Án phạt nào cho trung vệ Quế Ngọc Hải đóng quảng cáo game có dấu hiệu lách luật?

Trung vệ Quế Ngọc Hải có thể đối mặt với mức xử phạt phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với tham gia đóng quảng cáo game có dấu hiệu lách luật, vi phạm bản quyền.

Ngày 3/9, Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) đưa ra khẳng định, trung vệ ĐTQG Việt Nam Quế Ngọc Hải tham gia đóng quảng cáo game có dấu hiệu lách luật, vi phạm bản quyền.

Trước sự việc này, Ông Quách Việt Hùng – Công ty Luật Hiệp Thành, đoàn luật sư TP Hà Nội cho biết, AFC là đơn vị nắm giữ bản quyền hình ảnh trận đấu tại vòng loại World Cup 2022 và AFF Cup 2018. Ông Quách Việt Hùng nêu rõ việc bảo hộ về quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam được quy định rõ trong Luật sở hữu trí tuệ.

 

Trung vệ Quế Ngọc Hải tham gia đóng quảng cáo game có dấu hiệu lách luật, vi phạm bản quyền.

 

“Đoạn phim quảng cáo do Quế Ngọc Hải đăng tải đã vi phạm sự quyền liên quan được bảo hộ đối với tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã được chuyển giao bản quyền. Theo quy định tại Điều 35 Luật sở hữu trí tuệ về Hành vi xâm phạm các quyền liên quan thì các hành vi vi phạm bao gồm: Chiếm đoạt quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng (khoản 1 Điều 35); Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng (khoản 2 Điều 35); Sao chép, trích ghép đối với cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng. (khoản 5 Điều 35)” – Ông Quách Việt Hùng nhấn mạnh,

Cũng theo vị đại diện của Công ty Luật Hiệp Thành, đoàn luật sư TP Hà Nội, đối với hành vi vi phạm của cầu thủ Quế Ngọc Hải có thể đối mặt với mức xử phạt theo Nghị định 158/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/11/2013 về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo Khoản 3 Điều 51 quy định: Vi phạm quy định về hành vi cấm trong hoạt động quảng cáo

“Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: Quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định; Quảng cáo có sử dụng hình ảnh, lời nói, chữ viết của cá nhân khi chưa được cá nhân đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép” – vị luật sư này cho biết.

Bên cạnh đó, theo quy định về mức xử phạt vi phạm hành chính với những hành vi xâm phạm quyền tác giả được Nghị định 131/2013/NĐ-CP, tại Điều 18. Hành vi xâm phạm quyền sao chép tác phẩm sẽ phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Ngoài ra, biện pháp khắc phục hậu quả buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường Internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.

AFC và VFF còn có thể đòi yêu cầu bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tại Điều 204 Luật sở hữu trí tuệ.

Thời hiệu của quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Câu hỏi:

3 năm trước, vì tôi điều khiển phương tiện vi phạm luật giao thông đường bộ nên bị cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục không lập biên bản với hình phạt duy nhất là phạt tiền và tạm giữ giấy phép lái xe của tôi. Sau thời gian đó tôi đi nước ngoài nên không thể chấp hành quyết định xử phạt đó. Đến nay tôi về nước thì cần giấy phép lái xe để tiếp tục điều khiển phương tiện để đi lại. Tôi xin hỏi, hiện giờ tôi nên làm gì để lấy lại giấy phép lái xe của tôi.

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi năm 2015 và năm 2019;
  • Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
  1. Nội dung tư vấn:

Hiện tại, tuy thời hiệu thi hành quyết định xử phạt đã hết tuy nhiên bạn vẫn nên tự nguyện thi hành nghĩa vụ nộp phạt vào kho bạc nhà nước. Thủ tục thi hành quyết định xử phạt được quy định tại Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Trong yêu cầu của bạn, cùng với vấn đề thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là vấn đề xử lý giấy phép bị tạm giữ theo thủ tục hành chính, nếu bạn không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt đó thì bạn sẽ không lấy được giấy phép lái xe của bạn.

Khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về thời hiệu khiếu kiện hành chính là 1 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính. Do đến nay đã 3 năm kể từ ngày bạn nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục không lập biên bản nên bạn đã mất quyền khởi kiện quyết định nói trên.

Nếu hiện nay cơ quan có thẩm quyền chưa thi hành quyết định xử phạt hành chính đó thì sẽ không được thi hành quyết định nữa do đã quá thời hiệu thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính 2015.

Trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt và không thuộc các trường hợp hoãn thi hành quyết định phạt tiền; giảm, miễn tiền phạt theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì phải bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 86, 87 và 88 Luật này. Đây là trách nhiệm của cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, cá nhân, tổ chức bị xử phạt chỉ bị coi là cố tình trốn tránh, trì hoãn việc chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định pháp luật mà vẫn không thi hành; đồng thời, cố tình tìm cách trốn tránh, trì hoãn việc chấp hành quyết định đó như tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho việc thi hành… Nếu hết thời hạn quy định người bị xử phạt không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt không có bất kỳ biện pháp nào buộc người bị xử phạt phải chấp hành quyết định đó thì không thuộc trường hợp người bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành quyết định. Như vậy, trường hợp của bạn không bị coi là cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành quyết định.

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu qua một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, trường hợp của bạn đã qua thời hạn nên được coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Giấy phép lái xe của bạn hiện đang bị tạm giữ tại nơi ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục không lập biên bản nhằm đảm bảo thi hành quyết định xử phạt đó. Vì vậy để lấy lại giấy phép lái xe của bạn thì bạn phải thi hành quyết định đó trước, theo quy định tại khoản 2 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì:

“Điều 126. Xử lý tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính

…2. Đối với tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt theo khoản 6 Điều 125 của Luật này phải được trả ngay cho người bị xử phạt sau khi thi hành xong quyết định xử phạt…”

Vậy, trường hợp này bạn phải thi hành xong quyết định xử phạt thì sẽ được cơ quan đang tạm giữ giấy phép lái xe của bạn trả ngay giấy phép lái xe.

Như vậy, hiện tại để lấy lại giấy phép lái xe của bạn thì bạn phải thi hành xong quyết định xử phạt. Hiện tại, thời hiệu thi hành quyết định xử phạt đó đã hết nên các cơ quan sẽ không có biện pháp cưỡng chế nào để thi hành nó và bạn cũng được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Photo sách có vi phạm bản quyền tác giả không?

Photo sách không còn là mọt vấn đề mới mẻ, nhầ là ở các trường đại học, sinh viên sử dụng giáo trình photo khá phổ biến để tiết kiệm chi phí. Bởi lẽ các quyển sách photo giá thành chỉ bằng một nửa giá cuốn sách được xuất bản chính thống. Tuy nhiên, việc photo sách tràn lan như vậy có vi phạm bản quyền tác giả không?

Photo sách chính là một hình thức sao chép tác phẩm. Sao chép ở đây được hiểu là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.

Căn cứ Điều 25 Luật sở hữu trí tuej năm 2005, các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:

– Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;

– Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;

– Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;

– Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;

– Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;

– Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;

– Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;

– Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;

– Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;

– Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.

Theo quy định trên thì việc sao chép tác phẩm chỉ không phải xin phép và không phải trả tiền khi “Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân” và “Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu”. Do đó việc các sinh viên sử dụng sách photo để tham khảo, học tập thì không bị coi là xâm phạm quyền tác giả.

Trường hợp các hàng photo thực hiện hành vi photo sách vì mục đích lợi nhuận mà không xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả là xâm phạm quyền tác giả của chủ sở hữu quyền tác giả.

Đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về “Photo sách có vi phạm bản quyền tác giả không?”. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!

Luật gia Bùi Thanh Hà

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Hành vi vi phạm của xe vận chuyển hành khách theo tuyến cố định

Trong thời gian trước và sau tết, nhu cầu đi lại của người dân tăng mạnh, qua đó mà nhu cầu sử dụng các phương tiện công cộng tăng cao, đôi khi dẫn đến quá tải. Nhiều hãng xe lợi dụng tình hình đó nhằm lôi kéo, nhồi nhét khách, sang nhượng hành khách dọc đường khi chưa được sự đồng ý của họ, thậm chí còn có hành vi tranh giành, đe dọa, xúc phạm hành khách gây bức xúc dư luận.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành đưa ra một số tư vấn pháp lý liên quan đến chế tài xử phạt nhân viên phục vụ trên xe buýt, xe vận chuyển hành khách theo tuyến cố định, theo hợp đồng,…

  1. Cơ sở pháp lý:

– Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt;

  1. Nội dung tư vấn

– Tại Khoản 2, Khoản 4 Điều 23 NĐ 100/2019 có quy định:

Điều 23. Xử phạt người điều khiển xe ô tô chở hành khách, ô tô chở người và các loại xe tương tự xe ô tô chở hành khách, chở người vi phạm quy định về vận tải đường bộ

  1. Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện nhưng tổng mức phạt tiền tối đa không vượt quá 40.000.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô chở hành khách, ô tô chở người (trừ xe buýt) thực hiện hành vi vi phạm: Chở quá từ 02 người trở lên trên xe đến 9 chỗ, chở quá từ 03 người trở lên trên xe 10 chỗ đến xe 15 chỗ, chở quá từ 04 người trở lên trên xe 16 chỗ đến xe 30 chỗ, chở quá từ 05 người trở lên trên xe trên 30 chỗ, trừ các hành vi vi phạm quy định tại khoản 4 Điều này.

  1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện nhưng tổng mức phạt tiền tối đa không vượt quá 40.000.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô chở hành khách chạy tuyến có cự ly lớn hơn 300 km thực hiện hành vi vi phạm: Chở quá từ 02 người trở lên trên xe đến 9 chỗ, chở quá từ 03 người trở lên trên xe 10 chỗ đến xe 15 chỗ, chở quá từ 04 người trở lên trên xe 16 chỗ đến xe 30 chỗ, chở quá từ 05 người trở lên trên xe trên 30 chỗ.

…”

Như vậy theo Điều 23 nêu trên thì các mức phạt tiền được áp dụng trong trường hợp chở quá từ 2 người trở lên trên xe 9 chỗ, chở quá từ 3 người trở lên trên xe 10-15 chỗ, chở quá từ 4 người trở lên trên xe 16-30 chỗ và chở quá trên 5 người với xe trên 30 chỗ.

Cụ thể, Khoản 2 Điều 23 quy định đối với tài xế điều khiển xe khách chạy cự ly dưới 300 km, hành vi nhồi nhét khách bị phạt tiền 400.000-600.000 đồng trên mỗi người vượt quá quy định nhưng tổng mức phạt không vượt quá 40 triệu và tước bằng lái 1-3 tháng.

Nếu chở quá gấp đôi số người quy định (vượt 100%), tài xế sẽ bị tước bằng lái 3-5 tháng.

Với xe khách chạy đường dài trên 300 km, Khoản 4 Điều 23 quy định mức phạt dành cho tài xế vi phạm lỗi chở quá người tăng lên 1-2 triệu đồng trên mỗi người vượt quá nhưng tổng mức phạt không quá 40 triệu.

– Tại Khoản 6 Điều 30 NĐ 100/2019 có quy định:

Điều 30. Xử phạt chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ

  1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện nhưng tổng mức phạt tiền tối đa không vượt quá 40.000.000 đồng đối với chủ phương tiện là cá nhân, từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện nhưng tổng mức phạt tiền tối đa không vượt quá 80.000.000 đồng đối với chủ phương tiện là tổ chức giao phương tiện hoặc để cho người làm công, người đại diện điều khiển phương tiện thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 23 Nghị định này hoặc trực tiếp điều khiển phương tiện thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 23 Nghị định này.

…”

Như vậy đối với chủ phương tiện là cá nhân có xe khách chạy cự ly dưới 300 km, Khoản 3 Điều 30 quy định mức phạt 400.000 – 600.000 đồng trên mỗi người vượt quá nhưng tổng mức phạt không vượt quá 40 triệu.

Nếu chủ xe là tổ chức đã giao phương tiện hoặc để cho người làm công điều khiển xe vi phạm, mức phạt áp dụng là 800.000-1.200.000 triệu đồng trên mỗi người vượt quá quy định nhưng tổng mức phạt tiền tối đa 80 triệu.

Còn nếu xe khách chạy cung đường trên 300 km, Khoản 6 Điều 30 quy định phạt tiền ở mức 1-2 triệu đồng trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở nhưng tổng mức phạt không quá 40 triệu đồng đối với chủ phương tiện là cá nhân.

Mức phạt tăng lên 2.000.000-4.000.000 đồng trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở nhưng tổng số tiền phạt không quá 80.000.000 đồng đối với chủ phương tiện là tổ chức.

– Tại Điều 31 NĐ 100/2019 có quy định:

Điều 31. Xử phạt nhân viên phục vụ trên xe buýt, xe vận chuyển hành khách theo tuyến cố định, xe vận chuyển hành khách theo hợp đồng, xe vận chuyển khách du lịch vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông

  1. Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
  2. a) Không hỗ trợ, giúp đỡ hành khách đi xe là người cao tuổi, trẻ em không tự lên xuống xe được, người khuyết tật vận động hoặc khuyết tật thị giác;
  3. b) Không mặc đồng phục, không đeo thẻ tên của nhân viên phục vụ trên xe theo quy định.
  4. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với nhân viên phục vụ trên xe buýt thực hiện hành vi: Thu tiền vé nhưng không trao vé cho hành khách; thu tiền vé cao hơn quy định.
  5. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với nhân viên phục vụ trên xe vận chuyển hành khách theo tuyến cố định thực hiện hành vi: Thu tiền vé nhưng không trao vé cho hành khách; thu tiền vé cao hơn quy định.
  6. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
  7. a) Sang nhượng hành khách dọc đường cho xe khác mà không được hành khách đồng ý; đe dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; bắt ép hành khách sử dụng dịch vụ ngoài ý muốn;
  8. b) Xuống khách để trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của người có thẩm quyền.
  9. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi hành hung hành khách.
  10. Ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, người thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này (trường hợp thu tiền vé cao hơn quy định) còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính.

Như vậy với hành vi không hỗ trợ, giúp đỡ hành khách, không mặc đồng phục, không đeo thẻ tên của nhân viên phục vụ sẽ bị phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng.  Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 400.000 đồng đối với nhân viên phục vụ thực hiện hành vi: Thu tiền vé nhưng không trao vé cho hành khách; thu tiền vé cao hơn quy định. Hành vi sang nhượng hành khách dọc đường cho xe khác mà không được hành khách đồng ý; đe dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; bắt ép hành khách sử dụng dịch vụ ngoài ý muốm hoặc Xuống khách để trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi hành hung hành khách.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Nguyễn Trường An
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Vi phạm hợp đồng đặt cọc thí xử lý như thế nào ?

Hỏi: Xin chào các Luật sư. Tôi xin có câu hỏi các Luật sư, tôi có mua 1 mảnh đất, 2 bên có làm giấy đặt cọc là 40triệu, và cam kết là nếu tôi không mua thì tôi mất 40 triệu, nếu bên bán không bán thì phải trả lại tôi số tiền là 80triệu (trong giấy đặt cọc không chữ ký của bà vợ) nhưng sau đó bên bán không bán nữa, với lí do là vợ con không đồng ý. Nhưng khi đến tòa án thì tòa án nói là không đủ căn cứ phạt cọc vì không có hợp đồng mua bán đất và bà vợ không ký nên hợp đồng đặt cọc là vô hiệu lực. Vậy tôi xin hỏi các Luật sư, tôi có đủ căn cứ để phạt cọc bên bán không? Trân trọng cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự năm 2015.

  1. Nội dung tư vấn:

Theo như thông tin bạn nêu trên thì bạn cần nắm rõ một số nội dung sau để giải quyết vấn đề:

Thứ nhất, khái niệm đặt cọc theo quy định của pháp luật dân sự (Bộ luật dân sự năm 2015)

Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.

Theo quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng đặt cọc thì khi tiến hành đặt cọc thì một bên sẽ giao cho bên kia một khoản tiền…. để đảm bảo việc giao kết và thực hiện hợp đồng chính. Việc ký kết hợp đồng đặt cọc chỉ mang tính chất giao ước giữa hai bên để ký kết, thực hiện hợp đồng chính, chủ thể ký kết hợp đồng đặt cọc chỉ cần đảm bảo các yếu tố sau:

“Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

  1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
  2. a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
  3. b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
  4. c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
  5. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”

Chủ thể tham gia ký kết phải đảm bảo có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự  (không bị mắc các bệnh tâm thần, bệnh khác mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, không nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khách bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự bị hạn chế quyền thưc hiện các giao dịch…..) phải đảm bảo việc tự nguyện ký kết hợp đồng. Việc ký kết hợp đồng đặt cọc chỉ để các bên đảm bảo việc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ở đây nếu người chồng hoàn toàn đảm bảo năng lực ký kết hợp đồng thì người chồng vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm theo nội dung hợp đồng đặt cọc, trong hợp đồng này chưa có việc chuyển dịch quyền sử dụng đất nên người chồng hoàn toàn có đủ thẩm quyền ký kết. Chỉ đến khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì hợp đồng đó mới cần chữ ký hoặc văn bản ủy quyền của người vợ (đảm bảo hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng).

Còn đối với hợp đồng đặt cọc việc vợ của người đó có ký hay không sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng đặt cọc có nghĩa là ở đây hợp đồng đặt cọc vẫn có hiệu lực. Trong trường hợp của bạn, bạn có quyền kháng cáo lên tòa án nhân dân cấp tỉnh để yêu cầu xét xử lại vụ việc.

Thứ hai, hình thức phạt cọc theo quy định của pháp luật dân sự và theo hợp đồng của bạn:( khoản 2 Điều 328 BLDS 2015)

Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Ngay cả trong trường hợp bạn không có thỏa thuận vấn đề này trong hợp đồng thì pháp luật dân sự cũng quy định rất rõ về vấn đề này để bạn áp dụng. Trên cơ sở quy định của pháp luật thì quyền lợi của bạn hoàn toàn có thể đảm bảo trong trường hợp này nếu bạn có đủ căn cứ về việc phía bên kia không bán mảnh đất nữa và từ chối việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng đặt cọc.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tư vấn vễ xử phạt vi phạm chậm tiến độ trong thực hiện nghĩa vụ hợp đồng?

Luật Hiệp Thành tư vấn quy định về thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.

Xin chào luật sư, hiện nay tôi có một thắc mắc liên quan đến hợp đồng giữa bên tôi và bên thi công, cụ thể là tháng 9 năm 2017 chúng tôi giao kết một hợp đồng làm đường, nhưng đến nay vẫn chưa làm xong, chậm tiến độ so với giao kết là 60 ngày, đã được ghi rõ trong hợp đồng, vậy mong luật sư tư vấn giúp tôi hướng giải quyết, tôi xin cảm ơn?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý: 

Luật Xây dựng năm số 50/2014/QH13 Được quốc hội khoá 13 thông qua ngày 18 tháng 06 năm 2014.

  1. Luật sư tư vấn:

Thứ nhất, Công trình thi công làm đường giao thông cũng là công trình xây dựng 

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

  1. Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình dân dụng, công trình công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công trình hạ tầng kỹ thuật và công trình khác.”

Thứ hai, Việc giải quyết các vấn đề về vi phạm hợp đồng xây dựng như sau:

Theo quy định tại Điều 146, Luật Xây Dựng 2014 về thưởng, phạt hợp đồng xây dựng, bồi thường thiệt hại do vi phạm và giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng

Điều 146. Thưởng, phạt hợp đồng xây dựng, bồi thường thiệt hại do vi phạm và giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng

  1. Thưởng, phạt hợp đồng xây dựng phải được các bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng.
  2. Đối với công trình xây dựng sử dụng vốn nhà nước, mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Ngoài mức phạt theo thỏa thuận, bên vi phạm hợp đồng còn phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, bên thứ ba (nếu có) theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan khác.
  3. Bên nhận thầu phải bồi thường thiệt hại cho bên giao thầu trong các trường hợp sau:
  4. a) Chất lượng công việc không bảo đảm với thỏa thuận trong hợp đồng hoặc kéo dài thời hạn hoàn thành do lỗi của bên nhận thầu gây ra;
  5. b) Do nguyên nhân của bên nhận thầu dẫn tới gây thiệt hại cho người và tài sản trong thời hạn bảo hành.
  6. Bên giao thầu phải bồi thường cho bên nhận thầu trong các trường hợp sau:
  7. a) Do nguyên nhân của bên giao thầu dẫn tới công việc theo hợp đồng bị gián đoạn, thực hiện chậm tiến độ, gặp rủi ro, điều phối máy, thiết bị, vật liệu và cấu kiện tồn kho cho bên nhận thầu;
  8. b) Bên giao thầu cung cấp tài liệu, điều kiện cần thiết cho công việc không đúng với các thỏa thuận trong hợp đồng làm cho bên nhận thầu phải thi công lại, tạm dừng hoặc sửa đổi công việc;
  9. c) Trường hợp trong hợp đồng xây dựng quy định bên giao thầu cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị, các yêu cầu khác mà cung cấp không đúng thời gian và yêu cầu theo quy định;
  10. d) Bên giao thầu chậm thanh toán theo thỏa thuận trong hợp đồng.
  11. Trường hợp một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hoặc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng không phù hợp với quy định thì sau khi thực hiện nghĩa vụ hoặc áp dụng biện pháp sửa chữa còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu bên kia còn bị những thiệt hại khác, mức bồi thường thiệt hại phải tương đương với mức tổn thất của bên kia.
  12. Trường hợp một bên vi phạm hợp đồng do nguyên nhân của bên thứ ba, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm vi phạm hợp đồng trước bên kia. Tranh chấp giữa bên vi phạm với bên thứ ba được giải quyết theo quy định của pháp luật.
  13. Trường hợp hành vi vi phạm hợp đồng của một bên xâm hại tới thân thể, quyền lợi, tài sản của bên kia, bên bị tổn hại có quyền yêu cầu bên kia gánh chịu trách nhiệm vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận trong hợp đồng và quy định của pháp luật có liên quan.
  14. Nguyên tắc và trình tự giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng được quy định như sau:
  15. a) Tôn trọng các thỏa thuận hợp đồng và các cam kết trong quá trình thực hiện hợp đồng, bảo đảm bình đẳng và hợp tác;
  16. b) Các bên hợp đồng có trách nhiệm tự thương lượng giải quyết tranh chấp. Trường hợp các bên hợp đồng không tự thương lượng được thì tranh chấp được giải quyết thông qua hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án theo quy định của pháp luật.”

Như vậy:

+ Đối với công trình từ nguồn vốn nhà nước thì mức phạt không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm

+ Dựa trên thương lượng giữa các bên. Trường hợp các bên hợp đồng không tự thương lượng được thì tranh chấp được giải quyết thông qua hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án theo quy định của pháp luật.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Xử lý vi phạm đối với hành vi lấn chiếm vỉa hè

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về Xử lý hành chính đối với hành vi lấn chiếm vỉa hè.

Chào luật sư: Vợ tôi bán hàng rong, mặt hàng vợ tôi bán là vỏ chăn, vỏ gối, trong một lần bán hàng thì vợ tôi bị công an phường tịch thu hàng hóa nhưng không tiến hành lập biên bản, khi lên phường xin lại thì bị phạt 2 triệu đồng mong Luật sư giải đáp giúp tôi tôi xin cảm ơn.

Luật sư tư vấn:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Luật Giao thông đường bộ năm 2008

– Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 Luật số: 15/2012/QH13 Được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012.

– Nghị định 46/2016/NĐ-CP Nghị định của Chính phủ ngày 26 tháng 5 năm 2016

– Nghị định 81/2013/NĐ-CP Nghị định của Chính Phủ ngày 19 tháng 07 năm 2013

  1. Luật sư tư vấn:

Thứ nhất, căn cứ vào Điều 36 Luật giao thông đường bộ năm 2008 về mục đích sử dụng lòng đường, hè phố và các hoạt động khác trên đường phố như sau:

“1. Lòng đường và hè phố chỉ được sử dụng cho mục đích giao thông.

  1. Các hoạt động khác trên đường phố phải thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật này, trường hợp đặc biệt, việc sử dụng tạm thời một phần lòng đường, hè phố vào mục đích khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng không được làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn giao thông.
  2. Không được thực hiện các hành vi sau đây:
  3. a) Các hành vi quy định tại khoản 2 Điều 35 của Luật này;”

Các trường hợp bị nghiêm cấm về sử dụng lòng đường, hè phố được quy định tại khoản Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008:

“3. Sử dụng lòng đường, lề đường, hè phố trái phép”

Và điểm a khoản 2 Điều 35 Luật Giao thông đường bộ

“2. Không được thực hiện các hành vi sau đây:

  1. a) Họp chợ, mua, bán hàng hóa trên đường bộ;”

Như vậy, hành vi bán hàng rong của vợ anh đã vi phạm quy định về Luật Giao thông đường bộ, như vậy công an phường tịch thu hàng hóa của vợ anh là đúng quy định của pháp luật. Về mức xử phạt hành chính trong trường hợp của vợ anh được quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP như sau:

“1. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với cá nhân, từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng đối với tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

  1. a) Bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng, trừ các hành vi vi phạm quy định tại Điểm c Khoản 2, Điểm b Khoản 4, Điểm e Khoản 5 Điều này;

……

  1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:
  2. a) Dựng rạp, lều quán, cổng ra vào, tường rào các loại, công trình tạm thời khác trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ, trừ các hành vi vi phạm quy định tại Điểm đ Khoản 5, Điểm a Khoản 8 Điều này;
  3. b) Sử dụng trái phép lòng đường đô thị, hè phố để: Họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa; sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; đặt, treo biển hiệu, biển quảng cáo; xây, đặt bục bệ; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt động khác gây cản trở giao thông, trừ các hành vi vi phạm quy định tại Điểm d, Điểm đ, Điểm e, Điểm g Khoản 5; Khoản 6; Điểm a Khoản 7 Điều này;
  4. c) Chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố dưới 05 m2 làm nơi trông, giữ xe;
  5. d) Chiếm dụng phần đường xe chạy hoặc lề đường của đường ngoài đô thị dưới 20 m2 làm nơi trông, giữ xe.”

Như vậy, nếu vợ của anh chỉ bán hàng háo nhỏ lẻ trên vỉa hè thì sẽ áp dụng các mức phạt như sau: cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Theo như thông tin anh cung cấp, công an xã yêu cầu vợ anh nộp phạt 2 triệu đồng đối với hành vi bán hàng rong trên vỉa hè là không đúng với quy định của pháp luật.

Thứ hai, về việc cảnh sát thu giữ hàng háo của vợ anh mà không lập biên bản hay quyết định. Đối với trường hợp này, khoản 1 Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 nếu rõ việc tạm giữ tang vật phương tiện vi phạm chỉ được thực hiện “trong trường hợp thật cần thiết”, bao gồm: Nếu không tạm giữ thì không có cơ sở xử phạt hoặc nếu không tạm giữ thì tiếp tục gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Để thu giữ tang vật, phương tiện vi phạm thì phải lập biên bản, trong biên bản phải ghi rõ những thông tin sau: tên, số lượng, chủng loại, tình trạng của tang vật, phương tiện bị tạm giữ, phải có chữ ký của người ra quyết định tạm giữ, giao cho người vi phạm 01 bản. Đồng thời phải ban hành quyết định tạm giữ theo mẫu 14 ban hành kèm theo Nghị định 81/2013/NĐ-CP.

Đối với điều này, Khoản 9 Điều 125 còn đặc biệt nhấn mạnh:

“Mọi trường hợp tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề phải được lập thành biên bản”.

Như vậy việc công an phường thu giữ hàng hóa của vợ anh mà không lập biên bản đã vi phạm pháp luật.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Không tự nguyện thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính thì giải quyết thế nào?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Trường hợp đơn vị bi xử lý vi phạm hành chính, đã có quyết định xử lý vi phạm hành chính từ năm 2015 nhưng hiện nay vẫn chưa thi hành quyết định xử phạt hành chính thì giải quyết thế nào?

Câu hỏi khách hàng:

Vào năm 2015 đơn vị em bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phân bón mức phạt là 100.000.000đ, và đã bị tạm giữ 40 tấn phân bón không đạt tiêu chuẩn và một số máy móc dùng để sản xuất phân bón. Quyết định xử phạt ghi rõ tạm giữ phân bón, máy móc để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Nhưng đơn vị em đã nhận Quyết định phạt vi phạm hành chính nhưng đến này không chấp hành quyết định xử phạt. Em hỏi: Căn cứ các quy định của pháp luật thì các cơ quan Nhà nước xử lý trong trường hợp này như thế nào?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định Điều 73 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, cá nhân, tổ chức bị xử phạt hành chính phải có nghĩa  vụ thi hành hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể:

“Điều 73. Thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

  1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính; trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó.

Trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 15 của Luật này. Việc khiếu nại, khởi kiện được giải quyết theo quy định của pháp luật.

  1. Người có thẩm quyền xử phạt đã ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quyết định xử phạt của cá nhân, tổ chức bị xử phạt và thông báo kết quả thi hành xong quyết định cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính của Bộ Tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương.”

Do đó, trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với đơn vị bạn với mức xử phạt là 100.000.000 đồng cùng biện pháp khắc phục hậu quả thì đơn vị bạn có trách nhiệm thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính này. Trường hợp đơn vị bạn không tự nguyện chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế sẽ thực hiện cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt theo quy định tại Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Cụ thể:

“Điều 86. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

  1. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt được áp dụng trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt theo quy định tại Điều 73 của Luật này.
  2. Các biện pháp cưỡng chế bao gồm:
  3. a) Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm;
  4. b) Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá;
  5. c) Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản.
  6. d) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này.”

Tuy nhiên, quyết định xử phạt hành chính được ban hành từ năm 2015. Vì vậy, nếu hiện nay cơ quan có thẩm quyền chưa thi hành quyết định xử phạt hành chính đó thì sẽ không được thi hành quyết định nữa do đã quá thời hiệu thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012

“Điều 74. Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

  1. Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội.
  2. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn”

Trường hợp quyết định xử lý hành chính đối với đơn vị bạn có hành thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Khởi kiện chủ thầu xây dựng vi phạm nghĩa vụ quy định thế nào?

Khi chủ thầu xây dựng vi phạm nghĩa vụ thì sẽ giải quyết như thế nào? Dưới đây, Luật Hiệp Thành có một số tư vấn pháp lý liên quan đến vấn đề này như sau:

Hỏi: Kính chào Luật sư. Tôi mong luật sư tư vấn cho tôi vấn đề sau: Tôi có xây căn nhà cấp 4 khoảng 300 triệu đồng. Tôi đã gửi cho thầu xây nhà tổng cộng 250 triệu đồng nhưng mới xây được khoảng một nửa thì chủ thầu không tiếp tục xây mà để im đó 4 tháng nay. Vì tin tưởng nên tôi đã không làm hợp đồng với thầu xây nhà nhưng còn giữ giấy chuyển tiền qua tài khoản và một đoạn ghi âm khi nói chuyện chủ thầu có nói đã nhận 250 triệu của tôi. Vậy xin hỏi tôi có thể nhờ pháp luật để đòi lại tài sản và tố cáo chủ thầu không? Và chủ thầu sẽ bị xử phạt như thế nào? Xin cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Căn cứ pháp lý

Bộ Luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015.

  1. Luật sư tư vấn

Căn cứ theo quy định tại Điều 358 Bộ luật Dân sự năm 2015 về trách nhiệm do không thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc:

1. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý, bồi thường thiệt hại.

  1. Khi bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại.”

Trường hợp của bạn, bên chủ thầu đã nhận tiền và cam kết thực hiện công việc theo thỏa thuận, cụ thể ở đây là xây nhà. Trong trường hợp sau khi nhận tiền, bên chủ thầu không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì anh/chị có thể giao cho người khác tiếp tục thực hiện công việc đó và yêu cầu bên chủ thầu thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại (nếu có). Trường hợp nếu không thỏa thuận được với chủ thầu thì anh/chị có thể khởi kiện ra Tòa án kèm theo các giấy tờ, chứng cứ chứng minh để yêu cầu giải quyết.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế?

Câu hỏi khách hàng:

Thưa Luật sư, tôi có mở quan xoa bóp, bấm huyệt. Ngày 12/04/2019 cơ sở kinh doanh của tôi bị đoàn kiểm tra của công an huyện xuống kiểm tra. Cơ sở của tôi bị lập biên bản vi phạm hành chính về lỗi Không có tủ thuốc cấp cứu theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 32 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP.

Ngày 22/04/2019 tôi nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt là 2.500.000 đồng do bên Công an Huyện gửi về. Tôi muốn hỏi luật sư về việc các anh công an huyện lập biên bản và xử phạt tôi như vậy có đúng hay không? Vì theo tôi việc xử phạt vi phạm hành chính về y tế phải do sở y tế xử phạt chứ không phải do cơ quan công an xử phạt.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012;

– Nghị định số 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Về nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính nói chung, Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính có quy định như sau:

“Điều 3. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính

  1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
  2. a) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
  3. b) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;”

Xét về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, theo quy định tại khoản 1 Điều 94 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, người có thẩm quyền xử phạt sẽ có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính.

Chương 3 Nghị định 176/2013/NĐ-CP có quy định về người có thẩm quyền xử phạt tiền đối với hành vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế gồm có: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; Thanh tra viên, Chánh Thanh tra Sở Y tế và Chi Cục trưởng Chi cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình thuộc Sở Y tế, Chánh Thanh tra Bộ và Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình, Cục trưởng Cục Quản lý dược, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp bộ; Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp sở, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; Kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ, Đội trưởng Đội Quản lý thị trường, Chi Cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương, Trưởng phòng chống buôn lậu, Trưởng phòng chống hàng giả, Trưởng phòng kiểm soát chất lượng hàng hóa thuộc Cục Quản lý thị trường, Cục trưởng Cục Quản lý thị trường, Chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ; Trưởng công an cấp xã, huyện; Giám đốc công an tỉnh,…

Theo quy định trên, lực lượng công an nhân dân cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, phạm vi xử phạt cụ thể được quy định tại Điều 92 như sau:

“4. Trưởng Công an cấp huyện, Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ có quyền:

  1. a) Phạt cảnh cáo;
  2. b) Phạt tiền đến 6.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính về dân số và đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính về phòng, chống tác hại của thuốc lá;”

Đối chiếu với quy định trên, lực lượng công an nhân dân có thẩm quyền xử phạt vi phạm về hành chính trong lĩnh vự y tế tuy nhiên, chỉ giới hạn ở việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm về: Chính sách dân số và vi phạm hành chính về phòng, chống tác hại của thuốc lá. Trong khi đó, hành vi vi phạm của anh là vi phạm quy định về điều kiện hành nghề xoa bóp thuộc mục hai – Hành vi vi phạm hành chính về khám, chữa bệnh. Và theo chương 3, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khám chữa bệnh là của Ủy ban nhân dân các cấp, Thanh tra y tế và Quản lý thị trường.

Do vậy, việc công an không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng lại lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về khám chữa bệnh, thậm chí ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này là không đúng thẩm quyền.

Đối với việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bạn, bạn có thể thực hiện việc khiếu nại theo quy định lên chính thủ trưởng đơn vị của người ban hành ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó. Nếu quá thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định mà họ không giải quyết hoặc giải quyết không đúng thì bạn có thể làm đơn khiếu nại lên người có thẩm quyền cao hơn để yêu cầu giải quyết.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế là bao lâu ? Hết thời hạn có được phạt nữa không ?

Hỏi: Kính thưa công ty Luật Hiệp Thành, tôi muốn hỏi về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế hiện nay là bao lâu? Nếu hết thời hạn này thì hành vi vi phạm có bị phạt nữa không ? Xin cảm ơn sự tư vấn của công ty !

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Căn cứ pháp lý:

Thông tư số 166/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính Quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính về thuế

  1. Nội dung tư vấn: 

Theo điều 4 Thông tư số 166/2013/TT-BTC quy định hời hiệu xử phạt, thời hạn truy thu thuế như sau :

          “Điều 4. Thời hiệu xử phạt, thời hạn truy thu thuế và thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế

  1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế
  2. a) Đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế thì thời hiệu xử phạt là 02 năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện đến ngày ra quyết định xử phạt. Ngày thực hiện hành vi vi phạm hành chính về thủ tục thuế là ngày kế tiếp ngày kết thúc thời hạn phải thực hiện thủ tục về thuế theo quy định của Luật quản lý thuế.

Đối với trường hợp làm thủ tục thuế bằng điện tử thì ngày thực hiện hành vi vi phạm hành chính về thuế là ngày kế tiếp ngày kết thúc thời hạn làm thủ tục thuế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.

  1. b) Đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, giảm; hành vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì thời hiệu xử phạt là 05 năm,kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm đến ngày ra quyết định xử phạt. Ngày thực hiện hành vi vi phạm là ngày tiếp theo ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế mà người nộp thuế thực hiện hành vi vi phạm.

          Đối với các trường hợp theo quy định của pháp luật cơ quan thuế phải ra quyết định hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế thì thời điểm xác định hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, giảm, hành vi trốn thuế là ngày tiếp theo ngày cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.

          Trường hợp kỳ tính thuế có hành vi vi phạm nếu được gia hạn nộp thuế thì thời hiệu xử phạt tính từ ngày kế tiếp ngày được gia hạn nộp hồ sơ khai thuế đến ngày ra quyết định xử lý.

  1. c) Đối với trường hợp hồ sơ do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về thuế để xử lý theo quy định tại Điều 25 Thông tư này thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính áp dụng theo quy định tại Điểm a, b Khoản 1 Điều này. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, xem xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
  2. d) Trong thời hiệu quy định tại Điểm a, b, c Khoản này mà người nộp thuế cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu tại Điểm a, b, c Khoản 1 Điều này mà thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế được tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.

          Ngày chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt là ngày người vi phạm tự giác đến cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt trình báo và nhận thực hiện các hình thức xử phạt của người có thẩm quyền xử phạt. Người có thẩm quyền phải lập biên bản ghi nhận việc này và lưu 01 bản vào hồ sơ vi phạm, 01 bản giao cho người vi phạm.

  1. Thời hạn truy thu thuế

          Quá thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế thì người nộp thuế không bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận, tiền chậm nộp tiền thuế vào ngân sách nhà nước trong thời hạn 10 năm trở về trước, kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm.

          Trường hợp, người nộp thuế không đăng ký thuế thì phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận, tiền chậm nộp tiền thuế cho toàn bộ thời gian trở về trước, kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm. Ngày phát hiện hành vi vi phạm hành chính về thuế là ngày lập biên bản vi phạm hành chính về thuế.

  1. Thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế

          Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính thuế theo hình thức phạt tiền (là ngày thực hiện xong các nghĩa vụ, yêu cầu ghi trong quyết định xử phạt hoặc từ ngày quyết định xử phạt được cưỡng chế thi hành) hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đó.”

Như vậy, về thời hạn xử phạt vi phạm hành chính về thuế sẽ có sự khác nhau giữa các hành vi cụ thể như trên. Nếu quá thời hạn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm đó thì người nộp thuế sẽ không bị xử phạt nữa nhưng sẽ vẫn phải nộp đủ số tiền thiếu thuế, số tiền trốn thuế, gian lận thuế, chậm nộp thuế vào ngân sách nhà nước trong thời hạn 10 năm trở về trước kể từ ngày phát hiện vi phạm.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Nhận tiền của ATM online trả nhầmcó vi phạm pháp luật không

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về Chiếm giữ trái phép tài sản

Tôi có vay của tiền online số tiền là 3.000.000 vnđ, trong hồ sơ vay ghi tiền lãi suất 12. 00 % năm, tôi trả 3 tháng góp, một tháng 1.426.000 là xong, tôi thấy trong hồ sơ ghi lãi suất là 12% tôi không hiểu là góp vậy co đúng không

hôm đó nhân viên ngân hàng không hiểu sao chuyển nhầm tôi 3000000 nữa là 6000000 trên đó gọi điện thoại kêu tôi hoàn trả lại 3000000 nhưng tôi đã lấy ra dùng hết không tiền trả 3000000 dư đó, như vậy tôi co đi tù không. Việc ngân hàng yêu cầu tôi trả cả tiền vay 3000000 và 3000000 triệu dư, hồ sơ thì đã vay và giải ngân rồi,sao họ có quyền hủy hồ sơ bắt tôi phải hoàn tiền, nếu 3000000 đó tôi không hoàn lại tôi bị tội không.

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015

Nghị định 167/2013/NĐ-CP Nghị định của chính phủ ban hành ngày ngày 12 tháng 11 năm 2013

Nội dung tư vấn:

Bạn nên trả lại số tiền 3 triệu đồng cho ngân hàng

Với thông tin bạn trao đổi thì theo lời khuyên của chúng tôi thì bạn nên tự nguyện trả lại tài sản cho ngân hàng, do số tiền bạn vay là 3.000.000 đồng, có thể do nhầm lẫn hoặc sai sót về nghiệp vụ nên giao dịch viên tại ngân hàng chuyển cho bạn 2 lần 3 triệu. Vậy 3 triệu bạn vay là số tiền bạn sở hữu một cách hợp pháp. 3 Triệu bạn nhận chuyển khoản nhầm là chiếm hữu ngay tình nhưng không có căn cứ pháp luật do vậy nếu bạn biết được chủ sở hữu số tiền là ai thì bạn buộc phải trả lại cho người đó. Tuy đây là số tiền nhỏ nhưng nếu bạn cố tình không trả dẫn đến việc ngân hàng có đơn thư tố cáo bạn tại cơ quan công an thì bạn có thế bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này đồng thời vẫn phải trả lại số tiền ngân hàng chuyển nhầm cho bạn, cụ thể:

  1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

  1. e) Chiếm giữ trái phép tài sản của người khác.
  2. Hình thức xử phạt bổ sung:

Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm a, b, c Khoản 1; Điểm c, đ, e Khoản 2 Điều này.

Bạn không có nghĩa vụ phải trả ngay lập tức khoản vay bạn đã vay của ngân hàng

Theo thông tin bạn cung cấp, ngân hàng thu bạn mức lãi suất 12% trên 3 tháng, theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, mức này đã vượt quá mức lãi suất mà pháp luật bảo vệ:

“Điều 468. Lãi suất

  1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.”

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

Vậy trong trường hợp này ngân hàng chỉ được bảo vệ phần lãi suất tối đa bằng 5%/3 tháng, tuy nhiên với mức lãi suất nêu trên ngân hàng cũng chưa thuộc trường hợp phạm tội cho vay lãi nặng theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành do hai bên đã ký kết hợp đồng và thỏa thuận về phần lãi suất nên bạn vẫn phải tuân theo hợp đồng đã ký kết, bạn không bắt buộc phải trả lại ngay số tiền 3 triệu đồng đã vay này do bạn đã ký kết hợp đồng trả góp trong 3 tháng.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng