1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13;

– Luật Đất đai số 45/2013/QH13;

  1. Nội dung

Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai:

Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất

  1. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:
  2. a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;…”

Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực       là quy định về hình thức của giao dịch về quyền sử dụng đất.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 118 Bộ luật Dân sự thì:

Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự

  1. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”

Như vậy, điều kiện về công chứng, chứng thực là điều kiện về hình thức của giao dịch liên quan đến đất.

Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự thì:

Điều 129. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

  1. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”

Như vậy, nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ viết tay mà không công chứng chứng thực, nhưng bên mua đã thanh toán được 2/3 nghĩa vụ của hợp đồng thì giao dịch đó vẫn được coi là có hiệu lực mà không bị Tòa án tuyên vô hiệu.

Vậy, nếu các bên ký hợp đồng mua bán đất đai bằng giấy viết tay thì sẽ không bị tuyên vô hiệu khi bên mua đã thanh toán ít nhất 2.3 nghĩa vụ của hợp đồng.

Tuy nhiên, nếu quy định là bắt buộc công chứng, chứng thực thì các bên nên tuân thủ theo quy định của pháp luật để tránh những tranh chấp không đáng có trong khi mua bán, sang tên nhà đất.

Trên đây là nội dung quy định về  mua bán quyền sử dụng đất qua giấy viết tay. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *