Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề phân chia Tài sản chung dùng để góp vốn khi ly hôn.
Ông A và bà B là hai vợ chồng quyết định sử dụng tài sản chung của vợ chồng để thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Theo đăng ký ông A là người đứng tên sở hữu doanh nghiệp tư nhân này. Những vấn đề pháp lý phát sinh là:1. Lợi tức từ doanh nghiệp tư nhân thuộc sở hữu của ông A hay của vợ chồng AB; khi ly hôn sẽ được chia như thế nào?
Luật sư trả lời:
Chào bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
- Cơ sở pháp lý:
Luật hôn nhân và gia đình Số: 52/2014/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 06 năm 2014.
- Nội dung tư vấn:
Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình quy định:
1.Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Theo đó, tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của ông A và bà B nếu không được tặng cho riêng, được thừa kế riêng thì được coi là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Trong trường hợp này, ông A thành lập doanh nghiệp tư nhân với nguồn vốn chung của cả hai vợ chồng.
Thứ nhất, về việc thành lập công ty, nguồn vốn là vốn góp chung, khi đi đăng ký doanh nghiệp, nếu trong giấy tờ có khai rõ, số vốn mà ông A và bà B góp vào với tỉ lệ là bao nhiêu, ví dụ: ông A góp 50%, bà B cũng góp 50%, thì lợi tức thu được thuộc sở hữu chung của cả 2 người, theo tỉ lệ số vốn góp vào, khi đó, bà B và ông A đều được hưởng một nửa số lợi tức mà công ty thu được. Còn ngoài ra, có trường hợp thỏa thuận giữa hai vợ chồng, rằng sẽ cùng cho số lợi tức đó vào tài sản chung hay hưởng riêng biệt.
Trường hợp nếu sau này có tranh chấp, hay hai vợ chồng ly hôn mà chia tài sản, thì phần tài sản thuộc sở hữu của hai vợ chồng là thu nhập, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ hoạt động kinh doanh của công ty trong thời kỳ hôn nhân của ông A và bà B.
Nếu, hai ông bà chia tài sản chung để thực hiện việc góp vốn thành lập doanh nghiệp thì tài sản góp vốn đó thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng. Tức là phụ thuộc vào phần vốn góp vào. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ hoạt động kinh doanh sẽ thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên vợ chồng theo tỷ lệ góp vốn.
Còn nếu, hai vợ chồng không thực hiện chia tài sản chung khi thành lập doanh nghiệp. Tài sản do hai vợ chồng góp vốn là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Như vậy, khi ly hôn tài sản đó sẽ được chia đôi, tức là trường hợp tổng tài sản góp vốn là 1 tỷ thuộc sở hữu chung của ông A và bà B, nếu vẫn giữ tỷ lệ góp vốn như cũ thì ông A phải thanh toán cho mẹ phần giá trị mà bà B được hưởng, ngoài ra có thể thay đổi tỷ lệ góp vốn. Điều này sẽ do hai vợ chồng thỏa thuận phương thức phân chia tài sản chung vợ chồng.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ hoạt động kinh doanh của công ty trong trường hợp này thuộc sở hữu chung của vợ chồng, sẽ được chia đều cho mỗi bên sau khi ly hôn.
Đấy là đối với doanh nghiệp cũng như hoa lợi lợi tức phát sinh, còn với tài sản riêng của hai bên vợ chồng, như đã nêu trên, nếu hai vợ chồng chứng minh được tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản được tặng cho cá nhân ông A hoặc bà B, thì không được coi là tài sản chung, không được đem ra chia đôi theo pháp luật. Còn nếu không chứng minh được thì tất cả tài sản được làm ra trong thời kỳ hôn nhân của hai vợ chồng đều được coi là tài sản chung, và được chia theo pháp luật.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email : luathiepthanh@gmail.com
Trân Trọng