Luật Hiệp Thành đưa ra một số phân tích đối với vấn đề Giao dịch Dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015
- Cơ sở pháp lý:
– Bộ Luật Dân sự năm 2015.
- Luật sư tư vấn:
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, tại Điều 133 BLDS năm 2015 mở rộng phạm vi bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình. Theo đó, tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Trên cơ sở này, chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. Như vậy, cùng với việc mở rộng phạm vi bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình, tạo một cơ chế thuận lợi hơn để khuyến khích các giao dịch hợp pháp, Điều 133 cũng làm rõ trách nhiệm của chủ thể có lỗi dẫn đến việc xác lập giao dịch với người thứ ba ngay tình và hướng dẫn chủ sở hữu thực hiện quyền khởi kiện của mình trong việc yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Về thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, có thể nhận thấy ngay rằng quy định tại Điều 132 về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015 có điểm mới so với BLDS 2005 ở chỗ BLDS năm 2015 đã cụ thể hoá và hợp lý hoá các thời điểm bắt đầu thời hiệu. Cụ thể, thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối, phát sinh kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập hoặc kể từ ngày người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch; người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối; người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép. Quy định này tránh việc đánh đồng cách xác định thời điểm giống nhau cho tất cả các trường hợp vô hiệu tương đối như trong BLDS năm 2005. Điều 132 BLDS 2015 quy định nhằm công nhận hiệu lực của các giao dịch dân sự khi hết thời hiệu khởi kiện: “Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực”. Thiết nghĩ, việc đưa thêm một khẳng định như vậy không sai, nhưng có thể trở nên dư thừa nếu xét về kỹ thuật lập pháp. Bởi theo nguyên tắc, khi hết thời hiệu khởi kiện thì các bên mất quyền khởi kiện, và như vậy các giao dịch đó có hiệu lực. Tuy nhiên, nếu điều luật được thiết kế theo lối mô tả và khẳng định như trên, câu hỏi đặt ra là liệu có áp dụng được Điều 156 về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện và Điều 157 về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự hay không? Về vấn đề này, chúng tôi thật sự do dự khi trả lời là có, với cách quy định theo hướng như trên, bởi lẽ không có một nội dung nào khác tiếp theo nhằm phủ định việc áp dụng các điều luật kể trên.
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email : luathiepthanh@gmail.com
Trân Trọng