Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể như sau:

Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

  1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
  2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.

Nội dung nguyên tắc này được thể hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án, cụ thể như sau:

Thứ nhất: Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự.

Điều 4 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 (gọi tắt là BLTTDS năm 2015) quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”.

Theo quy định tại Điều 186, Điều 187 BLTTDS năm 2015, Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nội dung và phạm vi khởi kiện do người khởi kiện quyết định. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.

Thứ hai: Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn; quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Theo quy định tại Điều 200 BLTTDS năm 2015, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
  • Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
  • Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.

Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Theo quy định tại Điều 201 BLTTDS năm 2015, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập hi có các điều kiện sau đây:

  • Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
  • Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
  • Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Thứ ba: Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu

Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2015: “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.”

Tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu có thể được Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận. Cụ thể:

– Trước khi mở phiên tòa: nguyên đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện theo quy định tại khoản 4 Điều 70 BLTTDS năm 2015. Tại tại mục 7, Phần IV Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ của Tòa án có giải đáp như sau: “Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu”.

– Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm: theo quy định tại Điều 244 BLTTDS năm 2015 thì tại phiên tòa việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Thứ tư: Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc.

Điều 11 BLTTDS năm 2015 quy định:

Điều 70. Quyền, nghĩa vụ của đương sự

  1. Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành.”

Theo đó, quá trình giải quyết vụ án, các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau. Đồng thời, Tòa án cũng tổ chức hòa giải giữa các bên. Việc hòa giải tại Tòa án được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại Điều 205 BLTTDS năm 2015:

Điều 205. Nguyên tắc tiến hành hòa giải

  1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
  2. Việc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:

     a) Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình;

     b) Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”

Tòa án hoàn toàn tôn trọng ý chí của các bên đương sự và công nhận kết quả hòa giải trừ trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải theo quy định tại Điều 206 BLTTDS năm 2015:

Điều 206. Những vụ án dân sự không được hòa giải

  1. Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
  2. Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.”

Thứ năm: Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bảo án, quyết định của tòa án.

Trường hợp đương sự không đồng ý với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm thì có quyền kháng cáo để xét xử theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại Điều 271 BLTTDS năm 2015:

Điều 271. Người có quyền kháng cáo

Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về Quyền quyết định và tự định đoạt trong tố tụng dân sự”. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan, Quý khách hàng vui lòng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu

0942941668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *