Câu hỏi:

Chị G.H.L ở Hà Nội có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Hai năm trước tôi cho người bạn mượn 100 triệu đồng, vì tin tưởng nên không viết giấy vay nợ. Gần đây nhiều tôi đòi nợ nhưng bạn không trả, thậm chí chặn luôn số điện thoại của tôi và đổi chỗ ở. Tôi chỉ còn giữ tin nhắn cô ấy vay nợ thể hiện qua tin nhắn điện thoại. Xin hỏi tôi có thể kiện cô ấy với bằng chứng này được không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

  1. I. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

  1. Nội dung

Theo quy định tại Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự thì:

Hình ảnh pháp luật

Điều 93. Chứng cứ

Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.

Đồng thời, Khoản 3 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự quy định như sau:

Điều 95. Xác định chứng cứ

  1. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử

Vậy, nếu đáp ứng các điều kiện trên, tin nhắn điện thoại vẫn được xem là bằng chứng để bạn khởi kiện đòi nợ và có giá trị chứng minh trước tòa.

Trên đây là nội dung quy định về đòi nợ khi chỉ còn giữ bằng chứng là tin nhắn điện thoại. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *