Câu hỏi:
Xin chào Luật sư. Tôi xin nhờ Luật sư tư vấn giúp tôi trường hợp sau. Vợ chồng tôi có mua một thửa đất 300m2 tại thành phố Vĩnh Yên –Vĩnh phúc, tài sản trên vợ chồng tôi có là do làm ăn dành dụm mà có. Tuy nhiên, tại thời điểm mua do tôi bận bịu công việc buôn bán nên khi làm thủ tục thì chồng tôi đứng tên trên diện tích nêu trên, tôi có đầy đủ giấy tờ chứng minh số tiền tối đưa cho chồng tôi khi mua đất. Do làm thua lỗ nên tôi có ý định bán thửa đất đó nhưng chồng tôi không đồng ý và cho rằng đó là tài sản riền của chồng tôi do chồng tôi đang đứng tên. Trong trường hợp này Luật sư cho hỏi đây được xác định là tài sản chung hay tài sản riêng? Xin cám ơn Luật sư. (Lan Anh – Vĩnh Yên).
Trả lời:
Xin cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về Công ty Luật Hiệp Thành. Luật sư Nguyễn Duy Minh thuộc Công ty Luật TNHH Hiệp Thành xin được tư vấn nội dung câu hỏi của bạn như sau:
- Cơ sở pháp lý:
Luật Đất đai năm 2013;
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Nội dung tư vấn:
Căn cứ vào Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Theo những thông tin mà bạn cung cấp cho chúng tôi, có thể thấy tài sản nêu trên chính là tài sản chung của hai vợ chồng, bởi mảnh đất này được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, hơn nữa đây còn là tài sản do hai vợ chồng cùng nhau góp tiền để mua mà chị cũng khẳng định được chị chứng minh được số tiền trước khi đưa cho chồng chị thực hiện giao dịch chuyển nhượng đất nêu trên.
Chồng bạn cho rằng đó là tài sản riêng của anh ấy thì anh ấy có nghĩa vụ phải chứng minh (Trường hợp có tranh chấp xẩy ra). Nếu anh ấy không có căn cứ để chứng minh được tài sản mà anh, chị đang tranh chấp là tài sản riêng của anh ấy thì tài sản đó sẽ trở thành tài sản chung của cả hai vợ chồng. Vì là tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng cùng nhau tạo lập khối tài sản chung này bằng công sức của mỗi người nên hai vợ chồng sẽ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt (Khoản 2 điều 213 Bộ luật dân sự năm 2015).
Việc chỉ mình chồng bạn đứng tên trên sổ đỏ không phải là căn cứ để xác định quyền sở hữu riêng của chồng bạn đối với tài sản này. Việc xác định người có quyền sử dụng đất sẽ không chỉ căn cứ trên giấy tờ mà còn căn cứ vào nguồn gốc hình thành của khối tài sản đó nữa.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.
Trân trọng!
Luật sư Nguyễn Duy Minh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com