Câu hỏi :
Chị Đ.M.H ở Thái Nguyên có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:
Cụ L.Q.A chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ L.Q.A có con là ông L.V.H (còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 và không từ chối nhận di sản).
Tôi xin hỏi, anh L.V.C là con của ông L.V.H có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ L.Q.A theo pháp luật không? Tòa án sẽ giải quyết ra sao với đơn khởi kiện về yêu cầu nói trên của anh L.V.C?
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
I. Cơ sở pháp lý
- Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 05 tháng 05 năm 2017;
II. Nội dung
Anh L.V.C không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ L.Q.A.
- Điều kiện áp dụng chia di sản thừa kế theo pháp luật
Điều 649 và điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về chia di sản thừa kế theo pháp luật:
“Điều 649. Thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.”
“Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
- Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
…
- Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;…”
Do di sản ông L.Q.A để lại là căn nhà X không có di chúc và cũng không được định đoạt trong di chúc nên di sản là căn nhà X sẽ được chia theo pháp luật về thừa kế.
- Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật
Hàng thừa kế thứ nhất và hàng thừa kế thứ hai tại Bộ luật Dân sự năm 2015 được quy định tại điểm a và b khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;…”
Như vậy, chúng ta có thể kết luận:
- Ông L.V.H là con của ông L.Q.A, do đó ông L.V.H thuộc hàng thừa kế thứ nhất;
- Anh L.V.C là cháu của ông L.Q.A, do đó anh L.V.C thuộc hàng thừa kế thứ hai;
Theo quy định tại khoản 3 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
…
- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Do ông L.V.H còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 và không từ chối nhận di sản nên do đó hàng thừa kế thứ nhất vẫn còn người được hưởng thừa kế nên anh L.V.C không có quyền hưởng di sản.
- Quyền khởi kiện vụ án dân sự
Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền khởi kiện vụ án dân sự:
“Điều 186. Quyền khởi kiện vụ án
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
Do anh L.V.C không có quyền hưởng di sản nên anh L.V.C không có bất kì quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến việc chia thừa kế nên anh L.V.C không có quyền khởi kiện vụ án.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:
“Điều 192. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện
- Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;…”
Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành thì:
“Điều 2. Về người khởi kiện không có quyền khởi kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Người khởi kiện không có quyền khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
…
- Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ…”
Như vậy, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện của anh L.V.C do anh L.V.C có yêu cầu khởi kiện không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.
Vậy, anh L.V.C không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ L.Q.A. Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện của anh L.V.C do anh L.V.C có yêu cầu khởi kiện không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com