Mỗi một loại hợp đồng đang được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đều những ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội. Thực tế cho thấy, tặng cho tài sản mang những ý nghĩa cơ bản, quan trọng như: thứ nhất, tặng cho tài sản là một trong những phương thức chủ sở hữu định đoạt tài sản của mình. Thông qua tặng cho mà mang tài sản được chuyển sở hữu từ chủ thể tặng cho sang cho chủ thể được tặng cho; thứ hai, việc tặng cho tài sản thường được xác lập giữa những người có mối quan hệ thân thiết như cha mẹ tặng tài sản cho con, anh chị em, bạn bè tặng tài sản cho nhau.Việc tặng cho tài sản giữa những người này thường vừa mang tính chất trách nhiệm vừa thể hiện sự yêu thương, gắn bó, đùm bọc trong gia đình; bên cạnh đó, việc tặng cho tài sản mang tính chất nhân đạo được thực hiện thông qua hình thức làm từ thiện diễn ra ngày càng phổ biến. Đây là những đức tính cao đẹp, cần được giữ gìn phát huy của con người Việt Nam trong bối cảnh xã hội có nhiều giá trị đạo đức tốt đẹp đang ngày càng mai một.
Hợp đồng tặng cho tài sản được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa bên tặng cho (bên có tài sản) và bên được tặng cho (bên nhận tài sản), theo đó, bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù và hợp đồng tặng cho chỉ được xác lập khi bên được tăng cho đồng ý nhận.
Hiện nay, liên quan đến đặc điểm của tặng cho tài sản thì vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm trái ngược nhau, cụ thể:
– Hợp đồng tặng cho là đơn vụ hay song vụ? Quan điểm truyền thống và được nhiều nhà nghiên cứu luật Việt Nam thừa nhận, hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng đơn vụ. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng, nếu việc tặng cho kèm điều kiện thì cả bên tặng cho và bên được tặng cho đều có nghĩa vụ với nhau nên trường hợp này tặng cho lại mang đặc điểm song vụ. Do đó, hiện nay rất nhiều người khăng định, tặng cho có thể là đơn vụ hay song vụ tùy từng trường hợp.
– Hợp đồng tặng cho mang đặc điểm ưng thuận hay thực tế? Theo quy định của pháp luật hiện hành, hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản tặng cho đối với nhóm tài sàn không phải đăng kí sở hữu, còn nhóm tài sản phải đăng ký sở hữu thì hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký. Do đó, quan điểm phổ biển thừa nhận hợp đồng tặng cho là hợp đồng thực tế.
– Tính có đền bù hay không có đền bù của tặng cho tài sản. Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng không có đền bù. Tuy nhiên đối với tặng cho có điều kiện. Vì Bộ luật Dân sự hiện hành không quy định cụ thể về điều kiện tặng cho nên nếu bên tặng cho cho nên nếu bên được tặng cho thực hiện điều kiện nhằm mang lại cho họ một lợi ích về mặt vật chất thì điều kiện đưa ra có được thừa nhận hay không?
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com