Câu hỏi:

Chị N.A.T có câu hỏi gửi đến Công ty luật như sau:

Bạn tôi là chị G.A.N bị Hội đồng xét xử tuyên phạm tội Giết con mới đẻ quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong thời gian trước khi xét xử, chị G.A.N không bị tạm giam. Chị G.A.N bị Tòa án tuyên hình phạt là 03 tháng tù giam nhưng được cho hưởng án treo. Đi kèm hình phạt là 03 tháng tù giam thì Tòa án còn tuyên thời gian thử thách đối với chị G.A.N là 1 năm. Theo tôi được biết thì thời gian thử thách sẽ gấp đôi thời gian tù giam của hình phạt chính, nhưng thời gian thử thách của chị G.A.N bị Hội đồng xét xử tuyên lại gấp đến 4 lần thời gian tù giam của hình phạt chính.

Tôi xin hỏi, thời gian thử thách do Hội đồng xét xử tuyên đối với chị G.A.N có đúng với quy định của pháp luật không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

  1. I. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung bới Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14;

– Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2007 do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt;

  1. Nội dung
  2. Khái niệm thời gian thử thách

Thời gian thử thách là thời gian cần thiết để cho người được hưởng án treo chứng tỏ sự tự cải tạo của mình trong điều kiện không bị cách li khỏi đời sống xã hội và được Toà án ấn định.

Thời gian thử thách là thời gian người bị án treo được giao cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi giáo dục. Đó là ràng buộc pháp lí đối với người bị án và để cơ quan có trách nhiệm kiểm tra kết quả sự tự cải tạo của người này. Đây là thời gian để khẳng định điều kiện “không phạm tội mớ? có thỏa mãn hay không để cho phép được miễn chấp hành hình phạt tù hay buộc phải chấp hành hình phạt đã tuyên đó. Cụ thể: người được hưởng án treo chỉ được miễn chấp hành hình phạt tù nếu trong thời gian thử thách không phạm tội mới. Trái lại, họ phải chấp hành hình phạt tù nếu phạm tội mới trong thời gian này.

Thời gian thử thách được quy định trong luật là từ 1 năm đến 5 năm. Khi áp dụng cho trường hợp cụ thể, thời gian thử thách không được ngắn hơn mức hình phạt tù đã tuyên (trong thực tế, thời gian thử thách thường là dài hơn mức hình phạt tù đã tuyên). Thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên bản án hoặc bản án đầu tiên cho hưởng án treo (trong trường hợp có nhiều bản án đều cho hưởng án treo).

Thời gian thử thách có thể được toà án xét giảm khi người bị án đã chấp hành được một nửa và có nhiều tiến bộ.

  1. Mức thời gian thử thách đối với án treo

Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khung cho thời gian thử thách do Hội đồng xét xử ấn định là từ 1 năm đến 5 năm:

“Điều 65. Án treo

  1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự…”

Theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì trường hợp người bị xử phạt tù không bị tạm giam thì thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm:

“6. Về Điều 60 của BLHS

6.4. Khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo, trong mọi trường hợp Toà án phải ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm và phân biệt như sau:

  1. a) Trường hợp người bị xử phạt tù không bị tạm giam thì thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm…”

Hội đồng xét xử có cơ sở để ấn định thời gian thử thách dưới mức 1 năm nếu Hội đồng xét xử nhận định đây là trường hợp đặc biệt theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP:

“6. Về Điều 60 của BLHS

6.4. Khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo, trong mọi trường hợp Toà án phải ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm và phân biệt như sau:

  1. c) Trong trường hợp đặc biệt thì Toà án có thể ấn định thời gian ngắn hơn mức được hướng dẫn tại các điểm a và b tiểu mục 6.4 này, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án…”

Vậy, việc Hội đồng xét xử ấn định thời gian thử thách đối với chị G.A.N 1 năm là có cơ sở.

Trên đây là nội dung quy định về thời gian thử thách đối với án treo. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *