Câu hỏi:
Chị N.B.N có gửi câu hỏi đến văn phòng Luật sư như sau:
Tôi và anh Đ.V.M chung sống từ năm 2009, đến năm 2011 đăng ký kết hôn. Từ năm 2017 đến nay vợ chồng không hạnh phúc, nguyên nhân do vợ chồng bất hòa, không tin tưởng lẫn nhau. Tôi không còn tình cảm với anh M. Chồng tôi là anh Đ.V.M cho rằng vợ chồng không cải vã, cũng không đánh nhau, do anh M không đồng ý chị N đi làm xa, muốn chị B ở nhà trông 02 con, không muốn con thiếu cha hoặc mẹ nên không đồng ý ly hôn. Hiện tại, tôi đã không còn chung sống với anh M từ năm 2019, và anh M thừa nhận về việc đó. Chúng tôi không có tranh chấp về tài sản và con chung mà chỉ có yêu cầu duy nhất về chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Tôi xin hỏi, trường hợp của tôi có được Tòa án chấp nhận ly hôn không?
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
I. Cơ sở pháp lý
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
II. Nội dung
Trường hợp của chị được Tòa án chấp nhận ly hôn.
- Tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì để kết hôn, đương sự và quan hệ đó phải phù hợp với các điều kiện về kết hôn:
“Điều 8. Điều kiện kết hôn
- Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này…”
“Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
…
- Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;…”
Do chị N và anh M chung sống từ năm 2009, đến năm 2011 đăng ký kết hôn, nên hôn nhân của chị N, anh M hợp pháp.
- Điều kiện chấm dứt quan hệ hôn nhân
Theo quy định tại khoản 1Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
“Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng
- Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình…”
Theo thừa nhận
Chị N thì:
- Tiếp tục chung sống cũng không hạnh phúc do không còn tình cảm với anh M;
- Tại tòa chị N xác định vợ chồng hiện tại không còn sống chung với nhau từ tháng 8 năm 2019 đến nay;
Anh M thì:
- Xác định giữa anh chị có phát sinh mâu thuẫn, cả hai anh chị cũng không giải quyết được mâu thuẫn;
- Thừa nhận vợ chồng hiện tại không còn sống chung với nhau từ tháng 8 năm 2019 đến nay;
Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân của chị B, anh M đã lâm vào:
- Tình trạng trầm trọng thể hiện ở việc hai anh chị có mâu thuẫn và cả 2 bên đều không giải quyết được, chị N không còn tình cảm với anh M và anh M chỉ vì các con nên muốn duy trì hôn nhân;
- Đời sống chung không thể kéo dài thể hiện ở việc cả hai không còn chung sống trên thực tế ;
- Mục đích hôn nhân không đạt được do giữa hai anh chị có mâu thuẫn nên gia đình không còn bình yên, việc cả hai không còn chung sống nên không thể cùng nhau nuôi dưỡng các con chung nữa;
Như vậy, vì những lý do trên nên Tòa án đủ cơ sở áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
- Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được…”
Vậy, Tòa án đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu của chị N.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com