thống nhất được qua quá trình tự thương lượng, hoà giải) thì phải cân nhắc đến việc thu thập chứng cứ chứng minh cho lập luận này.

Như vậy, Luật KDBĐS 2023 ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho các giao dịch của loại hình bất động sản nghỉ dưỡng, bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người mua. Tuy nhiên, người mua cũng cần phải lưu ý đến những nội dung như bài viết đã đề cập để hạn chế rủi ro liên quan đến những vấn đề này trong quá trình giao dịch.

Theo: https://thesaigontimes.vn

Lận đận danh phận condotel

Không như kỳ vọng, các chuyên gia cho biết số lượng condotel hiện nay đang rất lớn, song tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và Luật Đất đai năm 2024, danh phận của condotel vẫn rất mờ nhạt.

Từng là “gà đẻ trứng vàng”, phát triển ồ ạt trong giai đoạn 2015 – 2018, thế nhưng sau ồn ào từ việc thiếu hành lang pháp lý rõ ràng, khó khăn trong cấp sổ hồng, đến vụ vỡ trận cam kết lợi nhuận Cocobay, phân khúc condotel rơi vào trầm lắng và chưa tìm thấy lối ra.

 Nguồn cung và lượng tiêu thụ condotel trong tháng 5/2024. Nguồn: DKRA

Nguồn cung và lượng tiêu thụ condotel trong tháng 5/2024. Nguồn: DKRA

Condotel “dò đáy”

Thực tế, theo báo cáo của Hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), condotel xuất hiện ở nước ta từ năm 2014 và phát triển bùng nổ ở giai đoạn 2015 – 2018, hàng chục nghìn sản phẩm condotel với tổng giá trị khoảng 297.128 tỷ đồng được tung ra thị trường tại nhiều địa bàn có lợi thế du lịch như Nha Trang (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang), Đà Nẵng…

Thế nhưng bắt đầu từ năm 2019, sau những “cú đấm bồi” từ pháp lý đến cam kết lợi nhuận, dịch bệnh… loại hình sản phẩm này mất điểm trong mắt các nhà đầu tư, rơi vào trầm lắng.

Đã có nhiều kỳ vọng rằng khi các “luật đinh” của thị trường bất động sản được sửa đổi, bổ sung, condotel sẽ có “danh phận”, sớm phục hồi và ổn định.

Song, báo cáo phân tích mới đây của DKRA cho thấy sức cầu condotel hồi quý I/2024 đã xuống mức thấp nhất trong 5 năm qua, lượng tiêu thụ chỉ bằng 35% so với cùng kỳ, 90% dự án không ghi nhận phát sinh giao dịch trong quý. Trong khi đó, 2 tháng đầu của quý II, thị trường cũng chỉ ghi nhận 1 dự án ở giai đoạn tiếp theo và tiêu thụ được 1 căn.

Theo ông Nguyễn Văn Đính – Chủ tịch VARS, lượng giao dịch kém do nguồn cung yếu, hàng tồn kho chủ yếu là sản phẩm giá trị cao, phải cạnh tranh trực tiếp với các sản phẩm đã cắt lỗ từ trước của các chủ đầu tư. Trong khi, niềm tin nhà đầu tư chưa được phục hồi do hành lang pháp lý chưa rõ ràng, chủ đầu tư không thực hiện đúng cam kết, thanh khoản kém.

“Một số dự án condotel vẫn “đóng” giỏ hàng, không phát sinh giao dịch do vướng mắc pháp lý. Để “hồi sinh” loại hình condotel, Nhà nước cần sớm “lấp đầy” khoảng trống pháp lý cho người mua, quy định ràng buộc quyền lợi, trách nhiệm rõ ràng của chủ đầu tư, khách mua, đơn vị quản lý…”, ông Đính chia sẻ.

Mờ nhạt danh phận condotel

Cũng theo đánh giá của nhiều chuyên gia “mùa đông condotel” sẽ tiếp tục kéo dài. Sức cầu chung tiếp tục giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi trong ngắn hạn.

Bởi lẽ, dù đã được nhắc đến tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và Luật Đất đai 2024 nhưng nội dung của 2 bộ luật quan trọng trên cho thấy, bóng dáng của loại hình condotel vẫn còn khá mờ nhạt.

Cụ thể, tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có 6 lần cụm từ “du lịch” được nhắc đến, tuy nhiên cụ thể loại hình căn hộ du lịch (condotel) là gì, định nghĩa, chức năng, quyền sở hữu,…. dường như vẫn chưa được thể hiện một cách rõ ràng.

Hay tại Luật Đất đai 2024 nội dung liên quan đến đất đai gắn với loại hình căn hộ du lịch, nghỉ dưỡng cũng chưa thật sự xuất hiện một cách rõ ràng, tường minh.

Tại điều 9 quy định về phân loại đất hiện không xuất hiện cụm từ “du lịch, nghỉ dưỡng” nào và loại hình condotel được cho là nằm trong phạm trù điều chỉnh của khoản đ, điểm 2 điều 9 “ Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, gồm đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp; đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản”.

Tại điều 143 quy định về Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với đất xây dựng khu đô thị, khu dân cư nông thôn, dự án sản xuất kinh doanh có nhiều mục đích sử dụng đất khác nhau, loại hình condotel có thể nằm trong phạm trù của khoản C, điểm 1.

Song, khái niệm về căn hộ du lịch, nghỉ dưỡng (condotel) liên quan đến xác định mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,… vẫn chưa được tách bạch một cách rõ ràng, tường minh.

Trao đổi riêng với DĐDN, ông Đỗ Viết Chiến – Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (VNREA) cho rằng condotel là loại sản phẩm mới so, thiếu hành lang pháp lý rõ ràng, thế nhưng nhiều địa phương lại cấp phép cho phát triển ồ ạt, số lượng condotel trên cả nước hiện nay là rất lớn và khó để “xử lý”.

Việc định danh cho phân khúc này đã được tính toán nhiều lần, thế nhưng rất khó. Bởi xét trên khía cạnh quy hoạch, xác định đơn vị ở sẽ làm gia tăng dân số, và đặt ra những yêu cầu nhiều hơn về hạ tầng xã hội như y tế, trường học…Cũng từ đó, để xác định loại đất thực hiện dự án là gì cũng khó khăn.

Theo ông Chiến, khung pháp lý vẫn tiếp tục là trở ngại lớn cho condotel, ngay cả Luật Đất đai 2024 hay trước đó là Nghị định 10/2023/NĐ-CP cũng khó cởi trói vấn đề cấp sổ hồng. Muốn giải phóng hàng tồn kho lớn không phải là câu chuyện một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có thời gian triển khai dài và có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bên, từ Chính phủ, các ban ngành cho đến các chủ đầu tư và nhà đầu tư.

Theo: https://cafef.vn

Doanh nghiệp bất động sản nỗ lực gia hạn nợ trái phiếu

Trước áp lực đáo hạn ngày càng lớn, nhiều doanh nghiệp bất động sản buộc phải tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính nhằm duy trì hoạt động và đảm bảo dòng tiền.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục chứng kiến làn sóng gia hạn nợ, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản. Trước áp lực đáo hạn lớn, nhiều doanh nghiệp buộc phải tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính để duy trì hoạt động.

Một trong những trường hợp điển hình là CTCP Đầu tư và Phát triển Bất động sản Thế Kỷ (Cen Invest). Trái phiếu mã CIVCB2124001, phát hành tháng 10/2021 với lãi suất cố định 10,5%/năm, ban đầu có kỳ hạn 3 năm và dự kiến đáo hạn vào ngày 13/10/2024. Tuy nhiên, sau lần thỏa thuận thứ hai với trái chủ vào cuối tháng 10/2024, Cen Invest đã kéo dài thời gian tất toán đến ngày 13/10/2025.

Trước đó, trái phiếu này được đảm bảo bằng 50 triệu cổ phiếu CTCP Bất động sản Thế Kỷ (Cen Land, HoSE: CRE) của Cen Group cùng quyền tài sản từ hợp đồng hợp tác giữa Galaxy Land và CRE tại dự án khu đô thị Hoàng Văn Thụ (Hoàng Mai, Hà Nội). Tuy nhiên, với việc giá cổ phiếu CRE lao dốc từ mức hơn 25.000 đồng/cổ phiếu đầu năm 2022 xuống dưới 7.000 đồng/cổ phiếu, Cen Invest đã phải bổ sung tài sản đảm bảo.

sss
Cơ cấu trái phiếu đáo hạn theo ngành năm 2025 theo số liệu của VNDIRECT Research.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Theo văn bản gửi Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) ngày 11/2/2025, doanh nghiệp này đã thế chấp thêm 20,7 triệu cổ phần CTCP Đầu tư Thành Đạt VN (tương đương 67,87% vốn điều lệ), chủ đầu tư dự án khu dân cư Khe Cát tại Quảng Yên, Quảng Ninh, cùng quyền tài sản phát sinh từ dự án.

Không chỉ đóng vai trò tài sản thế chấp, Thành Đạt VN còn cam kết bảo lãnh thanh toán cho trái phiếu của Cen Invest, đồng thời không phát sinh thêm khoản vay mới hay dùng tài sản để đảm bảo cho nghĩa vụ khác. Nếu phải bán toàn bộ cổ phần tại Thành Đạt VN để thanh toán nợ, Cen Invest cam kết mức giá tối thiểu 373 tỷ đồng, với điều kiện được trái chủ chấp thuận. Giao dịch này sẽ hoàn tất muộn nhất vào ngày 31/05/2025, và số tiền thu về sau khi trừ chi phí sẽ được chuyển vào tài khoản trả nợ trái phiếu.

Tình trạng tương tự cũng xảy ra tại CRE, doanh nghiệp vừa được trái chủ chấp thuận gia hạn trái phiếu CRE202001 thêm gần 9 tháng. Trái phiếu này có giá trị 450 tỷ đồng, phát hành cuối năm 2020 với kỳ hạn ban đầu 36 tháng, nhưng đã được gia hạn tổng cộng 22 tháng. Đến cuối năm 2024, công ty đã mua lại một phần nợ gốc, giảm dư nợ xuống còn khoảng 354 tỷ đồng.

Trái phiếu của CRE cũng được đảm bảo bằng gần 59 triệu cổ phiếu CRE, cùng với 50 triệu cổ phiếu Cen Invest, quyền tài sản từ Galaxy Land và một số tài sản khác. Tuy nhiên, do giá trị cổ phiếu sụt giảm, công ty phải điều chỉnh phương án thanh toán.

Theo văn bản gửi HNX ngày 24/1/2025, CRE cam kết chuyển toàn bộ dòng tiền từ hợp đồng hợp tác tại dự án Khe Cát vào tài khoản trả nợ cho trái chủ. Đồng thời, lãi suất trái phiếu cũng được điều chỉnh giảm từ 12%/năm xuống 10,5%/năm từ tháng 2/2025.

Ngoài Cen Invest và CRE, nhiều doanh nghiệp bất động sản khác cũng đang phải gồng mình gia hạn nợ trái phiếu. Đơn cử, Công ty CP Đầu tư và Kinh doanh Nam An đối mặt với khoản trái phiếu đáo hạn 4.700 tỷ đồng, Nam An đang gặp áp lực lớn khi tình hình tài chính khó khăn, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu vượt ngưỡng an toàn.

Hay tại Công ty cổ phần Đầu tư Kinh Doanh và Phát triển Đô thị Ngôi Sao Phương Nam, với 4.695 tỷ đồng trái phiếu đến hạn, doanh nghiệp này đang trong tình trạng báo động về khả năng thanh toán.

Tương tự, Công ty cổ phần Đầu tư Nam Long (NLG) đã tất toán trước hạn 2 lô trái phiếu tổng giá trị 1.000 tỷ đồng để giảm áp lực nợ, mặc dù kỳ hạn gốc đến tháng 3/2029 mới đáo hạn. Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Bất động sản Hải Phát cũng đã hoàn tất mua lại 390 tỷ đồng trái phiếu trước hạn, đưa dư nợ trái phiếu về 0…

Theo báo cáo của bộ phận nghiên cứu Chứng khoán VNDIRECT (VNDIRECT Research), năm 2025 sẽ tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi tổng giá trị trái phiếu đáo hạn ước tính lên đến 203.000 tỷ đồng, tăng 8,5% so với năm 2024. Trong đó, nhóm bất động sản đối mặt với áp lực lớn nhất với hơn 130.000 tỷ đồng trái phiếu đến hạn, chiếm 64% tổng giá trị đáo hạn toàn thị trường và cao gấp đôi so với năm 2024.

Một yếu tố đáng lo ngại là 56.000 tỷ đồng trái phiếu bất động sản đã được gia hạn trước đó sẽ đến hạn thanh toán trong năm 2025, làm gia tăng áp lực thanh khoản cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường bất động sản vẫn trầm lắng. Việc tháo gỡ pháp lý cho các dự án vẫn còn chậm so với kỳ vọng, kéo theo khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp địa ốc.

Không chỉ ngành bất động sản, các doanh nghiệp tài chính – ngân hàng cũng có khối lượng trái phiếu đáo hạn đáng kể trong năm 2025, với giá trị hơn 33.000 tỷ đồng, chiếm hơn 16% tổng giá trị đáo hạn.

Nhìn chung, với áp lực nợ ngày càng lớn, doanh nghiệp bất động sản không chỉ phải tìm cách tái cơ cấu nghĩa vụ tài chính mà còn phải đảm bảo dòng tiền ổn định để vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Theo https://baodautu.vn/

Bản án phúc thẩm Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh giữa Nhà đầu tư và Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine, nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bản án số: 405/2024/DS-PT
Ngày: 24/6/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

page1image1410903984 page1image1410904272

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Liên Anh

Các Thẩm phán: Ông Vũ Toàn Giang
Bà Ngô Tuyết Băng

Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thùy Trang, Thư ký Tòa án

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội: Nguyễn Thị Phương Lan, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Ngày 24 tháng 6 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 177/2024/TLPT-DS ngày 20/5/2024 về việc “Yêu cầu thực hiện bảo lãnh”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 264/2024/QĐ-PT ngày 28/5/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 355/QĐPT-HPT ngày 12/6/2024, giữa các đương sự sau:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thanh Phương, sinh năm 1978

HKTT: Số 108 Quán Thánh, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.

Hiện trú tại: Căn DL 3508 Tòa S2, Sunshine City, KĐT Ciputra, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Sơn Đen, sinh năm 1982 và ông Lò Việt Cường, sinh năm 1998. (Theo Giấy ủy quyền số công chứng 2358, quyển số 02/2023 TP/CC – SCC/HDGD ngày 20/10/2023)

* Bị đơn: Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine, nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine (đổi tên doanh nghiệp 06/5/2024).

Địa chỉ: Tầng 9, Tòa nhà Sunshine Center, 16 Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Văn Trường – Tổng Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đỗ Thị Ngọc. (Theo Văn bản ủy quyền số 31. UQ – SSG ngày 11 tháng 12 năm 2023)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Công ty cổ phần đầu tư KSFINANCE (Tên viết tắt là: KSFINANCE);

Địa chỉ trụ sở chính: Tầng 7, Toà nhà Sunshine Center, số 16 Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội;

  1. Người đại diện theo pháp luật: Ông Lương Thành Long; Chức vụ, Tổng Giám đốc;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Nghị Lực, bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, ông Đặng Thành Vinh – chuyên viên (Theo Giấy ủy quyền số 42/2024/GUQ – KSFINANCE ngày 21/6/2024).

Do có kháng cáo của Công ty cổ phần tập đoàn SUNSHINE là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 16/9/2022, Công ty Cổ phần Đầu tư KSFinance và bà Phương ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 với nội dung chính như sau:

– Giá trị khoản đầu tư: 1.000.000.000 đồng do bà Nguyễn Thanh Phương đầu tư vào Công ty Cổ phần Đầu tư KSFinance (Phần A Hợp đồng)

– Thời gian hợp tác: 01 năm kể từ ngày 16/9/2022 đến ngày 18/9/2023 (Phần A Bà Nguyễn Thanh Phương góp vốn và Công ty Cổ phần Đầu tư KS Finance quản lý phần vốn góp của bà Phương để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án SunShine Capital Tây Thăng Long và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái quy định pháp luật nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thoả thuận tại Hợp đồng (Khoản 1.1 Điều 1 Phần B Hợp đồng)

Cổ phần Đầu tư KSFinance cam kết bà Phương sẽ được hưởng các quyền lợi về đầu tư theo quy định tại Điều 3 Hợp đồng (khoản 1.2 Điều 1 Phần B Hợp đồng

Bà Phương được quyền (Điều 3 Hợp đồng Phần B Hợp đồng):

Được hoàn lại giá trị khoản đầu tư và các khoản LNCĐ và các ưu đãi khác (nếu có) theo thoả thuận và theo chính sách của Công ty Đầu tư KSFinance từng thời kỳ (nếu có). Khi hết thời hạn hoặc khi có yêu cầu của bà Phương bằng cách thao tác trên ứng dụng KSInvest hoặc gửi Thông báo bằng văn bản tới bên Công ty Đầu tư KSFinance. Các khoản tiền này sẽ được thanh toán chuyển khoản vào tài khoản của bà Phương đã đăng ký với Công ty Đầu tư KSFinance.

Bà Phương được rút toàn bộ khoản đầu tư trước khi hết thời hạn (tất toán Khoản đầu tư trước hạn) bằng việc thực hiện lệnh chấm dứt đầu tư trên ứng dụng KSInvest hoặc gửi Thông báo bằng văn bản tới bên Công ty Đầu tư KSFinance. Trong trường hợp này, LNCĐ sẽ được giảm xuống theo chính sách của Công ty thông báo cho bà Phương có hiệu lực tại thời điểm ký Hợp đồng và được bà Phương gửi thông báo xác nhận tới Công ty.

Kèm theo Hợp đồng Phụ lục số 01 – Bảng minh hoạ thu nhập từ Hợp tác kinh doanh và kết quả đầu tư, nêu rõ lợi nhuận kỳ 01 nhận vào ngày 16/12/2022 với số tiền là 24.869.178 đồng.

Nghĩa vụ của Công ty Đầu tư KSFinance theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 nêu trên được Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine bảo lãnh và đã được Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine phát hành Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022 với nội dung chính gồm: Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ của Công ty Đầu tư KSFinance theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ký giữa Công ty Đầu tư KSFinance và bà Phương

Phạm vi bảo lãnh là các nghĩa vụ thanh toán bao gồm cả nghĩa vụ hoàn trả khoản đầu tư, chi trả lợi nhuận, bồi hoàn và bồi thường thiệt hại phát sinh từ Hợp đồng Bảo lãnh có hiệu lực kể từ ngày 16/9/2022 đến hết ngày 07/11/2023.

Ngày 09/12/2022, bà Phương nhắn tin cho chị Nguyễn Ngọc Trâm (sale của công ty) là người chăm sóc Hợp đồng của bà Phương để hỏi việc kỳ trả lãi đầu tiên. Sau đó chị Trâm mới báo bà Phương là Công ty đã gửi Thông báo gia hạn thanh toán lãi (mà trước đó bà Phương chưa hề nhận được) và chị Trâm đã gửi bản ảnh Thông báo gửi cho bà Phương. Khi bà Phương phản hồi không đồng ý thì chị Trâm cho bà Phương email và số điện thoại của chị Nguyễn Kim Tuyến – Phó Tổng Giám đốc kinh doanh.

Sau đó, bà Phương nhiều lần gọi điện cho chị Tuyến nhưng chị Tuyến luôn tắt máy không nghe điện. Ngày 14/12/2022 bà Phương viết email cho chị Tuyến yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, thanh toán lợi nhuận đúng hạn vào ngày 16/12/2022, sau đó bà Phương không nhận được phản hồi gì từ chị Tuyến. Ngày 17/12/2022, bà Phương tiếp tục gửi email cho chị Tuyến nói rõ chưa nhận được tiền lợi nhuận kỳ đầu và yêu cầu phải làm rõ vấn đề.

Ngày 19/12/2022, chị Tuyến trả lời email của bà Phương hướng dẫn bà Phương liên hệ chị Huyền Trang – Giám đốc khu vực quản lý khoản đầu tư của bà Phương sẽ là đơn vị cấp cơ sở để giải quyết. Cùng ngày 19/12/2022, bà Phương đã thực hiện lệnh tất toán khoản Đầu tư trước hạn trong phần mềm KSInvest nhưng phần mềm đã bị khóa chức năng tất toán, rất nhiều lần bà Phương thực hiện lệnh tất toán nhưng đều bị báo không thực hiện được.

Trước thái độ vòng vo, lẩn tránh của phía Công ty Đầu tư KSFinance và do công việc quá bận nên bà Phương đã uỷ quyền cho Luật sư thay mặt giải quyết các vấn đề yêu cầu tất toán Khoản đầu tư trước hạn (Hợp đồng uỷ quyền ngày 20/12/2022 giữa bà Phương và Công ty Luật)

Ngày 21/12/2022, Công ty Luật viết email cho chị Huyền Trang yêu cầu hướng dẫn chi tiết và thực hiện thủ tục tất toán Khoản đầu tư trước hạn của bà Phương theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 nhưng phía Công ty Đầu tư KSFinance tiếp tục không có phản hồi.

Ngày 26/12/2022, đại diện Công ty Luật yêu cầu được làm việc với lãnh đạo Công ty Đầu tư KSFinance nhưng họ từ chối không gặp, cố tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Nhiều lần sau đó, phía đại diện uỷ quyền của bà Phương liên tục yêu cầu gặp và đề nghị thực hiện thủ tục theo đúng quy định hợp đồng nhưng phía Công ty Đầu tư KSFinance đều trốn tránh không thực hiện. Chỉ sau khi Công ty Luật phát hành công văn và bà Phương có email gửi đến Công ty Đầu tư KSFinance yêu cầu nêu rõ căn cứ điều khoản Luật nào để Công ty Đầu tư KSFinance từ chối làm việc với đại diện theo ủy quyền của bà Phương, phía Công ty Đầu tư KSFinance mới đồng ý gặp đại diện của Công ty Luật.

Tại buổi làm việc ngày 06/01/2023, các đại diện phía Công ty Đầu tư KSFinance đã ra 02 ý kiến không đồng nhất thể hiện rõ thái độ trốn tránh nghĩa vụ thanh toán tiền cho bà Phương, cụ thể chị Phan Thị Huyền Trang Giám đốc khu vực thông báo dừng tất toán trước hạn; còn anh Nguyễn Văn Kiên – Ban xử lý khiếu nại trả lời lỗi phần mềm nên tạm thời app đóng lại mục rút trước hạn.

Với lý do anh Kiên đưa ra bà Phương không chấp nhận vì bà Phương đã và đang yêu cầu tất toán hợp đồng trước thời hạn bằng thủ tục trực tiếp làm việc với Công ty đầu tư KSFinance, không qua app. Với lý do chị Trang đưa ra, đây là lý do trái luật, trái hợp đồng, Điều 3.2 Điều 3 Phần B Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ngày 16/9/2022, bà Phương được quyền yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu tư KSFinance hoàn lại giá trị khoản đầu tư, hợp đồng được ký kết giữa 02 bên, do đó, không có bất kỳ căn cứ nào để phía Công ty Đầu tư KSFinance tự ý thay đổi điều khoản hợp đồng như chị Trang nêu. Do vậy, đã đầy đủ chứng cứ chứng minh Công ty Đầu tư KSFinance vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền cho bà Phương nên bà Phương đã gửi văn bản yêu cầu Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh Hợp đồng nhưng phía Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine không phản hồi, không chịu thực hiện bảo lãnh theo đúng quy định của pháp luật và các cam kết đã nêu tại Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022.

Bà Phương xác nhận không ký kết phụ lục 02 của hợp đồng ITLH00214652 với Công ty KS Finance.

Bà Phương yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Buộc Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022 mà Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine đã phát hành tới bà Phương, cụ thể: Hoàn trả tổng tiền gốc và lợi nhuận cụ thể: 1.100.290.575 đồng. Trong đó:

Tiền gốc là: 1.000.000.000 đồng
Tiền lợi nhuận là: 100.296.575 đồng. Gồm những đợt sau: Đợt 1: vào ngày 12/12/2022: 24.869.178 đồng
Đợt 2: vào ngày 16/3/2023: 24.595.890 đồng
Đợt 3: vào ngày 16/6/2023: 25.142.465 đồng
Đợt 4: vào ngày 18/9/2023: 25.689.042 đồng

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:

Qua quá trình rà soát và đối chiếu với các hồ sơ, tài liệu lưu trữ tại Công ty, Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine (sau đây gọi tắt là “Công Ty Sunshine”) đã phát hành Thư bảo lãnh đề ngày 16/9/2022 cho hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ký ngày 16/9/2022 giữa bà Nguyễn Thanh Phương và Công ty CP Đầu tư KSFINANCE (Sau đây gọi tắt là “Công ty KSFinance”) và phát hành Thư bảo lãnh đề ngày 16/09/2022 (sau đây gọi tắt là “Thư Bảo Lãnh”).

Việc phát hành Thư Bảo Lãnh sẽ tùy thuộc vào thỏa thuận giữa Công Ty Sunshine và Công ty KSFinance tại từng thời điểm. Công Ty Sunshine không can thiệp, không chịu trách nhiệm đối với các nội dung thỏa thuận tại các hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Công ty KSFinance và Nguyên đơn. Việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được thực hiện và tuân thủ trên cơ sở quy định pháp luật dân sự và các quy định pháp luật khác có liên quan và theo các điều khoản, nội dung của Thư Bảo Lãnh đã được Công Ty Sunshine phát hành.

Căn cứ nội dung Thư Bảo Lãnh đã phát hành, điều kiện để Công Ty Sunshine thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với Nguyên đơn khi và chỉ khi Nguyên đơn đáp ứng các điều kiện, bao gồm:

(i) Có thông báo bằng văn bản được ký hợp lệ bởi Bên Nhận Bảo Lãnh; (ii) Cung cấp bản gốc Thư Bảo Lãnh (Bản gốc) và Hợp Đồng Hợp Tác

(bản sao) đã ký;
(iii)Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và hồ sơ được gửi hợp lệ và ký

nhận bởi Tập Đoàn Sunshine trước hoặc vào ngày hết hạn Thư Bảo Lãnh. Mặt khác, căn cứ Điều 342 Bộ luật dân sự quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh: “Điều 342. Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh
1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại”

Theo đó, Nguyên đơn có trách nhiệm thực hiện các quyền yêu cầu thanh toán với bên có nghĩa vụ là Công ty KSFinance để đảm bảo trước tiên về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Về Phục lục số 02 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652, Công ty Sunshine không có ý kiến gì vì việc ký kết hợp đồng và phụ lục cùng các loại thủ tục khác là do hai bên bà Phương có Công ty KS Finance thực hiện. Công ty Sunshine chỉ là bên bảo lãnh.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, KSFINANCE với bà Nguyễn Thanh Phương có thỏa thuận ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 với các nội dung cơ bản như sau:

– Mục đích: Bà Nguyễn Thanh Phương đồng ý góp vốn với KSFINANCE và KSFINANCE đồng ý nhận quản lý phần vốn góp của bà Nguyễn Thanh Phương để thực hiện hoạt động kinh doanh và các mục đích đầu tư kinh doanh khác nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận.

– Giá trị khoản đầu tư: 1.000.000.000 VNĐ (Một tỷ đồng)
– Thời hạn đầu tư là: 01 năm từ ngày 16/9/2022 đến ngày 18/9/2023.
– Phân chia kết quả kinh doanh: Bà Nguyễn Thanh Phương được phân chia lợi nhuận cố định trên khoản đầu tư là 10.5%/năm.
Thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh nêu trên, KSFINANCE đã nhận khoản tiền đầu tư của bà Nguyễn Thanh Phương với số tiền là 1.000.000.000 VNĐ và thực hiện các hoạt động kinh doanh theo thỏa thuận tại hợp đồng đã ký.

Tuy nhiên, trong giai đoạn từ Quý IV năm 2022 đến nay, do sự suy thoái chung của nền kinh tế toàn cầu, thị trường bất động sản trong nước đóng băng, chính sách siết chặt tín dụng của các ngân hàng đã khiến cho các công ty bất động sản gặp rất nhiều khó khăn (không chỉ riêng KSFINANCE và các chủ đầu tư dự án bất động sản mà KSFINANCE có quan hệ hợp tác, đầu tư, trực tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn thu và dòng tiền của KSFINANCE.

Do đó, khi đến hạn hoàn lại giá trị khoản đầu tư và các lợi ích cố định theo hợp đồng đã ký kết, KSFINANCE chưa có khả năng thanh toán ngay cho bà Nguyễn Thanh Phương theo đúng thỏa thuận.

KSFINANCE cũng đã hết sức tạo điều kiện khi phát sinh vấn đề trên, KSFINANCE đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với bà Phương để nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm quyền lợi của khách hàng. Cụ thể, thời gian vừa qua, chúng tôi đã đề xuất khách hàng cảm thông và xem xét các phương án giảiquyết như sau:

(1) Gia hạn thời gian thực hiện Hợp đồng thêm 24 tháng để Công ty có thể thu xếp nguồn tiền hợp lý chi trả, đồng thời khách hàng sẽ được nhận thêm một khoản lợi nhuận bổ sung theo thỏa thuận của các bên.

(2) Chuyển đổi giá trị khoản tiền đầu tư sang thành khoản thanh toán các bất động sản khác đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và ký kết Hợp đồng mua bán với Chủ đầu tư, tại các Dự án: Sunshine Green Iconic, Sunshine Golden River, Sunshine Sky City, Sunshine Diamond River, Sunshine Capital Tây Thăng Long, Sunshine City, Sunshine Garden, Sunshine Palace,…

Tuy nhiên đến nay, nguyên đơn và KSFINANCE vẫn chưa đạt được sự đồng thuận. Công ty vẫn rất nỗ lực và thiện chí mong muốn thương lượng, hòa giải để tìm được tiếng nói chung với nguyên đơn trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên.

Quan điểm của công ty là thời hiệu Hợp đồng là một năm từ 16/9/2022 đến 18/9/2023. Chưa hết một năm nhưng đến khoảng tháng 3/2023 nguyên đơn đã khởi kiện là vi phạm Hợp đồng và Phụ lục số 02 của Hợp đồng. Ngày 05/01/2024, Công ty đã cung cấp cho Tòa án Phụ lục số 02, việc nguyên đơn cho rằng không biết có Phụ lục số 02 là không chính xác, vì Hợp đồng ký với khách hàng và thỏa thuận trên email, mỗi khách hàng có một tài khoản riêng để trao đổi với KS Finance. Công ty khẳng định trong bộ hồ sơ với bà Phương có Phụ lục số 02.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh Phương đối với Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine. Về việc yêu cầu thực hiện bảo lãnh theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ngày 19/6/2022.

Buộc Công ty CP Tập đoàn Sunshine phải thanh toán cho Bà Nguyễn Thanh Phương như sau:

Tiền nợ gốc là: 1.000.000.000 đồng; tiền lợi nhuận là: 100.296.575 đồng.

Tổng số tiền Công ty Sunshine phải thanh toán cho bà Nguyễn Thanh Phương là: 1.100.296.575 đồng.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn Công ty cổ phần tập đoàn SUNSHINE kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị đơn Công ty cổ phần tập đoàn SUNSHINE trình bày: Nguyên đơn không xuất trình được bản gốc Thư bảo lãnh. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thì Thư bảo lãnh đã hết thời hạn yêu cầu. Đề nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm.

Ngày 06/5/2024 công ty đã có thay đổi tên thành Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine đề nghị HĐXX ghi nhận.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn nhiều lần gửi đơn và đến gặp trực tiếp bị đơn và Công ty KSFinance yêu cầu thanh toán theo thỏa thuận của hợp đồng và thư bảo lãnh nhưng bị đơn và Công ty KSFinance không thanh toán. Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bà Phương là trong thời hạn của thư bảo lãnh nên đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần Đầu tư KSFinance đề nghị HĐXX xem xét giải quyết theo quy định.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần tập đoàn SUNSHINE nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

Về nội dung:

Bà Nguyễn Thanh Phương và Công ty cổ phần Đầu tư KSFinance cùng ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ngày 16/9/2022 và phụ lục 01 về bảng minh họa thu nhập từ Hợp tác kinh doanh và kết quả đầu tư. Nội dung hợp đồng: Giá trị khoản đầu tư: 1.000.000.000 đồng do bà Nguyễn Thanh Phương đầu vào Công ty Cổ phần Đầu tư KS Finance (Phần A Hợp đồng); Thời gian hợp tác: 01 năm kể từ ngày 16/9/2022 đến ngày 18/9/2023 (Phần A – Bà Nguyễn Thanh Phương góp vốn và Công ty Cổ phần Đầu tư KS Finance quản lý phần vốn góp của bà Phương để thực hiện hoạt động kinh doanh sản phẩm tại Dự án SunShine Capital Tây Thăng Long và các mục đích đầu tư kinh doanh khác không trái quy định pháp luật nhằm hướng tới phân chia lợi nhuận, kết quả đạt được theo thoả thuận tại Hợp đồng

Xét nội dung Hợp đồng hợp tác kinh doanh và phụ lục số 01 đều dựa trên cơ sở tự nguyện của hai bên và phù hợp với quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại các Điều 116, Điều 117 của Bộ luật dân sự, nên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên đương sự.

Đối với Phụ lục số 02 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các đương sự không có ý kiến gì về Phụ lục 02, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

*Về việc yêu cầu thực hiện bảo lãnh:

Đối chiếu nội dung của Hợp đồng hợp tác kinh doanh và Phụ lục 01 nêu trên, cũng như quá trình thực hiện Hợp đồng, thấy: Công ty Ks Finance đã vi phạm thỏa thuận trong Hợp đồng và Phụ lục 01 đã ký giữa hai bên, do không yêu cầu trả được khoản tiền nên bà Phương khởi kiện, yêu cầu Công ty Sunshine thực hiện bảo lãnh theo đó Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ của Công ty Đầu tư KSFinance theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ký giữa Công ty Đầu tư KSFinance và bà Phương. Phạm vi bảo lãnh là các nghĩa vụ thanh toán bao gồm cả nghĩa vụ hoàn trả khoản đầu tư, chi trả lợi nhuận, bồi hoàn và bồi thường thiệt hại phát sinh từ Hợp đồng Bảo lãnh có hiệu lực kể từ ngày 16/9/2022 đến hết ngày 07/11/2023. Điều này được quy định trong Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022 của Công ty cổ phần tập đoàn Sunshine.

Xét thấy Thư bảo lãnh phù hợp với quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội, hai bên cũng đã xác nhận có Thư bảo lãnh đối với HĐHTKD số ITLH00214652. Trong Thư bảo lãnh có quy định như sau: “Các nghĩa vụ thanh toán của Bên được Bảo Lãnh (kể cả nghĩa vụ hoàn trả khoản đầu tư, chi trả lợi nhuận, bồi hoàn và bồi thường thiệt hại) cho Bên nhận bảo lãnh phát sinh từ hợp đồng hợp tác; Việc bảo lãnh có hiệu lực kể từ ngày phát hành (ngày 16/9/2022) đến hết ngày 07/11/2023.

Do vậy, yêu cầu thực hiện bảo lãnh của nguyên đơn đối với bị đơn vẫn trong thời hạn Thư bảo lãnh. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu thực hiện bảo lãnh của bà Nguyễn Thanh Phương đối với Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine là có căn cứ.

Đối với số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện bảo lãnh: Bà Phương yêu cầu Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh ngày 16/9/2022 mà Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunshine đã phát hành tới bà Phương, cụ thể: Hoàn trả tổng tiền gốc và lợi nhuận cụ thể: 1.100.296.575 đồng. Trong đó:

Tiền gốc là: 1.000.000.000 đồng
Tiền lợi nhuận là: 100.296.575 đồng. Gồm 04 đợt như sau:
Đợt 1: vào ngày 12/12/2022: 24.869.178 đồng
Đợt 2: vào ngày 16/3/2023: 24.595.890 đồng
Đợt 3: vào ngày 16/6/2023: 25.142.465 đồng
Đợt 4: vào ngày 18/9/2023: 25.689.042 đồng
– Về yêu cầu thanh toán số tiền gốc 1.000.000.000 đồng, do Công ty KS

Finance đã vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng và phụ lục 01 đối với bà Nguyễn Thanh Phương nên buộc phải thanh toán số tiền gốc 1.000.000.000 đồng cho bà Phương. Do bà Phương yêu cầu việc thực hiện bảo lãnh, nên theo như nội dung thư bảo lãnh, Công ty Sunshine phải thực hiện trả số tiền nợ gốc 1.000.000.000 đồng cho bà Phương.

– Về yêu cầu thanh toán số tiền lợi nhuận 100.296.575 đồng

Theo quy định tại Điều 3 Phần A – Phần thông tin “Phân chia kết quả kinh doanh: Lợi nhuận cố định áp dụng và tính trên Khoản đầu tư là 10.5%/năm”. Việc quy định về phần trăm lợi nhuận là thỏa thuận tự nguyện của các bên và được quy định trong hợp đồng. page9image1759711760page9image1759712048 page9image1759712336 page9image1759712624 page9image1759712912 page9image1759713200 page9image1759713488

Trong thư bảo lãnh quy định về phạm vi bảo lãnh, Công ty Sunshine phải chi trả số tiền lợi nhuận cho bên nhận bảo lãnh. Do vậy, Công ty Sunshine phải thanh toán số tiền lợi nhuận là 100.296.575 đồng.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của HĐXX.

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Sunshine.

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, bị đơn Công ty Sunshine phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn Công ty Sunshine phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm được nhận lại tạm

ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ

nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 20/3/2024 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

– –

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ:
Điều 116, 117, 280, 335, 357, 513, 466, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí.

Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh Phương đối với

Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine. Về việc yêu cầu thực hiện bảo lãnh theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số ITLH00214652 ngày 19/6/2022.

Buộc Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine phải thanh toán cho bà Nguyễn Thanh Phương như sau: Tiền nợ gốc là: 1.000.000.000 đồng; tiền lợi nhuận là: 100.296.575 đồng.

Tổng số tiền Công ty Sunshine phải thanh toán cho bà Nguyễn Thanh Phương là: 1.100.296.575 đồng.

Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm:
Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine nay là Công ty cổ phần phát triển

tập đoàn Sunshine phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm đối trừ vào số tiền dự phí kháng cáo đã nộp tại Biên lai thu số 0009551 ngày 10/4/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty cổ phần Tập đoàn Sunshine nay là Công ty cổ phần phát triển tập đoàn Sunshine phải chịu 45.008.717 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thanh Phương không phải chịu án phí. Hoàn trả cho bà Phương số tiền 21.373.038 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0009024 ngày 23/10/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

– VKSND Thành phố Hà Nội;
– TAND quận Nam Từ Liêm
– Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm;
– Các đương sự;
– Lưu văn phòng;
– Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Trần Thị Liên Anh

Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án

(LĐ&PL) Trao đổi với PV Báo Lao động Thủ đô, Luật sư Trần Văn Sáng, Công ty Luật TNHH Hiệp Thành cho rằng: “Đã hơn 03 tháng qua kể từ khi xảy ra vụ án, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa tiến hành trưng cầu giám định đối với người đã chết và những người bị thương là chưa đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như nhanh chóng xử lý những sai phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan”. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn.

PV: Văn bản số 587 ngày 3/3/2023 của Bệnh viện Bạch Mai cho biết, trong số những công nhân bị nhiễm độc methanol khi làm việc tại Công ty TNHH HS Tech Vina (Công ty HS Tech Vina) thì 1 người đã tử vong, 4 người tiên lượng di chứng mù và 1 người tiên lượng di chứng nặng với não (rối loạn ý thức, rối loạn vận động). Thưa luật sư, như vậy có thể coi đó là vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hay chưa? Và cơ quan nào chịu trách nhiệm tiến hành điều tra vụ việc? (Sở lao động Thương binh và xã hội Bắc Ninh hay Công an thị xã Thuận Thành?).

Luật sư Trần Văn Sáng: Để trả lời cho câu hỏi đây có phải là vụ tai nạn lao động hay không? Đặc biệt nghiêm trọng không? Thì trước hết, chúng ta cần xác định tai nạn lao động là gì?

Theo quy định tại khoản 8, Điều 3 – Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 thì tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.

Như vậy, theo quy định này, thì sự việc 35 công nhân bị nhiễm độc methanol trong quá trình làm việc tại xưởng sản xuất của Công ty HS Tech Vina đủ điều kiện để coi là một vụ tai nạn lao động.

Tiếp theo, để xác định mức nghiêm trọng của vụ tai nạn lao động này thì cần phải có con số thống kê số người chết hay tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những lao động thì mới có thể nhận định vụ án ở mức nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng được. Khi có con số thông kê cụ thể, đối chiếu với quy định tại điểm a, khoản 1, khoản 5 Điều 295 – Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 97, Điều 1, Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2017 quy định về tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người thì cơ quan chức năng có thể xác định được mức nghiêm trọng của vụ tai nạn.

Còn về thẩm quyền điều tra vụ việc. Theo điểm b, khoản 2, Điều 11 – Nghị định 39/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ hướng dẫn Luật An toàn, vệ sinh lao động thì trước hết thẩm quyền điều tra thuộc Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và xã hội của địa phương nơi xảy ra tai nạn. Trong trường hợp này là Thanh tra Sở LĐ-TB& XH tỉnh Bắc Ninh Quy định cụ thể như sau:

Điều 11. Quyết định thành lập Đoàn Điều tra tai nạn lao động

2. Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh

a) Khi nhận được tin báo xảy ra tai nạn làm chết người hoặc làm từ 02 người bị tai nạn nặng trở lên thuộc thẩm quyền Điều tra, Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cử người đến hiện trường trong thời hạn 02 giờ và thông báo cho các cơ quan cử người tham gia Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh.”.

Trong trường hợp tai nạn lao động có dấu hiệu hình sự, Đoàn Điều tra tai nạn lao động cần phối hợp với cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra vụ tai nạn lao động.

Cụ thể, theo điểm a, b khoản 1 Điều 20 Nghị định 39/2016/NĐ-CP ngày

15/5/2016 của Chính phủ hướng dẫn Luật An toàn, vệ sinh lao động quy định như sau:

Điều 20. Phối hợp Điều tra tai nạn lao động chết người và tai nạn lao động khác có dấu hiệu tội phạm

1. Việc phối hợp Điều tra tai nạn lao động chết người thực hiện như sau:

a) Khi phát hiện hoặc nhận được tin báo tai nạn lao động chết người, Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Cảnh sát Điều tra có thẩm quyền Điều tra ban đầu thực hiện việc sau đây: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, thu thập hồ sơ và tài liệu liên quan; đồng thời thông báo cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi;

b) Cơ quan đến nơi xảy ra tai nạn lao động trước có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đến sau (cơ quan Cảnh sát Điều tra thông báo cho Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh thông qua Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội). Sau khi thông báo, nếu Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh chưa đến kịp, cơ quan Cảnh sát Điều tra vẫn tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, thu thập hồ sơ và tài liệu liên quan theo quy định của pháp luật và có trách nhiệm thông báo cho Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh những công việc mà cơ quan Cảnh sát Điều tra đã tiến hành thuộc phạm vi quan hệ phối hợp quy định tại Điểm a Khoản này;”.

Như vậy, đối với vụ việc tai nạn lao động mà có dấu hiệu hình sự, thì thẩm quyền điều tra sẽ là Cơ quan Cảnh sát điều tra nơi xảy ra vụ việc tai nạn.

Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án
Luật sư Trần Văn Sáng – Công ty Luật TNHH Hiệp Thành (Đoàn luật sư TP Hà Nội)

PV: Thưa luật sư, sự việc đã xảy ra hơn 3 tháng, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa khởi tố vụ án, chưa đưa những công nhân bị nhiễm độc methanol nặng đi giám định thì liệu có bất thường hay không?

Luật sư Trần Văn Sáng: Theo chúng tôi đánh giá vụ việc này ở mức độ rất nghiêm trọng khi có tới 35 người nhiễm độc methanol, trong đó có người chết và nhiều người khác bị thương nặng. Do đó, các cơ quan Điều tra cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn khác, đặc biệt là về lĩnh vực Y tế để xác định rõ nguyên nhân dẫn đến chết người, gây ra mức tổn hại sức khỏe đối với người lao động nhằm đảm bảo xử lý đúng quy định của pháp luật, đúng người đúng tội.

Khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định. Các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định theo khoản 3 và 4, Điều 206 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bao gồm: Nguyên nhân chết người; Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động.

Bên cạnh đó, theo điểm b và c, khoản 1, Điều 208 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thời hạn giám định như sau:

“Điều 208. Thời hạn giám định

1. Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:

b) Không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 206 của Bộ luật này;

c) Không quá 09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 của Bộ luật này.”.

Theo đó, liên quan đến vấn đề chết người, mức tổn hại cho sức khỏe thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định. Thời gian giám định đối với trường hợp chết người không quá 01 tháng và không quá 09 ngày đối với tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động.

Tuy nhiên, đã hơn 03 tháng qua kể từ khi xảy ra vụ án, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa tiến hành trưng cầu giám định đối với người đã chết và những người bị thương là chưa đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như nhanh chóng xử lý những sai phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan. Do đó, cần đẩy nhanh việc thực hiện điều tra sớm kết quả vụ án và qua đó cần xác định nguyên nhân, mức độ tổn thương đối với những người lao động bị nhiễm độc methanol.

PV: Theo tìm hiểu của PV, trong số những người bị nhiễm độc methanol, nhiều công nhân là người dân tộc thiểu số, có người mới 16 tuổi, phần lớn trong số họ không ký hợp đồng trực tiếp với công ty HS Tech Vina mà được các công ty tuyển dụng lao động đưa vào công ty HS Tech Vina làm việc, họ cũng không được ký hợp đồng với các công ty này. Thưa luật sư, vậy Công ty HS Tech Vina hay các công ty kia phải chịu trách nhiệm với những người công nhân bị nhiễm độc methanol?

Luật sư Trần Văn Sáng: Đầu tiên, cần làm rõ vai trò của các công ty tuyển dụng người lao động đưa vào làm việc tại Công ty TNHH HS Tech Vina. Họ là đơn vị giới thiệu người lao động hay thực hiện cung ứng (cho thuê lại) người lao động để làm rõ trách nhiệm trong vụ việc này. Các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải xác định vai trò của Công ty đã giới thiệu người lao động để xem xét trách nhiệm với những người công nhân bị nhiễm độc methanol.

Thứ nhất, về đảm bảo quy định pháp luật lao động của người sử dụng lao động đối với người lao động. Theo thông tin đăng tải, người lao động được đưa vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina mà không được ký Hợp đồng lao động với Công ty HS Tech Vina hay Công ty cung ứng lao động – đơn vị đưa họ vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina là không đúng với quy định tại khoản 2, Điều 13 – Bộ luật Lao động năm 2019. Đồng thời, người sử dụng lao động không ký hợp đồng lao động bằng văn bản với người lao động là vi phạm quy định tại Điều 14 – Bộ luật Lao động năm 2019. Vì trường hợp này không thuộc trường hợp được giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.

Đối với hành vi vi phạm này, đơn vị sử dụng lao động có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 9 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/10/2022 của Chính Phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với mức tiền phạt cao nhất là 25 triệu đồng.

Thứ hai, về trách nhiệm đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.

Điều 134 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc như sau:

“Điều 134. Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc

1. Người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.

2. Người lao động có trách nhiệm chấp hành quy định, nội quy, quy trình, yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động; tuân thủ pháp luật và nắm vững kiến thức, kỹ năng về các biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.”

Như vậy, Công ty TNHH HS Tech Vina có trách nhiệm đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc, cụ thể là nhà máy, phân xưởng sản xuất theo đúng quy định của pháp luật yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động.

Khi Công ty HS Tech Vina có vi phạm trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc có thể bị xử lý vi phạm hành chính quy định tại Nghị định số 12/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng.

Ngoài ra, hành vi của Công ty có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người” quy định tại Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

PV: Một số người nhà nạn nhân của vụ nhiễm độc methanol cho biết, họ được Công ty HS Tech đưa tiền (có người vài triệu có người hàng trăm triệu) nhưng phải ký vào giấy những nội dung cam kết như tự chịu trách nhiệm về sức khỏe sau này hoặc không được khiếu kiện. Thưa luật sư, việc làm đó có phù hợp với quy định của pháp luật hay không?

Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án
Một công nhân làm việc tại Công ty HS Tech Vina bị nhiễm methanol rất nặng

Luật sư Trần Văn Sáng: Về trách nhiệm dân sự, cụ thể là bồi thường thiệt hại các bên chủ thể có quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận về mức bồi thường. Trường hợp Công ty HS Tech Vina và các Công ty cung ứng, giới thiệu người lao động vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina trao đổi, thỏa thuận và thống nhất về mức bồi thường, số tiền cụ thể bồi thường là phù hợp với nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong dân sự.

Về trách nhiệm hình sự, việc Công ty HS Tech Vina có dấu hiệu vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động mà mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì việc xử lý trách nhiệm hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan Nhà nước (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án).

Tóm lại, về trách nhiệm dân sự, các bên chủ thể có thể thỏa thuận với nhau về số tiền bồi thường thiệt hại; về trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm không thể thỏa thuận, nếu hành vi có mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu, xử lý trách nhiệm hình sự thì chủ thể thực hiện buộc phải chịu trách nhiệm pháp lý này.

PV: Vâng, xin cảm ơn luật sư về cuộc trao đổi này. Xin chúc luật sư thật nhiều sức khỏe. Trân trọng cảm ơn!

Để hiểu rõ thêm về vụ việc, chúng tôi đã làm việc với ông Nguyễn Quang Huy, Đội trưởng đội Điều tra tổng hợp- Công an Thị xã Thuận Thành. Suốt buổi làm việc, những câu hỏi chúng tôi đặt ra như: Cồn methanol nhập từ đâu, có đảm bảo chất lượng hay không, ai là người chỉ định đưa cồn methanol vào sản xuất? Những công nhân bị nhiễm độc methanol có được Công ty HS Tech Vina ký hợp đồng lao động và đóng bảo hiểm hay không? Tuy nhiên ông Huy chỉ trả lời chung chung: “Ngay sau khi nhận được tin báo Công ty HS Tech Vina xẩy ra tai nạn, Công an thị xã Thuận thành đã tiến hành các biện pháp theo quy định của pháp luật. Khi nào có kết quả cụ thể sẽ thông tin theo quy định”.

Đến ngay cả những câu hỏi của chúng tôi đưa ra mà “nhắm mắt cũng có thể trả lời được” như: Ngoài trường hợp chị H bị tử vong, có những trường hợp khác được BV Bạch Mai chẩn đoán là bị nhiễm độc methanol nặng có thể bị mù, Công an Thị xã Thuận Thành đã đưa đi giám định thương tật chưa? Đã khởi tố vụ án hay chưa?…thì ông Huy vẫn chỉ một mực nói: “Nội dung Báo Lao động Thủ đô đề nghị, do chưa có kết quả chính thức nên xin phép chúng tôi chưa phát ngôn”.

Theo Báo Lao động và Pháp luật.

Giao dịch bất động sản phải qua sàn: Nên thay bằng công chứng?

Việc giao cho sàn giao dịch xác nhận hợp đồng, giao dịch bất động sản là không đúng với bản chất độc lập trong việc thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công về phòng ngừa tranh chấp của Nhà nước.

LTS: Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) quy định bắt buộc một số giao dịch bất động sản phải thông qua sàn. Nhiều ý kiến đồng tình với quy định này nhưng cũng có người cho rằng đề xuất này là chưa hợp lý.

Để rộng đường dư luận, Pháp Luật TP.HCM xin giới thiệu bài viết của TS Ninh Thị Hiền; số báo sau, chúng tôi sẽ tiếp tục đăng tải các ý kiến khác xung quanh vấn đề này.

Từ năm 2014 đến nay, pháp luật không buộc phải công chứng, chứng thực đối với các giao dịch bất động sản (BĐS) của tổ chức kinh doanh BĐS mà tùy theo yêu cầu của các bên. Đây là một phần nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án liên quan đến giao dịch BĐS có số người bị hại lên đến vài ngàn người.

Tại dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và Luật Kinh doanh BĐS (sửa đổi) đang được lấy ý kiến nhân dân đã quy định: Chủ đầu tư bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, công trình xây dựng hình thành trong tương lai; chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS phải thực hiện thông qua sàn giao dịch BĐS.

Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) quy định chủ đầu tư bán nhà ở hình thành trong tương lai… phải thông qua sàn giao dịch bất động sản. 

Dự thảo cũng quy định xác nhận của sàn giao dịch BĐS đối với các giao dịch thông qua sàn là cơ sở để các chủ thể tham gia giao dịch kê khai nộp thuế cho Nhà nước, đăng ký biến động, sang tên quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất – tức là có giá trị như xác nhận trên hợp đồng của các tổ chức hành nghề công chứng hiện nay.

Có thể gây nên “bong bóng” BĐS

Theo dự thảo, sàn giao dịch BĐS là nơi tổ chức việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS; giới thiệu, kiểm tra giấy tờ về BĐS bảo đảm đủ điều kiện được giao dịch; niêm yết, cung cấp công khai thông tin về BĐS đủ điều kiện được đưa vào kinh doanh cho các bên tham gia có nhu cầu giao dịch; làm trung gian cho các bên trao đổi, đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua BĐS.

Mối quan hệ giữa chủ đầu tư dự án và sàn giao dịch BĐS được thực hiện thông qua hình thức chủ đầu tư thành lập ra sàn giao dịch BĐS để bán chính hàng hóa của mình, hoặc ký hợp đồng dịch vụ BĐS với sàn giao dịch BĐS, hoặc chủ đầu tư ủy quyền cho nhân viên môi giới BĐS của sàn giao dịch BĐS thực hiện.

Sàn giao dịch sẽ thực hiện nghĩa vụ của chính mình, thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có quyền hoặc bên ủy quyền. Khi đó, sàn sẽ được thu phí dịch vụ của chủ đầu tư hoặc khách hàng có BĐS được đưa lên sàn. Cá nhân môi giới BĐS được hưởng tiền thù lao, hoa hồng từ sàn.

Từ đây sẽ phát sinh mối quan hệ phụ thuộc giữa một bên giao việc và một bên thực hiện công việc nhằm đạt được mục đích của chủ đầu tư là bán hàng hóa càng nhiều thì tiền phí dịch vụ, thù lao, hoa hồng của sàn cũng như nhân viên môi giới sẽ càng tăng. Cá nhân môi giới, tư vấn BĐS sẽ quan tâm đến lợi ích tốt nhất của chủ đầu tư cũng như sàn giao dịch BĐS.

Bài học kinh nghiệm ở các quốc gia đã qua thời kỳ lạm phát và bong bóng BĐS chỉ ra rằng một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này xuất phát từ mối quan hệ phụ thuộc giữa sàn giao dịch BĐS, nhân viên môi giới, nhân viên tư vấn BĐS với chủ đầu tư.

Các nhân viên môi giới, tư vấn BĐS có thể gây nhầm lẫn hoặc không tiết lộ thông tin quan trọng, quảng cáo về sự đảm bảo tính thanh khoản của BĐS hay các vấn đề liên quan đến sự hoàn thiện về mặt vật lý cũng như pháp lý của BĐS nhằm chốt các giao dịch, cấp các khoản cho vay để đảm bảo doanh số bán hàng và kiếm tiền phí dịch vụ, thù lao và hoa hồng. Các nghĩa vụ mà chủ đầu tư áp đặt đối với các đại lý BĐS, các sàn giao dịch BĐS cũng có thể ảnh hưởng đến cách các nhân viên môi giới và tư vấn thực hiện nhiệm vụ của họ.

Cần một tổ chức độc lập

Hiện nay, tại Việt Nam nhân viên môi giới BĐS chỉ cần có trình độ tốt nghiệp THPT trở lên, đã qua sát hạch về kiến thức môi giới BĐS. Nhân viên tư vấn BĐS thì không xác định tiêu chuẩn như thế nào. Không có một văn bản pháp luật riêng biệt, một quy tắc đạo đức hành nghề, quy trình hay tiêu chuẩn ứng xử chuyên nghiệp của nhân viên môi giới và nhân viên tư vấn để có thể xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên nhằm bảo vệ người tiêu dùng.

Vì vậy, để đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ bên yếu thế cũng như góp phần minh bạch thông tin trong thị trường BĐS thì các giao dịch về BĐS cần phải có sự xác nhận của một bên hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc về mặt lợi ích với các chủ đầu tư kinh doanh BĐS. Có thể thấy vai trò này hiện nay đang do các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện.

Vậy nên chăng, thay vì yêu cầu phải thực hiện giao dịch qua sàn giao dịch BĐS như dự thảo đã nêu thì nên tăng cường, mở rộng phạm vi cho các tổ chức hành nghề công chứng bằng cách yêu cầu các giao dịch BĐS mà “một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh BĐS” cũng bắt buộc phải công chứng?

Công chứng tự nguyện hiện nay tại Việt Nam đối với các giao dịch về BĐS tự nó không thể giải quyết được công bằng xã hội, sự bất công, do nó tự sinh ra. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục đích và là động lực chi phối mạnh mẽ các hoạt động của các chủ thể, dẫn đến cạnh tranh gay gắt, kể cả thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Khi đó, bản chất độc lập trong hoạt động công chứng sẽ giúp kiểm tra, giám sát việc thực thi, chấp hành đúng pháp luật của chủ đầu tư, nhân viên môi giới, tư vấn BĐS để bảo vệ người yếu thế, đồng thời nhằm duy trì ổn định, trật tự để kinh tế phát triển.

Ngoài ra, vai trò phòng ngừa tranh chấp của hoạt động công chứng cũng tác động đến cách hành xử của người yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động giải thích và tư vấn pháp luật độc lập của công chứng viên (CCV), nhận thức của người người yêu cầu công chứng được nâng cao, họ tự hành xử cẩn thận hơn vì sợ trách nhiệm nếu tham gia vào các giao dịch gian dối.

Ở khía cạnh công bằng và trung thực, để có niềm tin từ công chúng, Nhà nước buộc CCV là người có trình độ cao, với tiêu chuẩn đào tạo, bồi dưỡng, quản lý khắt khe trong quá trình hành nghề, quy trình công chứng minh bạch, hoạt động nghề nghiệp độc lập, không thiên vị với các hành vi mà CCV soạn thảo và xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp. Các quy định này khiến CCV trở thành một “thẩm phán phòng ngừa” tự nguyện phục vụ các bên tham gia giao dịch chịu trách nhiệm quản lý giám sát của cơ quan chức năng và các bên để gìn giữ sứ mệnh phòng ngừa tranh chấp, bảo đảm minh bạch thông tin và công bằng xã hội.

Các nước quy định ra sao?

Tại Pháp, “mọi văn bản hay quyền để thực hiện các thủ tục đăng ký đất đai đều phải được thể hiện dưới hình thức văn bản công chứng do một CCV hành nghề tại Pháp lập, quyết định của tòa án hay một văn bản của cơ quan hành chính. Văn bản ký tư, có chữ ký hay không, ngay cả khi có công nhận chữ viết và chữ ký, được nộp tại lưu trữ của văn phòng công chứng đều không có giá trị để đăng ký đất đai…” (Điều 710 BLDS Pháp).

Trong khi đó, Điều 925 BLDS Đức quy định: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu thửa đất phải được công chứng, cho dù có hợp đồng sơ bộ nào được ký kết trong thực tế thì hợp đồng này cũng phải được công chứng, vì chức năng của hành vi công chứng là cung cấp lời khuyên pháp lý cho các bên trước khi họ bị ràng buộc. CCV phải xác nhận cho người mua về sự tồn tại của hầu hết điều kiện tiên quyết cần thiết. Hợp đồng chuyển quyền BĐS được đăng ký trong sổ đăng ký đất đai được thực hiện bởi CCV (Điều 55 Luật Đăng ký BĐS).

Còn tại Trung Quốc, một số hợp đồng yêu cầu phải công chứng như các hợp đồng chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê, xây dựng và phát triển liên quan đến BĐS thương mại, các hợp đồng liên quan đến nhà ở cho người nước ngoài sử dụng. Một số các hợp đồng về BĐS sẽ không được đăng ký nếu không có công chứng.

Theo Báo mới.

Từ 1-3-2023: Chính thức triển khai cấp hộ chiếu gắn chíp điện tử

Kể từ ngày 01/3/2023, Bộ Công an sẽ triển khai cấp Hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử cho công dân Việt Nam theo Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam .

Theo lãnh đạo Cục Quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an, hộ chiếu có gắn chíp điện tử là hộ chiếu có gắn thiết bị điện tử lưu giữ thông tin được mã hóa của người mang hộ chiếu và chữ ký của người cấp.

Đây là một bước cải tiến mới nhằm tạo thuận lợi cho công dân Việt Nam, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về xuất nhập cảnh và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước.

Hình thức của hộ chiếu gắn chíp điện tử cơ bản giống với hộ chiếu không gắn chíp điện tử với bìa màu xanh tím than, các trang trong hộ chiếu là cảnh đẹp đất nước, di sản văn hóa Việt Nam.

Hình ảnh bên ngoài hộ chiếu gắn chíp điện tử

Hình ảnh bên ngoài hộ chiếu gắn chíp điện tử

Toàn bộ nội dung, hình ảnh in trong hộ chiếu được thực hiện bằng công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu bảo an, chống nguy cơ làm giả và đạt tiêu chuẩn ICAO.

Để phân biệt với hộ chiếu không gắn chíp điện tử, ở trang bìa đầu tiên của cuốn hộ chiếu có gắn chíp điện tử có biểu tượng chíp điện tử. Chíp điện tử được đặt tại trang bìa sau của cuốn hộ chiếu để lưu trữ thông tin nhân thân và thông tin sinh trắc học của người được cấp hộ chiếu (gồm ảnh mặt, vân tay…) và chữ ký số của cơ quan cấp hộ chiếu.

Về cơ bản, hình thức của hộ chiếu gắn chip điện tử và không gắn chip điện tử giống nhau khi cùng sử dụng bìa màu xanh tím than và các trang trong hộ chiếu là cảnh đẹp đất nước, di sản văn hóa Việt Nam

Người dân cần lưu ý, hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử và hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử được sử dụng song hành. Công dân Việt Nam đã được cấp hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử sẽ được tiếp tục sử dụng đến khi hết thời hạn của hộ chiếu, không bắt buộc phải đổi sang hộ chiếu có gắn chíp điện tử. Do đó, Cục Quản lý xuất nhập cảnh khuyến cáo người dân không đổ xô đi làm hộ chiếu khi hộ chiếu không gắn chíp điện tử vẫn còn thời hạn sử dụng.

Đối với với hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu, công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên có quyền được lựa chọn cấp hộ chiếu không gắn chíp điện tử hoặc cấp hộ chiếu có gắn chíp điện tử (tại Tờ khai đề nghị cấp hộ chiếu đã có sẵn lựa chọn hình thức hộ chiếu để công dân tự điền).

Cục Quản lý xuất nhập cảnh cũng đề nghị công dân làm hồ sơ cấp hộ chiếu qua cổng dịch vụ công trực tuyến Quốc gia hoặc Bộ Công an, tránh tình trạng tập trung đông người tại trụ sở cơ quan cấp hộ chiếu.

Theo Báo mới.

Quy định về gia hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm

Ông Nguyễn Biên Cương (Lai Châu) đang sử dụng 1 mảnh đất (mua năm 2018), đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gồm 1 phần diện tích là đất ở và phần còn lại là đất trồng cây hàng năm (vườn – cùng nằm trên một thửa đất). Đất đang sử dụng bình thường, không tranh chấp.

Hiện nay, thời gian sử dụng đất trồng cây hàng năm của ông Cương đã hết hạn sử dụng. Trong gia đình, vợ chồng ông Cương là công chức, viên chức; bà nội là công nhân công ty đường bộ mới nghỉ hưu, em gái bị thiểu năng trí tuệ, không lao động được.

Ông Cương hỏi, ông có được phép gia hạn và sử dụng phần diện tích đất trồng cây hàng năm nêu trên không? Quy định như thế nào, ở văn bản nào?

Bộ Tài nguyên và Môi trường trả ời vấn đề này như sau:

Theo phản ánh của ông thì thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gồm 1 phần diện tích đất ở và phần còn lại là đất trồng cây hàng năm (vườn – cùng nằm trên một thửa đất) nhưng không rõ thời hạn sử dụng cụ thể trên Giấy chứng nhận nên Bộ Tài nguyên và Môi trường không có đủ cơ sở để trả lời cụ thể. Bộ Tài nguyên và Môi trường cung cấp thông tin để ông tham khảo như sau:

Tại Khoản 3 Điều 210 Luật Đất đai quy định:

“3. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, khi hết thời hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 126 của Luật này. Thời hạn sử dụng đất được tính từ ngày 15/10/2013 đối với trường hợp hết hạn vào ngày 15/10/2013 theo quy định của Luật Đất đai năm 2003; tính từ ngày hết thời hạn giao đất đối với trường hợp hết hạn sau ngày 15/10/2013”.

Tại Điều 74 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định trình tự, thủ tục gia hạn sử dụng đất; xác nhận tiếp tục sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân khi hết hạn sử dụng đất.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cung cấp thông tin để ông liên hệ với Văn phòng Đăng ký đất đai tại địa phương để được giải quyết theo thẩm quyền.

Theo Báo mới.

Điểm danh những thương hiệu của Thế giới Di động bị ‘khai tử’

Là doanh nghiệp bán lẻ thành công nhất thị trường nhưng không phải mô hình kinh doanh nào của Công ty CP Đầu tư Thế giới Di động cũng mang lại lợi nhuận. Vài năm gần đây, Thế giới Di động đã khai tử nhiều mô hình kinh doanh sau một thời gian không đạt hiệu quả như kỳ vọng.

Đóng Bluetronics vì thua lỗ triền miên

Trong buổi gặp gỡ nhà đầu tư vừa được tổ chức, ông Đoàn Văn Hiểu Em – Thành viên HĐQT Công ty CP Đầu tư Thế giới Di động (mã chứng khoán: MWG) – thông tin, sẽ quyết định ngừng kinh doanh ở Campuchia sau 6 năm hoạt động để tập trung vào những mô hình kinh doanh khác và những thị trường khác.

Tại Campuchia, Thế giới Di động có các cửa hàng Bluetronics – một mô hình tương tự như Điện Máy Xanh ở Việt Nam. Theo công bố của MWG, tính tới ngày 31/3/2022, Bluetronics có 44 cửa hàng ở Campuchia.

“Sau gần 6 năm hoạt động, MWG đã quyết định đóng toàn bộ cửa hàng Bluetronics tại thị trường Campuchia trong quý I/2023 để tập trung cho các thị trường khác như Indonesia và dồn lực cho các mô hình kinh doanh khác”, ông Hiểu Em nói.

Thế giới Di động quyết định ngừng kinh doanh các cửa hàng Bluetronics ở Campuchia sau 6 năm.

Công ty CP đầu tư Thế giới Di động tham gia thị trường Campuchia từ giữa năm 2017 khi mở cửa hàng điện thoại đầu tiên tại thủ đô Phnom Penh với tên gọi BigPhone. Sử dụng bộ nhận diện thương hiệu tương tự chuỗi bán lẻ tại Việt Nam, công ty kỳ vọng mỗi cửa hàng thuộc chuỗi này có doanh số 2 tỷ đồng/tháng.

Đến cuối năm 2019, BigPhone được đổi tên thành Bluetronics để kinh doanh điện thoại lẫn điện máy. Bluetronics khi đó được ban lãnh đạo Thế giới Di động xem là bàn đạp cho tham vọng xâm nhập thị trường bán lẻ Đông Nam Á.

Doanh thu của chuỗi liên tiếp tăng trưởng ba chữ số trong nhiều năm và đạt đỉnh gần 500 tỷ đồng vào 2021. Dù vậy, mức này đóng góp chưa đến 0,5% tổng doanh thu của công ty. Báo cáo tài chính quý IV/2022 cho thấy, Thế giới Di động tại Campuchia cũng lỗ liên tục từ 2017 đến nay. Trong đó năm 2021 và 2022 lỗ lớn nhất với 187 tỷ đồng và 330 tỷ đồng.

“Dọn dẹp” chuỗi AvaSport

Ngoài chuỗi Bluetronics tại Campuchia, AVAFashion – chuỗi cửa hàng thời trang gia đình của Thế giới Di động cũng đóng cửa vào giữa năm 2022, chỉ sau 6 tháng khai trương. Trang web bán hàng cũng ngưng hoạt động kể từ ngày 29/6/2022.

Hồi giữa tháng 1/2022, Thế giới Di động ra mắt 5 chuỗi cửa hàng thuộc nhóm AVA, gồm AVAFashion (thời trang gia đình), AVASport (đồ thể thao), AVAKids (mẹ và bé), AVAJi (trang sức) và AVACycle (bán xe đạp – dưới hình thức “shop in shop” tại hệ thống Điện máy Xanh).

AVAFashion - chuỗi cửa hàng thời trang gia đình của Thế giới Di động cũng đóng cửa vào giữa năm 2022, chỉ sau 6 tháng khai trương.

AVAFashion – chuỗi cửa hàng thời trang gia đình của Thế giới Di động cũng đóng cửa vào giữa năm 2022, chỉ sau 6 tháng khai trương.

Tại thời điểm ra mắt, AVAFashion có 4 cửa hàng chính ở các tuyến đường sầm uất trên địa bàn TPHCM, gồm đường Võ Văn Ngân (TP.Thủ Đức), Huỳnh Tấn Phát (quận 7), Nguyễn Trãi (quận 5), Phan Văn Trị (nằm trong Trung tâm thương mại Emart2, quận Gò Vấp).

AVAFashion bao gồm các sản phẩm quần áo nam nữ, trẻ em với đa dạng kiểu dáng từ áo T-shirt, áo polo, quần jeans, kaki, váy đầm, đồ công sở đến các sản phẩm phụ kiện như vớ, khẩu trang, dây nịt, mũ nón… và thời trang trẻ em.

Ngoài ra, MWG cũng sẽ chủ động dọn dẹp, thu hẹp chuỗi AvaSport, do đánh giá không có tiềm năng đóng góp doanh thu, lợi nhuận đáng kể trong tương lai. Điều này được ban lãnh đạo MWG đánh giá là giảm gánh nặng trong năm 2023. Đến cuối năm 2022, AVASport có tất cả 12 cửa hàng.

Trang thương mại vuivui.com chỉ tồn tại được 1 năm

Thế giới Di động cũng đã đóng cửa trang thương mại điện tử vuivui.com chỉ sau một năm khai trương (12/2016). Trang thương mại điện tử này ra đời với mục đích mang đến cho khách hàng trải nghiệm mua sắm trực tuyến thực sự an toàn, tin cậy, thuận tiện cùng giá cả cạnh tranh với gần 40.000 sản phẩm.

Ông Nguyễn Đức Tài – Chủ tịch Hội đồng quản trị MWG – nói tại đại hội cổ đông năm 2017 rằng: “Chúng tôi đầu tư cho vuivui là đầu tư cho tương lai, khi thế hệ trẻ có xu hướng thay đổi phương thức mua sắm. Có thể kỳ vọng đóng góp của Vuivui từ năm 2020 trở đi”.

Cuối năm 2018, MWG đóng cửa trang thương mại điện tử này sau 2 năm hoạt động.

Cuối năm 2018, MWG đóng cửa trang thương mại điện tử này sau 2 năm hoạt động.

Tuy nhiên, kết thúc năm 2017, doanh thu của Vuivui chỉ đạt 75 tỷ đồng, đóng góp không nhiều vào cơ cấu doanh thu của MWG. Cuối năm 2018, MWG đóng cửa trang thương mại điện tử này sau 2 năm hoạt động, dù trước đó Vuivui được kỳ vọng sẽ tăng trưởng vượt bậc sau 4 – 5 năm và doanh thu bán hàng sẽ vượt cả chuỗi thegioididong.com.

Toàn bộ nền tảng website, hậu cần và giao nhận của vuivui.com đã được chính thức chuyển sang cho bachhoaxanh.com từ ngày 27/11/2018.

Mắt kính bị “khai tử” sau 9 tháng

Cuối tháng 6/2019, Thế giới Di động bắt đầu thử nghiệm mô hình kinh doanh kính mắt bằng cách kê thêm tủ kính mắt tại cửa hàng điện thoại thuộc chuỗi thegioididong, nằm tại phường Phước Long B, quận 9, TPHCM. Đây cũng là cửa hàng đầu tiên bán mắt kính theo mô hình “shop in shop” của MWG.

Lúc này, cửa hàng có khoảng 600 mẫu mắt kính các loại nhắm đến phân khúc trung cấp, giá bán trong khoảng 600.000 đồng đến 3 triệu đồng/sản phẩm. MWG cho rằng, cặp đôi đồng hồ và mắt kính thường đi chung với nhau và muốn tăng doanh thu từ mặt hàng này. Tuy nhiên, trong khi đồng hồ liên tục được MWG mở rộng thì mắt kính lại sớm bị khai tử.

Sau 9 tháng ra mắt, Thế giới Di động quyết định ngừng bán kính mắt.

Sau 9 tháng ra mắt, Thế giới Di động quyết định ngừng bán kính mắt.

Đến tháng 3/2020, sau 9 tháng ra mắt, Thế giới Di động quyết định ngừng bán kính mắt. Lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng, việc phải dừng kinh doanh vì các cửa hàng nhỏ lẻ bên ngoài có lợi thế về kính thuốc. Nếu đưa máy đo mắt vào các cửa hàng điện thoại, điện máy thì có phần không phù hợp.

Thất bại với Điện thoại Siêu rẻ

Chuỗi Điện thoại Siêu rẻ ra đời vào tháng 8/2019, các sản phẩm tại đây chủ yếu là điện thoại dưới 8 triệu đồng và được bán với giá rẻ hơn tại chuỗi Thế giới Di động khoảng 10%.

Mô hình này được ra đời nhằm mục đích chiếm lấy 20% thị phần từ các cửa hàng di động nhỏ và hộ gia đình. Cửa hàng Điện thoại Siêu rẻ đầu tiên được mở thử nghiệm trên đường Lê Đức Thọ, quận Gò Vấp, TPHCM với diện tích khoảng 15 m2, một nhân viên phục vụ.

Website của Điện thoại Siêu rẻ thông báo sẽ ngừng hoạt động và chuyển hướng về thegioididong.com.

Website của Điện thoại Siêu rẻ thông báo sẽ ngừng hoạt động và chuyển hướng về thegioididong.com.

Tuy nhiên, đến ngày 29/6/2020, website của Điện thoại Siêu rẻ thông báo sẽ ngừng hoạt động và chuyển hướng về thegioididong.com. Đại diện MWG cho biết, việc đóng cửa hệ thống Điện thoại Siêu rẻ là bước đầu để chuyển đổi sang mô hình thử nghiệm mới.

Từ thành lập đến đóng cửa chưa đầy một năm, MWG đã mở 17 cửa hàng chuỗi Điện thoại Siêu rẻ với cam kết phân phối hàng chính hãng, giá rẻ nên biên lợi nhuận thấp. Trong khi đó, các cửa hàng di động nhỏ và hộ gia đình thường có lợi thế khi đi kèm loạt dịch vụ khác như vừa bán vừa sửa chữa.

Theo Báo mớ/

Đấu giá bằng sáng chế, tại sao không?

Câu chuyện về đấu giá bằng sáng chế là không mới trên thế giới. Nhưng tại Việt Nam, tính đến đầu năm 2023, trên Cổng thông tin điện tử quốc gia của Bộ tư pháp về đấu giá tài sản thì chưa có thông tin đấu giá công khai nào về tài sản vô hình. Điều này đặt ra câu hỏi liệu đấu giá bằng sáng chế có khả thi tại nước ta?

Đấu giá bằng sáng chế là chuyện không mới trên thế giới. Chẳng hạn ở Trung Quốc, phiên đấu giá bằng sáng chế đầu tiên được tổ chức trên sàn giao dịch công nghệ Trung Quốc (CTEX) cách đây chừng 13 năm, vào ngày 16-12-2010.

Trước đó một chút, buổi đấu giá sáng chế đầu tiên tại Ấn Độ đã diễn ra vào ngày 28-8-2010. Đạo luật Bằng sáng chế 1970 của Ấn Độ cho phép chủ sở hữu bằng sáng chế được phép bán phát minh của họ cho các bên khác theo những điều khoản đã được thỏa thuận chung.

Còn tại Mỹ, phiên đấu giá sở hữu trí tuệ trực tiếp lần đầu do Ocean Tomo LLC (hoạt động trong lĩnh vực tài sản trí tuệ và các tài sản vô hình khác) tổ chức tại San Francisco vào tháng 4-2006.

Các lĩnh vực công nghệ được lựa chọn để đấu giá bằng sáng chế bao gồm: thực tế tăng cường/thực tế ảo (augmented reality/virtual reality), mạng lưới vạn vật kết nối (Internet of Things), xe tự lái (autonomous vehicle), phương tiện truyền thông (media), trung tâm dữ liệu (data center), chất bán dẫn (semiconductor), trưng bày (display), viễn thông (telecommunications).

Những khó khăn trong đấu giá bằng sáng chế

Đấu giá bằng sáng chế phức tạp hơn với tỷ lệ thành công thấp so với đấu giá hàng hóa thông thường. Thực trạng tại nhiều quốc gia cho thấy thử thách lớn nhất khi tổ chức một cuộc đấu giá bằng sáng chế là tìm kiếm người mua phù hợp. Thông thường, trước khi tổ chức phiên đấu giá, bên tổ chức phải xác định người mua phù hợp tại phiên đấu giá và những thông tin về bằng sáng chế đã được cung cấp đầy đủ và chính xác cho đúng người mua.

Khác với các phương thức chuyển giao công nghệ truyền thống như giao dịch thỏa thuận hoặc thương lượng, đấu giá bằng sáng chế có phạm vi bao quát rộng hơn, tính minh bạch cao hơn và đấu thầu công khai. Chính vì vậy, quy trình thẩm định đấu giá bằng sáng chế có thể lâu hơn và nội dung thẩm định chi tiết hơn.

Ngoài ra, trong đấu giá tài sản vô hình nói chung và đấu giá bằng sáng chế nói riêng, việc định giá tài sản phải đối mặt với thực tiễn của thị trường và nhu cầu từ người tham gia tại buổi đấu giá. Trong thực tế các cuộc đấu giá, đôi khi, cùng một bằng sáng chế nhưng phải đấu giá nhiều lần, đó là do mức giá ban đầu đưa ra quá cao và sau đó được điều chỉnh lại ở mức phù hợp.

Sự cần thiết của đấu giá bằng sáng chế ở Việt Nam

Ở nước ta, pháp luật về đấu giá tài sản đã được quy định tại Luật Đấu giá tài sản 2016 và Nghị định 62/2017/NĐ-CP. Về nguyên tắc đấu giá tài sản, cuộc đấu giá phải bảo đảm tính độc lập, trung thực, công khai, minh bạch, công bằng và khách quan. Ngoài ra, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia đấu giá được bảo vệ hợp lý. Giá khởi điểm khi bán đấu giá tài sản được tổ chức đấu giá xác định theo ủy quyền của người có tài sản đấu giá.

Nhưng cũng như nhiều quốc gia khác trong khu vực ASEAN (trừ Singapore), đấu giá bằng sáng chế vẫn chưa phổ biến tại thị trường Việt Nam. Dù vậy, sáng chế lại là một trong bốn đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được đăng ký bảo hộ nhiều nhất, theo số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ, tính đến cuối năm 2021. Việt Nam bảo hộ sáng chế dưới hai hình thức là bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích.

Cũng theo số liệu của Cục sở hữu trí tuệ, trong giai đoạn 1981-2021, số bằng độc quyền sáng chế đã cấp là 31.033/91.164 đơn đăng ký; trong giai đoạn 1989-2021, số bằng độc quyền giải pháp hữu ích đã cấp là 2.800/7.805 đơn đăng ký. Số lượng đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích tăng dần qua từng năm cho thấy nhu cầu bảo hộ sáng chế của người Việt ngày càng tăng.

Cùng với đó, số đơn khiếu nại liên quan đến quyết định từ chối cấp văn bằng bảo hộ sáng chế và giải pháp hữu ích trong giai đoạn 2011-2021 là 419 đơn. Con số này tuy chưa nhiều như các nước phát triển nhưng cũng đưa ra cảnh báo cho việc cần thiết hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với đối tượng quyền sở hữu công nghiệp này.

Về định hướng phát triển, trong Quyết định 2205/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030, nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ là một nội dung thiết yếu. Việt Nam đang đặt mục tiêu thương mại hóa tài sản trí tuệ như động lực khuyến khích đổi mới sáng tạo và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Để chuẩn bị cho hoạt động đấu giá bằng sáng chế, Việt Nam cần xây dựng cơ sở dữ liệu về sáng chế và tích hợp hoạt động đấu giá sáng chế trên sàn giao dịch này.

Hiện đã có nền tảng dữ liệu và dịch vụ sở hữu công nghiệp (là sản phẩm thuộc Chương trình 2075 – Phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020 của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ) , tuy nhiên, chuyên mục sàn giao dịch chỉ mới tồn tại dưới hình thức trang thông tin, chưa xây dựng dữ liệu cũng như triển khai giao dịch.

Vì vậy, các cơ quan và tổ chức được ủy quyền thực hiện cần hoàn thiện dữ liệu và ứng dụng giao dịch đấu giá bằng sáng chế.

Bên cạnh đó, hoạt động này cũng cần có cơ chế quản lý rõ ràng. Trong thời gian tới, Chính phủ cần hoàn thiện một khung pháp lý cho hoạt động đấu giá bằng sáng chế. Đây sẽ là tiền đề quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đấu giá tài sản vô hình.

Bảo hiểm bằng sáng chế

Những năm trở lại đây, bảo hiểm bằng sáng chế là sản phẩm kinh doanh mới tại nhiều quốc gia phát triển. Một thống kê cho thấy thị trường bảo hiểm bằng sáng chế toàn cầu có mức thu phí bảo hiểm hàng năm khoảng 50-60 triệu đô la Mỹ, trong đó Mỹ chiếm khoảng 50%, EU và châu Á lần lượt chiếm 40% và 10%( ). Bảo hiểm bằng sáng chế phổ biến hơn ở Trung Quốc và Singapore.

Hiện bảo hiểm bằng sáng chế được phân làm hai loại: bảo hiểm phòng thủ (defensive coverage) và bảo hiểm thực thi (enforcement coverage). Bảo hiểm phòng thủ là bảo hiểm phòng ngừa rủi ro phải chi trả chi phí kiện tụng và các khoản bồi thường thiệt hại nếu bên được bảo hiểm (bị đơn) bị kiện vì sử dụng bằng sáng chế của nguyên đơn bất hợp pháp. Bảo hiểm thực thi là bảo hiểm về những khoản chi phí kiện tụng của nguyên đơn theo đuổi bị đơn đã sử dụng bằng sáng chế của nguyên đơn bất hợp pháp.

Kết quả một khảo sát của Văn phòng Sở hữu trí tuệ Liên minh châu Âu (EUIPO) thực hiện vào năm 2017 cho thấy tính phổ biến của sản phẩm bảo hiểm sở hữu trí tuệ tại EU còn hạn chế, nhưng vẫn có tiềm năng mở rộng phạm vi kinh doanh. Bên cạnh đó, giảm phí bảo hiểm được xem là một yếu tố quan trọng hấp dẫn những người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ.

Tại Việt Nam, với số lượng lớn bằng sáng chế hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn có thể kỳ vọng về một thị trường triển vọng đối với sản phẩm bảo hiểm bằng sáng chế. Các vấn đề mà cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét để chuẩn bị cho sự phát triển của sản phẩm kinh doanh này:

Một là, hoàn thiện quy định quốc gia đối với pháp luật về sáng chế. Gần đây, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 có quy định một nội dung về sản phẩm bảo hiểm có sự hỗ trợ của Nhà nước.

Theo đó, Nhà nước tạo điều kiện cho các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và các sản phẩm bảo hiểm vì mục tiêu an sinh, xã hội. Cùng với mục tiêu tăng cường khai thác và xúc tiến thương mại trong chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030 (Quyết định 2205/QĐ-TTg ngày 24-12-2020) thì Chính phủ nên có những chính sách khuyến khích và gợi mở các tổ chức, cá nhân trên thị trường tham gia bảo hiểm bằng sáng chế.

Hai là, cơ sở dữ liệu về sáng chế cần được xây dựng và quản lý hiệu quả. Bên cạnh những lợi ích, bảo hiểm bằng sáng chế cũng có những hạn chế tồn tại cần được quy định rõ ràng trong hợp đồng bảo hiểm bằng sáng chế, đặc biệt là vấn đề cân bằng quyền lợi giữa bên mua bảo hiểm và những quy định hạn chế nhằm phục vụ lợi ích cộng đồng.

Việc xây dựng dữ liệu đầy đủ và quản lý công khai sẽ góp phần tạo sự an tâm cho bên tham gia bảo hiểm bằng sáng chế, thu hút nhà đầu tư góp vốn kinh doanh, cũng như tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch để thúc đẩy phát triển thị trường.

(*) Khoa Luật, trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế TPHCM

Theo Báo mới.

Có quyền ly hôn khi chồng đang đi chấp hành hình phạt tù không?

Chị Nguyễn Thị Tuyên, Quảng Bình hỏi: Tôi và chồng kết hôn được 4 năm nhưng đời sống hôn nhân của chúng tôi không hạnh phúc, chồng tôi không tu chí làm ăn, thường xuyên tụ tập chơi bời. Năm vừa rồi, chồng tôi đi đánh bạc và bị bắt, hiện nay đang bị giam và chịu án tù 3 năm. Tôi với anh ấy không có tài sản chung và không có con chung. Tôi muốn hỏi, tôi có thể ly hôn khi chồng tôi còn đi tù được không? Tôi cần chuẩn bị hồ sơ gì và gửi đến đâu?

– Luật sư Nguyễn Hào Hiệp, Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiệp Thành trả lời: 

Theo khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, yêu cầu ly hôn là quyền của vợ, chồng. Đồng thời, tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Như vậy, pháp luật về hôn nhân và gia đình không có quy định nào cấm ly hôn với người đang chấp hành hình phạt tù. Nếu đủ căn cứ về việc người chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án có thể xem xét việc ly hôn theo yêu cầu của chị.

Khi chồng đang chấp hành án phạt tù, chị cần chuẩn bị hồ sơ ly hôn đơn phương như sau: Đơn ly hôn (Mẫu tại Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09/08/2018); Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính); Giấy tờ pháp lý cá nhân của vợ, chồng (bản sao chứng thực); Hộ khẩu thường trú của vợ, chồng (bản sao chứng thực); Các giấy tờ liên quan đến việc đang thụ án giam của chồng chị (bao gồm: bản án, quyết định thi hành án).

Theo khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện là nơi có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn đơn phương. Đồng thời, theo Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nơi cư trú (thường trú hoặc tạm trú) của người bị yêu cầu ly hôn sẽ là cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Do đó, trong trường hợp chồng chị đang đi tù thì chị có thể gửi hồ sơ xin ly hôn đơn phương đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng chị đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc Tòa án nơi cư trú trước đây của chồng chị để yêu cầu giải quyết việc ly hôn.