Trường hợp Hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất vô hiệu

Câu hỏi:

Ông P.V.L ở Hà Nội có câu hỏi gửi đến văn phòng Luật sư như sau:

Công ty TNHH xây dựng BC khi tiến hành việc giao kết Hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất, tại thời điểm đó mới đang lập quy hoạch, lập hồ sơ xin phép, chưa được cấp có thẩm quyền cấp phép xây dựng, chưa được chuyển đổi mục đích sử dụng đất, Công ty biết rõ điều đó nhưng không thông báo cho ông P.V.L mà đã khẳng định diện tích đất là được phép xây dựng, được phép mua bán và thực hiện hành vi ký kết hợp đồng mua bán.

Tôi xin hỏi, Hợp đồng mua bán nhà ở trên có bị vô hiệu không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Đất đai năm 2013;
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;

     II. Nội dung

  1. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất

Khoản 1, Điều 168, Luật đất đai năm 2013 quy định về điều kiện thực hiện quyền của người có quyền sử dụng đất:

“Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất

  1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

     a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

     b) Đất không có tranh chấp;

     c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

     d) Trong thời hạn sử dụng đất.

     2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất còn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192, 193 và 194 của Luật này.

     3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.”

Như vậy, hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất sẽ bị vô hiệu khi người bán không có đủ điều kiện để thực hiện việc mua bán chuyển nhượng bao gồm: có giấy chứng nhận, đất không có tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án, trong thời hạn sử dụng đất,… Ngoài ra, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai thì mới có hiệu lực pháp luật. Do đó, công ty TNHH BC không đủ điều kiện thực hiện quyền giao kết Hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất.

 

 

  1. Hợp đồng vô hiệu

Như phân tích ở trên, Công ty TNHH xây dựng BC không đó quyền tham gia giao dịch mua bán quyền sử dụng đất, do đó Công ty TNHH xây dựng BC không có năng lực dân sự để tham gia giao dịch dân sự này theo quy định tại khoản 1 Điều 86 Bộ luật Dân sự năm 2015.

“Điều 86. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

  1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác…”

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

  1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

     a)Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;…”

Về quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 122. Giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.”

Như vậy, hợp đồng mua bán quyền sử dụng bất động sản trên vô hiệu do chủ thể tham gia mua bán nhà ở không có năng lực pháp luật dân sự.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các trường hợp được ký kết hợp đồng lao động theo mùa vụ

Câu hỏi:

Anh H.Đ.A ở Lạng Sơn gửi câu hỏi đến văn phòng Luật sư như sau:

Tôi ký kết hợp đồng lao động theo mùa vụ vào 8/8/2018, hợp đồng lao động theo mùa vụ có thời hạn 02 năm, với người sử dụng lao động là Đ.C.N. Theo hợp đồng lao động, tôi sẽ không được đóng bảo hiểm xã hội.

Tôi xin hỏi, quy định trên trong hợp đồng lao động có phù hợp với quy định của pháp luật không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Lao động năm 2012;
  • Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;

     II. Nội dung

Không có hợp đồng lao động theo mùa vụ có thời hạn 2 năm. Đây thực chất là hợp đồng lao động xác định thời hạn. Và việc thỏa thuận không đóng bảo hiểm xã hội với người lao động trong hợp đồng lao động có thời hạn 2 năm là trái pháp luật.

  1. Loại hợp đồng lao động

Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng được định nghĩa tại điểm c khoản 1 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012:

“Điều 22. Loại hợp đồng lao động

  1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

     c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng…”

Hợp đồng lao động đối với người lao động là anh H.Đ.A có thời hạn ghi nhận là 02 năm (24 tháng). Như vậy, hợp đồng lao động này không phải hợp đồng lao động theo mùa vụ.

Cũng tại Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012, điểm b khoản 1 quy định về hợp đồng lao động xác định thời hạn:

“Điều 22. Loại hợp đồng lao động

  1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

     b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn;

Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.”

Như vậy, hợp đồng lao động này thực chất là hợp đồng lao động xác định thời hạn do có thời hạn được xác định trong hợp đồng lao động là 24 tháng.

 

 

  1. Đối tượng phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì:

“Điều 2. Đối tượng áp dụng

  1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:

     a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;…”

Cũng theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 tại khoản 1 Điều 18 quy định về quyền tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động:

“Điều 18. Quyền của người lao động

  1. Được tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này…”

Theo khoản 2 Điều 50 Bộ luật Lao động năm 2014 thì:

“Điều 50. Hợp đồng lao động vô hiệu

  1. Hợp đồng lao động vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng…”

Như vậy, nội dung quy định về việc không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong hợp đồng lao động là trái pháp luật. Nội dung của phần này là vô hiệu.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Câu hỏi

“Ngày 28/9/2016 ông A có nhận chuyển nhượng của ông B diện tích đất 696m2 thuộc thửa số 567, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại Thôn Đ C, xã S L, thị xã S T với giá chuyển nhượng là 690.000.000đồng. Sau khi thỏa thuận chuyển nhượng thì ông A có đặt cọc cho ông B 20.000.000 đồng và có viết giấy tay đặt cọc.

Đến ngày 12/10/2016 ông A và ông B có viết giấy tay sang nhượng diện tích đất trên với số tiền là 150.000.000 đồng nhằm mục đích trốn thuế. Sau đó ông A và ông B đến Văn phòng công chứng H T để lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định, tại hợp đồng này chỉ ghi giá chuyển nhượng là 50.000.000 đồng nhằm mục đích trốn thuế, cùng ngày 12/10/2016 ông A và ông B đã nộp toàn bộ hồ sơ chuyển nhượng lên bộ phận một cửa của Ủy ban nhân dân thị xã S T, phiếu hẹn đến ngày 03/11/2016 sẽ trả kết quả, phiếu hẹn này ông B giữ bản chính.

Ngày 17/10/2016 thì ông B đến bộ phận một cửa rút toàn bộ hồ sơ chuyển nhượng đất và tuyên bố không chuyển nhượng cho ông A nữa nên ông A khởi kiện yêu cầu ông B tiếp tục duy trì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập 12/10/2016 giữa ông A và ông B.”

Tôi xin hỏi, nếu Tòa án chứng minh được giao dịch giữa 2 ông A và B được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A có được Tòa án chấp nhận không?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  1. Nội dung

Nếu Tòa án chứng minh được giao dịch giữa 2 ông A và B được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A sẽ không được Tòa án chấp nhận.

Ở đây chúng ta cần làm rõ, các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, hậu qua bị Tòa án xác định là hợp đồng vô hiệu.

Theo điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 về Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:

“1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu; còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

Việc lập một thỏa thuận khác nhằm che giấu hợp đồng chuyển nhượng là hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Một khi giao dịch giả tạo bị tuyên vô hiệu, giao dịch bị che giấu vẫn còn hiệu lực và các bên liên quan vẫn thực hiện theo đúng quy định pháp luật, tức là kê khai đúng với giá trị thực tế của hợp đồng và thực hiện đóng thuế thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật, và các bên phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ dựa trên hợp đồng thực.

Khi hợp đồng bị che giấu bị vô hiệu theo quy định pháp luật thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ hợp đồng và theo quy định tại:

“Điều 427. Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng

1….

  1. Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.

Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.”

Vậy hợp đồng đã bị Tòa án chứng minh được giao dịch được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A sẽ không được Tòa án chấp nhận do hợp đồng đó sẽ bị Tòa án xác định là vô hiệu do giả tạo.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo BLDS năm 2015

  1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015

Điều 132 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

 “1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:

   a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;

   b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;

   c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;

   d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;

   đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

  1. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.
  2. Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.”

Theo đó, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được phân thành hai trường hợp như sau:

  • Thời hiệu yêu cầu không hạn chế: Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội và các giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo;
  • Thời hiệu yêu cầu hạn chế (2 năm): Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp khác. Hết thời hiệu nêu trên mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.
  1. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Theo quy định tại Điều 131 BLDS năm 2015, giao dịch ân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Hợp đồng dân sự là một bộ phận của giao dịch dân sự, quy định về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng được quy định tại phần giao dịch dân sự. Theo đó, quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu. Theo quy định tại Điều 407 BLDS về hợp đồng vô hiệu:

– Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

– Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.

  1. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự của người thứ ba ngay tình không bị xác định là vô hiệu và được bảo vệ theo quy định tại Điều 133 BLDS năm 2015. Cụ thể như sau:

  • Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.
  • Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu

Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

  • Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về Thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo BLDS năm 2015”. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan, Quý khách hàng vui lòng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942941668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Tư vấn về hợp đồng lao động vô hiệu

Hợp đồng lao động được hiểu là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Tuy nhiên có nhiều trường hợp vì những lý do và chủ quan và khách quan nào đấy mà dẫn đến hợp đồng lao động bị vô hiệu. Luật Hiệp Thành sẽ cung cấp một số tư vấn pháp lý liên quan đến hợp đồng lao động bị vô hiệu.

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012;

– Nghị định số 44/2013/NĐ-CP Hướng dẫn Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 10 tháng 5 năm 2013.

  1. Luật sư tư vấn

Một hợp đồng lao động bị coi là vô hiệu khi nào?

Theo quy định tại Điều 50 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về các trường hợp hợp đồng lao động vô hiệu thuộc một trong các trường hợp sau:

– Toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động trái pháp luật;

– Người ký kết hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền;

– Công việc mà hai bên đã giao kết trong hợp đồng lao động là công việc bị pháp luật cấm;

– Nội dung của hợp đồng lao động hạn chế hoặc ngăn cản quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động.

Vậy khi hợp đồng lao động bị vô hiệu thì xử lý thế nào?

Theo quy định tại Điều 52 Bộ luật lao động năm 2012 về xử lý hợp đồng lao động vô hiệu:

“1. Khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu từng phần thì xử lý như sau:

a, Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên được giải quyết theo thỏa ước lao động tập thể hoặc theo quy định của pháp luật;

b, Các bên tiến hành sửa đổi, bổ sung phần của hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu để phù hợp với thỏa ước lao động tập thể hoặc pháp luật về lao động.

  1. Khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì xử lý như sau:

a, Trong trường hợp do ký sai thẩm quyền quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 của Bộ luật này thì cơ quan quản lý nhà nước về lao động hướng dẫn các bên ký lại;

b, Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động được giải quyết theo quy định của pháp luật.

  1. Chính phủ quy định cụ thể điều này.”

Theo Điều 10, Điều 11 Nghị định 44/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động cụ thể như sau:

Đối với việc xử lý hợp đồng lao động vô hiệu từng phần

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu từng phần, người sử dụng lao động và người lao động phải sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động bằng việc ký kết phụ lục hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định của pháp luật.

Trong thời gian từ khi tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu từng phần đến khi hai bên sửa đổi, bổ sung phần nội dung bị tuyên bố vô hiệu thì quyền và lợi ích của người lao động được giải quyết theo quy định của nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể (nếu có) và quy định của pháp luật về lao động.

Hợp đồng lao động vô hiệu có tiền lương thấp hơn so với quy định của pháp luật về lao động, nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể đang áp dụng thì hai bên thỏa thuận lại theo quy định tại Khoản 1 Điều này. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn trả phần chênh lệch giữa tiền lương đã thỏa thuận với tiền lương trong hợp đồng lao động vô hiệu theo thời gian thực tế làm việc của người lao động nhưng tối đa không quá 12 tháng.

Đối với trường hợp xử lý hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ do người ký kết hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền, cơ quan quản lý nhà nước về lao động nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính có trách nhiệm hướng dẫn các bên ký lại hợp đồng lao động.

Hợp đồng lao động có toàn bộ nội dung của hợp đồng trái pháp luật bị hủy bỏ khi có quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ do toàn bộ nội dung của hợp đồng quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn so với quy định của pháp luật về lao động, nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể đang áp dụng thì người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định của pháp luật về lao động.

Trong thời gian từ khi tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ đến khi hai bên giao kết hợp đồng lao động mới thì quyền và lợi ích của người lao động được giải quyết theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 Nghị định này.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ do công việc mà hai bên đã giao kết trong hợp đồng lao động là công việc bị pháp luật cấm, người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định của pháp luật về lao động.

Trường hợp không giao kết được hợp đồng lao động mới thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả cho người lao động một khoản tiền do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất cứ mỗi năm làm việc bằng một tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố tại thời điểm có quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ do nội dung của hợp đồng lao động hạn chế hoặc ngăn cản quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động, người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định của pháp luật về lao động.

Như vậy đối hợp đồng lao động vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng. Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn quy định trong pháp luật về lao động, nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể đang áp dụng hoặc nội dung của hợp đồng lao động hạn chế các quyền khác của người lao động thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó bị vô hiệu.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Phân tích về Giao dịch Dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015

Luật Hiệp Thành đưa ra một số phân tích đối với vấn đề Giao dịch Dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015

  1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ Luật Dân sự năm 2015

  1. Luật sư tư vấn:

Tại Điều 117 BLDS năm 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã thay thế từ “người” tham gia giao dịch bằng “chủ thể”. Điều này xác định rằng chủ thể tham gia giao dịch dân sự có thể là cá nhân (con người về mặt sinh học) hoặc pháp nhân (con người về mặt pháp lý).

Theo quy định tại Điều 122, giao dịch dân sự nếu không đáp ứng được một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nêu tại Điều 117 thì vô hiệu, trừ trường hợp BLDS năm 2015 có quy định khác.

Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, BLDS năm 2015 đã thay thế từ “pháp luật” bởi từ “luật” trong quy định giao dịch dân sự do vi phạm điều cấm. Có thể thấy rằng từ “pháp luật” có nội hàm rộng hơn so với từ “luật”. Pháp luật có thể được hiểu là hệ thống các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh một lĩnh vực cụ thể nào đó, trong đó mặt biểu hiện của nó là các quy định trong Hiến pháp, luật, nghị định, thông tư, chỉ thị… điều chỉnh lĩnh vực có liên quan. Vậy có thể hiểu từ “luật” được sử dụng tại Điều 122 BLDS năm 2015 là để chỉ các quy định trong văn bản luật mà không phải các quy định trong nghị định, thông tư, chỉ thị…?! Quy định này nếu được hiểu theo cách trên, có tác dụng nhấn mạnh tầm quan trọng và hiệu lực của văn bản luật so với các văn bản dưới luật, trong trường hợp có mâu thuẫn giữa các quy định với nhau.

Về giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. Khi quy định về vấn đề này, Điều 125 đã quy định thêm trường hợp ngoại lệ tại khoản 2, nhằm công nhận hiệu lực của các giao dịch dân sự dù không đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Theo đó, giao dịch dân sự sẽ không bị vô hiệu trong trường hợp giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó; giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ; và giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự. Những ngoại lệ này thể hiện sự tôn trọng quyền tự do ý chí, tính độc lập về tài sản, đảm bảo quyền và lợi ích của bên yếu thế trong giao dịch dân sự.

Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, được bổ sung một trường hợp ngoại lệ tại khoản 2 Điều 126: Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được. Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn định của các giao dịch dân sự, tránh việc lợi dụng vào quy định của pháp luật để yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu khi các bên đều đã đạt được mục đích chính của mình dù trước đó có nhầm lẫn xảy ra.

Về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức, theo nguyên tắc, giao dịch dân sự không tuân thủ về mặt hình thức thì vô hiệu. Tuy nhiên, theo Điều 129 vẫn có hai trường hợp ngoại lệ sau: Thứ nhất, giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch; Thứ hai, giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch. Trên thực tế đã có không ít những vụ việc liên quan đến yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức, tuy nhiên đa phần xuất phát từ sự không thiện chí của một bên trong việc lợi dụng việc không tuân thủ quy định về mặt hình thức để không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết với bên kia.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng