Thêm vụ án CQĐT thiếu sót, nhưng không ảnh hưởng sự thật khách quan?

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đặt câu hỏi: Công lý ở đâu khi chị Kim Anh cùng nhóm người lạ vào nhà tôi, đánh con tôi bị thương và tôi là bố cháu phải đi tù?

Hôm nay (11/6), TAND huyện Sóc Sơn, Hà Nội tuyên phạt Nguyễn Minh Tâm (SN 1991, ở Sóc Sơn) 6 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích.

Theo cáo trạng, chị Nguyễn Kim Anh (SN 1984, ở Đống Đa) có mâu thuẫn làm ăn với ông Nguyễn Tiến Thịnh (SN 1956, bố bị cáo Tâm). Ngày 26/8/2019, chị cùng 3 người đàn ông đến nhà ông Thịnh để giải quyết việc góp vốn làm ăn.

Khi chị Kim Anh đến, ông Thịnh đi vắng, chỉ có Tâm cùng con trai (SN 2014) ở nhà. Kim Anh đi vào nhà nói chuyện với anh Tâm, còn 3 người đàn ông ở ngoài.

Thêm vụ án CQĐT thiếu sót, nhưng không ảnh hưởng sự thật khách quan?
Cháu bé với vết thương trên đầu

Hai bên đã lời qua tiếng lại. Tâm cầm cốc ném, rút 3 con dao chém người phụ nữ. Chị Kim Anh bỏ chạy ra ngoài thì bị Tâm đuổi theo chém vào phía sau, gần tai phải… Hậu quả, chị Kim Anh bị tổn hại sức khỏe 3%.

Tại CQĐT Tâm từng khai: Sau khi chị Kim Anh đi vào nhà nói chuyện, chị mất bình tĩnh nên đã cầm cốc nước hất vào mặt Tâm. Tâm nói chị Kim Anh bình tĩnh, nhưng chị vẫn tiếp tục đe dọa Tâm và cầm cốc thủy tinh ném về phía bị cáo.

Tâm né được nhưng mảnh vỡ của cốc trúng vào mặt con trai Tâm, làm cháu bé bị rách da đầu.

Về phần mình, chị Kim Anh không thừa nhận việc cầm cốc ném thương tích cháu bé. Cơ quan tố tụng cho rằng, chỉ có lời khai duy nhất sau này của Tâm thể hiện việc này. Ngoài ra không có tài liệu, nhân chứng nào khác.

Theo lời khai của bị cáo tại tòa, chị Kim Anh cùng 3 người đàn ông xăm trổ, bặm trợn đi vào, đe dọa mình, sau đó cầm cốc hất nước vào mặt bị cáo; ném gây thương tích cho con trai Tâm. Bị cáo không thừa nhận đã dùng dao tấn công bị hại như quy kết trong cáo trạng.

Theo quan điểm của đại diện VKS, việc con trai bị cáo do ai gây thương tích không thể làm rõ, vì chỉ có lời khai của bị cáo. Cháu bé đã được CQĐT lấy lời khai, nhưng vì còn nhỏ tuổi nên không cung cấp được gì.

Trong khi đó, đủ căn cứ xác định Tâm dùng dao gây thương tích cho chị Kim Anh.  Đại diện VKS đề nghị phạt bị cáo 6 – 9 tháng tù.

Theo bị cáo, vụ việc có 2 người bị thương và sau đó chỉ có lời khai, không ai chứng kiến, nhưng VKS lại chấp nhận lời khai của chị Kim Anh mà không chấp nhận lời khai của bị cáo.

Trong khi chị Kim Anh được công an đưa đi giám định ngay thì dù gia đình bị cáo xin nhiều lần được đưa con đi giám định, nhưng 3 tháng sau cháu bé mới được giám định vết thương.

Về phía mình, chị Kim Anh cho rằng, hành vi của Tâm là đuổi cùng giết tận, mong tòa xử Tâm tội Giết người.

CQĐT có thiếu sót, nhưng không ảnh hưởng sự thật khách quan?

Bào chữa cho bị cáo Tâm, luật sư nêu quan điểm: CQĐT đã không lấy dấu vân tay tại hiện trường để xác định những người tham gia vụ việc; kiểm sát viên không có mặt khi khám nghiệm hiện trường, nhưng lại có chữ ký trong biên bản…

Việc bản cáo trạng chỉ nêu một cách mơ hồ, chung chung rằng bị cáo Tâm “rút 3 con dao” mà không nói rõ 3 dao này rút ở vị trí nào?

Theo biên bản khám nghiệm hiện trường, 5 con dao ở trong ngăn tủ bếp, 2 con dao ở trong hộp nhựa để trên mặt bàn. Vậy bị cáo rút dao ở đâu? Rõ ràng nhận định của bản cáo trạng không có tính thuyết phục.

Bản cáo trạng nêu, nguyên nhân dẫn đến vụ án là do mẫu thuẫn trong khi nói chuyện, khiến hai người cãi nhau và bị cáo cầm cốc ném Kim Anh. Luật sư đặt câu hỏi: Nguyên nhân này đã đủ căng thẳng, gây bức xúc đến nỗi bị cáo có hành vi quyết liệt đến mức chém chị Kim Anh?

Diễn biến cuộc nói chuyện dẫn đến mâu thuẫn cãi nhau không phù hợp với diễn biến tâm lý dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo. Rõ ràng ở đây có vấn đề gì đó không đúng sự thật như nó đã diễn ra…

“Vụ án này trong quá trình điều tra đã có nhiều sai sót về tố tụng, dẫn đến việc phản ánh không xác thực bản chất vụ án”, lời luật sư.

Được nói lời sau cùng, Nguyễn Minh Tâm đặt câu hỏi: “Công lý ở đâu khi chị Kim Anh cùng nhóm người lạ vào nhà tôi, đánh con tôi bị thương và tôi là bố cháu giờ phải đi tù?”

Vị chủ tọa khẳng định, trong vụ việc, CQĐT Công an huyện Sóc Sơn có một số thiếu sót, nhưng việc này không làm ảnh hưởng sự thật khách quan của vụ án; yêu cầu cơ quan điều tra nghiêm túc rút kinh nghiệm.

Nguồn : vietnamnet.vn

Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính

Căn cứ pháp lý:

  • Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015
  • Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015.

Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Trường hợp vụ án đã được thụ lý, Tòa án án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi có căn cứ xác định thời hiệu khởi kiện đã hết theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

Điều 116. Thời hiệu khởi kiện

  1. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:

     a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;

     b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;

     c) Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày.

     3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:

     a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;

     b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.

     4. Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện.

Theo đó, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được xác định là thời điểm người khởi kiện nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc thời điểm nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Thời điểm nhận được hay biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính được xác định dựa vào đối tượng bị tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và phân biệt như sau:

a) Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ là đối tượng được nhận quyết định thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ nhận được quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc (được cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc giao trực tiếp, được nhận qua nhân viên bưu điện, qua chính quyền địa phương hoặc những người khác theo quy định của pháp luật).

b) Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là đối tượng bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ không phải là đối tượng được nhận quyết định và thực tế là họ không nhận được quyết định đó thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ biết được quyết định đó.

c) Trường hợp hành vi của cơ quan, tổ chức hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là thời điểm hành vi hành chính đó được thực hiện hoặc kể từ ngày được thông báo về thời điểm hành vi hành chính đó đã được thực hiện.

d) Trường hợp hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, tùy theo tính chất, nội dung vụ án mà thời gian để tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ có thể bị kéo dài; đồng thời để việc giải quyết vụ án hành chính được toàn diện, đúng pháp luật cần triệu tập được đầy đủ những người có liên quan đến vụ án. Do đó, trong một số trường hợp Tòa án có thể ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính chỉ mang tính chất tạm thời, khi căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính không còn, Tòa án sẽ tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Theo quy định tại Điều 141 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
  • Đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.
  • Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự.
  • Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan.
  • Cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án.
  • Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó.

Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Theo quy định tại Điều 145 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trong thời gian chuẩn bị xét xử, thẩm phán được hân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án phải gửi quyết định cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Tại phiên tòa, trường hợp có căn cứ quy định tại Điều 141 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ vụ án:

Theo quy định tại Điều 142 Luật tố tụng hành chính năm 2015, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không dẫn tới việc xóa tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án đó để theo dõi. Trường hợp căn cứ tạm đình chỉ không còn thì Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đối với tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.

Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án. Cụ thể: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ trong thời gian ngắn nhất để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính là việc tòa án ngừng việc giải quyết vụ án khi có căn cứ do pháp luật quy định.

Căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:

  1. Người khởi kiện là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;
  2. Người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong trường hợp không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện đã rút;
  3. Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút đơn yêu cầu độc lập;
  4. Người khởi kiện không nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu độc lập của họ;

  1. Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;
  2. Người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút yêu cầu;
  3. Thời hiệu khởi kiện đã hết;
  4. Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật này mà Tòa án đã thụ lý. Cụ thể như sau:

– Người khởi kiện không có quyền khởi kiện;

– Người khởi kiện không có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ;

– Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;

– Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;

– Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;

– Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật này;

– Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của Luật này;

– Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.

Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án:

Theo quy định tại Điều 144 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

– Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó, nếu việc khởi kiện này không có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị kiện và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp bị đình chỉ theo quy định tại các điểm b, c và e khoản 1 Điều 123, điểm b và điểm đ khoản 1 Điều 143 của Luật này và trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

– Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Đối với quyết định đình chỉ giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri có hiệu lực thi hành ngay. Đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị.

Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án:

Theo quy định tại Điều 145, Điều 165,  Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, nếu có một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 của Luật này thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Trường hợp đương sự xuất trình quyết định hành chính mới mà quyết định hành chính đó liên quan đến quyết định bị khởi kiện và không thuộc thẩm quyền của Tòa án đang xét xử sơ thẩm vụ án thì Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Hiệu lực của Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

Câu hỏi:

Xin chào Luật sư, luật sư tư vấn giúp tôi, Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực khi nào? Thời hạn kháng cáo Quyết định này là bao nhiêu ngày?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự;

  1. Nội dung tư vấn:

Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 273 và Khoản 2 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được quy định như sau:

Điều 273. Thời hạn kháng cáo

  1. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này.

Điều 280. Thời hạn kháng nghị

  1. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.”

Như vậy, thời hạn kháng cáo quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là 07 ngày kể từ ngày đương sự nhận được Quyết định.

Sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định nêu trên mà Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án không bị kháng cáo, kháng nghị thì Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.

Câu hỏi:

Xin chào Luật sư, Tôi tên là Hoàng Thị Thanh, hiện đang sinh sống và làm việc tại Đà Nẵng. Tôi đang có tranh chấp về một số vấn đề và muốn đưa đơn khởi kiện ra Tòa, tuy nhiên, các giao dịch tôi thực hiện và phát sinh tranh chấp đã xảy ra từ nhiều năm trước rồi. Bây giờ tôi muốn khởi kiện thì có được giải quyết không? Xin Luật sư tư vấn giúp tôi về trường hợp này.

Gửi bởi Hoàng Thị Thanh – Hoàn Kiếm, Hà Nội

Cảm ơn chị đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của chị được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 về hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính.

  1. Nội dung tư vấn:

Chị hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật, cụ thể tại Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Điều 4. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

  1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác…”

Tuy nhiên, do các giao dịch và việc phát sinh tranh chấp của chị theo thông tin chị gửi cho chúng tôi là đã diễn ra từ nhiều năm trước. Do vậy, phải tiến hành xem xét thêm về phần thời hiệu khởi kiện vụ án.

“Điều 184. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự

  1. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
  2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.

Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.”

Việc áp dụng thời hiệu khởi kiện được thực hiện khi có yêu cầu của một hoặc các bên. Chỉ trong một số trường hợp thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, nếu trường hợp của chị đang muốn thực hiện việc khởi kiện thuộc một trong các trường hợp dưới đây thì chắc chắn sẽ được giải quyết.

Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện như sau:

  1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
  2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Khởi kiện lại vụ án dân sự.

Câu hỏi:

Xin chào Luật sư, khoảng năm 2009, tôi có thực hiện khởi kiện vụ án đang có tranh chấp tại Tòa án và đã được Tòa án thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, do bên bị đơn hứa hẹn sẽ thực hiện nghĩa vụ khi tôi rút đơn khởi kiện. Do đó, tôi đã thực hiện rút đơn khởi kiện và Tòa án đã có quyết định đình chỉ vụ án dân sự. Sau đó, bên bị đơn vẫn không thực hiện nghĩa vụ đối với tôi. Tôi xin hỏi trường hợp này tôi có được khởi kiện lại không? Xin luật sư tư vấn giúp tôi.

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 về hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

  1. Nội dung tư vấn:

Trường hợp của bạn thuộc trường hợp quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

“Điều 217. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

  1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
  2. c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;”

Theo đó, căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

“Điều 192. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện

  1. Đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:
  2. a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
  3. b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
  4. c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;
  5. d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Và quy định tại Khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 về hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án:

Điều 7. Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy định tại khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

  1. Người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015và các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.

Như vậy, bạn hoàn toàn có quyền được nộp đơn khởi kiện lại trong trường hợp này

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

Theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ: Tin tố giác tội phạm; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đối với một số tội phạm đặc thù, Cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của người bị hại. Cụ thể:

–  Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác),

–  Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,

–  Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội,

–  Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,

–  Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính,

–  Điều 141. Tội hiếp dâm,

–  Điều 143. Tội cưỡng dâm,

–  Điều 155. Tội làm nhục người khác,

–  Điều 156. Tội vu khống

–  Điều 226.Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942941668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính

Căn cứ pháp lý:

  • Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015
  • Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015.

Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Trường hợp vụ án đã được thụ lý, Tòa án án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi có căn cứ xác định thời hiệu khởi kiện đã hết theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

Điều 116. Thời hiệu khởi kiện

  1. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
  2. a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
  3. b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
  4. c) Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày.
  5. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
  6. a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
  7. b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.
  8. Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện.

Theo đó, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được xác định là thời điểm người khởi kiện nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc thời điểm nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Thời điểm nhận được hay biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính được xác định dựa vào đối tượng bị tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và phân biệt như sau:

  1. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ là đối tượng được nhận quyết định thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ nhận được quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc (được cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc giao trực tiếp, được nhận qua nhân viên bưu điện, qua chính quyền địa phương hoặc những người khác theo quy định của pháp luật).
  2. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là đối tượng bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ không phải là đối tượng được nhận quyết định và thực tế là họ không nhận được quyết định đó thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ biết được quyết định đó.
  3. Trường hợp hành vi của cơ quan, tổ chức hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là thời điểm hành vi hành chính đó được thực hiện hoặc kể từ ngày được thông báo về thời điểm hành vi hành chính đó đã được thực hiện.
  4. Trường hợp hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, tùy theo tính chất, nội dung vụ án mà thời gian để tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ có thể bị kéo dài; đồng thời để việc giải quyết vụ án hành chính được toàn diện, đúng pháp luật cần triệu tập được đầy đủ những người có liên quan đến vụ án. Do đó, trong một số trường hợp Tòa án có thể ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính chỉ mang tính chất tạm thời, khi căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính không còn, Tòa án sẽ tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Theo quy định tại Điều 141 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
  • Đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.
  • Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự.
  • Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan.
  • Cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án.
  • Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó.

Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Theo quy định tại Điều 145 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trong thời gian chuẩn bị xét xử, thẩm phán được hân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án phải gửi quyết định cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Tại phiên tòa, trường hợp có căn cứ quy định tại Điều 141 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ vụ án:

Theo quy định tại Điều 142 Luật tố tụng hành chính năm 2015, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không dẫn tới việc xóa tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án đó để theo dõi. Trường hợp căn cứ tạm đình chỉ không còn thì Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đối với tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.

Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án. Cụ thể: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ trong thời gian ngắn nhất để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com