Câu hỏi:

Ông L.Đ.K ở Hà Nội có gửi câu hỏi đên văn phòng Luật sư như sau:

Tôi làm việc tại một trường tiểu học trên địa bàn huyện Mỹ Đức, trường tiểu học là đơn vị sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức . Tháng 2 năm 2015, tôi bị bắt quả tang có tham gia vào 1 vụ cá cược đá gà ăn tiền. Tôi bị công an thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng, tôi đã chấp hành quyết định xử phạt này ngay sau đó.

Tháng 12 năm 2015, tôi bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức ra quyết định xử lý kỷ luật với hình thức kỷ luật là buộc thôi việc.

Tôi không đồng ý với quyết định trên và muốn khởi kiện quyết định này ra Tòa án. Tôi xin hỏi tôi phải khởi kiện quyết định này của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức theo thủ tục tố tụng hành chính hay tố tụng dân sự?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
  • Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
  • Bộ luật Lao động năm 2012;
  • Luật Viên chức năm 2010;

     II. Nội dung

  1. Vị trí khi ông L.Đ.K làm việc tại trường tiểu học

Theo quy định tại Điều 2 Luật Viên chức năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2019 thì:

“Điều 2. Viên chức

Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.”

Như vậy, ông L.Đ.K là viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức.

  1. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc

Quyết định kỷ luật buộc thôi việc có thể là quyết định hành chính hoặc quyết định lao động đơn thuần.

Để quyết định kỷ luật buộc thôi việc là quyết định hành chính thì quyết định này cần đáp ứng các yêu cầu tại khoản 5 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình…”

Do ông L.Đ.K là viên chức chứ không phải công chức nên do đó quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với ông L.Đ.K không phải là quyết định hành chính.

  1. Khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Theo Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì:

“Điều 30. Khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

  1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định, hành vi sau đây:

     a) Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật;

     b) Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng;

     c) Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.

     2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.

     3. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.

     4. Khiếu kiện danh sách cử tri.”

Như vậy, khiếu kiện về quyết định xử lý lao động trên không thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính của Tòa án.

 

 

  1. Khiếu kiện lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Theo quy định tại khoản 7, 8 và 9 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 thì:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Bộ luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động.

Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.

 

  1. Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động phát sinh từ việc giải thích và thực hiện khác nhau quy định của pháp luật về lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế và thoả thuận hợp pháp khác.
  2. Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp lao động phát sinh từ việc tập thể lao động yêu cầu xác lập các điều kiện lao động mới so với quy định của pháp luật về lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.”

Như vậy, tranh chấp được nêu trên là tran chấp lao động cá nhân.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:

“Điều 32. Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

  1. Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động mà hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, hòa giải không thành hoặc không hòa giải trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:

     a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;…”

Như vậy, tranh chấp của ông L.Đ.K là tranh chấp lao động được xử lý theo thủ tục tố tụng dân sự và không cần tiến hành thủ tục hòa giải tiền tố tụng.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *