Trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Câu hỏi:

Anh N.T.H có gửi câu hỏi đến văn phòng Luật sư như sau:

Anh N.T.D bị truy tố về tội “Che dấu tội phạm”, anh Đ.L.T bị truy tố về tội “vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” gây hậu quả làm chết người. Tại phiên xét xử, Tòa án nhận thấy anh N.T.D phạm tội “Giết người” với vai trò đồng phạm và anh Đ.L.T phạm tội “Giết người” với vai trò người thực hành nhưng các tội danh này chưa được Viện kiểm sát truy tố tại cáo trạng.

Vậy, trong trường hợp này Tòa án có phải trả hồ sơ điều tra bổ sung không?

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
  • Bộ luật Hình sự năm 2015;
  • Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP về quy định việc phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung do Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng ban hành ngày 22 tháng 12 năm 2017;

     II. Nội dung

  1. Thẩm quyền xét xử hình sự theo cấp Tòa án
  • Thẩm quyền xét xử hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì thẩm quyền xét xử hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện như sau:

“Điều 268. Thẩm quyền xét xử của Tòa án

  1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm:

     a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;

     b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;

     c) Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình sự;

     d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…”

 

 

Tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“Điều 123. Tội giết người

  1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:…”

Như vậy, vụ án xét xử tội giết người không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện.

  1. Cơ sở để Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung

Tại Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP về quy định việc phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung do Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng ban hành thì trường hợp Tòa án nhận thấy cần bổ sung chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” thù Hội đồng xét xử phải ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

“Điều 3. Phối hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 245 và điểm a khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự

  1. Khi thiếu chứng cứ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

     e) Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì; mục đích, động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt;…”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án hình sự

Câu hỏi:

Xin chào Luật sư, luật sư tư vấn giúp tôi về các trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án hình sự?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc Phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

  1. Nội dung tư vấn:

Trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

“Điều 280. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung

  1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
  2. a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
  3. b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;
  4. c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
  5. d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

Đồng thời, các trường hợp nêu trên được hướng dẫn thực hiện tại Điều 5 và Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc Phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Ngoài ra, các trường hợp Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung bao gồm:

“Điều 5. Phối hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự

  1. Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
  2. a) Trường hợp thuộc điểm a khoản 1 Điều này nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy có thể xét xử bị can hoặc bị cáo về một hay nhiều tội tương ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị can hoặc bị cáo ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố;
  3. b) Đã có quyết định tách vụ án hoặc chưa có quyết định tách vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhưng có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 170, khoản 2 Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
  4. c) Đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ theo quy định tại Điều 284 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 6. Phối hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 245 và điểm d khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự

  1. Viện kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
  2. a) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng;
  3. b) Người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng khi thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì họ đã đủ 18 tuổi.”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Quyền phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự

Phản tố là quyền của bị đơn trong vụ án dân sự, thực chất việc phản tố của bị đơn là việc bị đơn khởi kiện ngược lại người đã kiện mình (tức là kiện ngược trở lại với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn), nhưng được xem xét, giải quyết cùng với đơn khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có yêu cầu chặt chẽ với nhau. Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn toàn không liên quan đến đơn khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn phải khởi kiện thành một vụ án dân sự mới. Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ phát sinh khi có việc nguyên đơn kiện bị đơn và Toà án có thẩm quyền thụ lý vụ việc đối với yêu cầu của nguyên đơn, sau đó bị đơn cũng cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm và có đơn yêu cầu toà án giải quyết những vấn đề có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn trong cùng một vụ án dân sự.

Tức là, khi bị khởi kiện trong một vụ án dân sự, bị đơn có quyền đưa ra ý kiến hoặc yêu cầu phản tố. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều bị đơn đã bỏ qua yêu cầu phản tố của mình do không biết mình có quyền này đã được quy định cụ thể trong luật hoặc không hiểu rõ những quyền của mình trong tố tụng dân sự. “Phản tố” là một thuật ngữ pháp lý có gốc từ tiếng Hán nên thường gây khó hiểu cho người mới tiếp cận, nhưng cơ bản có thể được hiểu đây là một quyền của người “bị tố” – người bị kiện hay chính là bị đơn đưa ra những yêu cầu “phản” lại với những “tố – yêu cầu của người khởi kiện”, “phản” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng có tính độc lập với yêu cầu khởi kiện nhưng sự đối lập không chỉ bao gồm việc loại trừ trực tiếp yêu cầu của nguyên đơn mà có thể theo hướng bù trừ nghĩa vụ được nêu trong yêu cầu của nguyên đơn. Thoạt nghe thì thấy rằng yêu cầu phản tố này có sự tương đồng với việc đưa ra ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện do các yêu cầu này đều liên hệ mật thiết với yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn, nhưng thực tế thì hai yêu cầu này lại hoàn toàn khác biệt về hệ quả pháp lý và mỗi bên trong vụ án đều phải hiểu rõ các quyền này để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Về chủ thể thực hiện quyền phản tố. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 200 BLTTDS, bị đơn được “Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị bù trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu”. Theo quy định này thì yêu cầu phản tố chỉ được thực hiện khi và chỉ khi bị đơn có yêu cầu đối với nguyên đơn. Trong trường hợp người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn tham gia tố tụng trong vụ án có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn thì Toà án giải quyết như thế nào. Giả sử khi nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án, bị đơn được xác định có yêu cầu phản tố đã uỷ quyền cho người khác theo đúng thủ tục để tham gia tố tụng tại Toà án và có toàn quyền thay mặt bị đơn quyết định các vấn đề có liên quan trong vụ án. Trong trường hợp này đã có rất nhiều Toà án chấp nhận yêu cầu phản tố của người đại diện theo ủy quyền nhưng cũng có những Toà án không chấp nhận vì cho rằng để thực hiện yêu cầu phản tố bị đơn phải là người trực tiếp yêu cầu. Người đại diện theo ủy quyền không có quyền yêu cầu phản tố vì họ không phải là bị đơn mà chỉ là người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn.

Về việc đưa ra ý kiến bằng văn bản của bị đơn với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đây là quyền, vì vậy bị đơn có thể thực hiện hoặc không thực hiện, tuy nhiên, pháp luật cũng đặt ra giới hạn việc thực hiện quyền này được tiến hành trong vòng 15 ngày kể từ khi bị đơn nhận được yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, trường hợp cần gia hạn thì được phép gia hạn nhưng không quá 15 ngày. Thực tế việc đưa ra ý kiến có thể được áp dụng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và bị đơn không có nghĩa vụ chứng minh cho những ý kiến của mình
Về việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Việc đưa ra yêu cầu phản tố được thực hiện theo thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, về bản chất đưa ra yêu cầu phản tố cũng giống như việc khởi kiện một vụ án, vì vậy vai trò của bị đơn lúc này cũng đã khác, không chỉ đơn thuần là bị đơn mà kiêm luôn quyền và nghĩa vụ của một nguyên đơn trong vụ án dân sự. Tuy nhiên, thế nào là một yêu cầu phản tố chính đáng và để được toà án chấp nhận thì tác giả sẽ đi sâu và tập trung phân tích dựa trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, về mặt nội dung, yêu cầu phản tố chỉ được chấp nhận khi thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
“a, Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
b, Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
c. Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn”.

Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể hơn về điều khoản này, nhưng chúng ta có thể tham khảo quy định tại Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Ở đây, trước hết yêu cầu phản tố phải là yêu cầu không cùng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc xác định thế nào là yêu cầu không cùng với yêu cầu của nguyên đơn thì thoạt nhiên nghe có vẻ trừu tượng nhưng ở đây tác giả đưa ra một ví dụ minh chứng cụ thể để bạn đọc dễ hình dung hơn “Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu về việc trả tiền theo hợp đồng mua bán, bị đơn đưa ra ý kiến là chỉ chi trả một phần hoặc không chấp nhận trả tiền phát sinh từ hợp đồng mua bán đó cho nguyên đơn thì đó không phải là yêu cầu phản tố mà chỉ được coi là ý kiến của bị đơn với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bởi yêu cầu của bị đơn cũng về nghĩa vụ trả tiền phát sinh từ một hợp đồng như của nguyên đơn. Nhưng nếu như yêu cầu của bị đơn là yêu cầu nguyên đơn trả tiền cho mình phát sinh từ hợp đồng mua bán khác thì có thể được coi là yêu cầu phản tố vì tuy là cùng một nghĩa vụ trả tiền nhưng nó lại phát sinh từ hợp đồng mua bán khác – có nghĩa là tính chất đã khác với yêu cầu của nguyên đơn – việc xác định cụ thể đó có phải là yêu cầu phản tố không thì còn phải căn cứ vào các yếu tố được tác giả tiếp tục phân tích ở dưới đây.

Tiếp theo, để xác định như thế nào là yêu cầu phản tố, thì yêu cầu đó phải thuộc một trong 3 trường hợp luật định: (1) Với trường hợp yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với nguyên đơn, thì trong Nghị quyết số 05/2012/NQ – HĐTPTANDTC đã đưa ra ví dụ sau: “Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả tiền thuê nhà còn nợ của năm 2005 là năm triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn A phải thanh toán cho mình tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng đất mà bị đơn đã nộp thay cho nguyên đơn là 3 triệu đồng. Trường hợp này, yêu cầu của bị đơn B được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn A”. Như vậy, nghĩa vụ bù trừ ở đây là nghĩa vụ trả tiền cụ thể số tiền bên B nợ tiền thuê nhà của bên A có thể được bù trừ với số tiền bên B đã bỏ ra sửa chữa căn nhà. (2) Với trường hợp yêu cầu phản tố dẫn đến việc loại trừ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, ví dụ: “A có chiếc xe ô tô thuộc sở hữu riêng đã bán cho C, nhưng nói với con (B là con của A) là cho C thuê mỗi tháng 5 triệu đồng. Sau đó A chết, B khởi kiện yêu cầu C phải thanh toán tiền thuê xe trong 1 năm qua là 60 triệu đồng. C có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu xe ô tô và có tranh chấp. Nếu Toà án chấp nhận yêu cầu phản tố của C thì dẫn đến việc không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của B đòi C thanh toán tiền thuê xe ô tô”.Trường hợp này, yêu cầu phản tố của C đã loại trừ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn B. (3) Yêu cầu phản tố được đưa ra nếu được giải quyết trong cùng một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh chóng hơn.

Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTPTANDTC đã đưa ra ví dụ sau: “Chị M khởi kiện yêu cầu anh N phải trợ cấp nuôi con là P mỗi tháng 300.000đ. Anh N có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án xác định P không phải là con ruột của mình”. Trường hợp này, yêu cầu của anh N không bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của chị M, cũng không làm triệt tiêu yêu cầu của chị M – Yêu cầu của chị M vẫn chính đáng nếu như  là con của anh N, tuy nhiên, việc giải quyết yêu cầu này sẽ dẫn tới kết luận cuối cùng về việc giải quyết yêu cầu của chị M. Trên thực tế, các yêu cầu của nguyên đơn có thể phức tạp hơn và việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn cũng có thể trên nhiều phương diện, có thể thuộc đồng thời 3 trường hợp trên hoặc chỉ thuộc một trường hợp và việc chấp nhận yêu cầu phản tố một phần cũng dựa trên quan điểm của Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ việc.

Thứ hai, về mặt hình thức, việc thực hiện quyền phản tố của bị đơn phải tuân thủ hình thức như khởi kiện của một vụ việc, có nghĩa là bị đơn phải soạn đơn phản tố bằng văn bản và gửi tới Toà án, sau đó bị đơn sẽ phải thực hiện nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí như nguyên đơn. Thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ được tính lại kể từ ngày bị đơn nộp tạm ứng án phí hoặc trong trường hợp bị đơn được miễn án phí thì tính từ ngày Toà án nhận được đơn phản tố. Bên cạnh những yếu tố về trình tự, thủ tục thì hậu quả pháp lý cũng thay đổi cơ bản nếu như bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố. Cụ thể, thay vì trước kia bị đơn không có nghĩa vụ chứng minh cho ý kiến của mình thì bây giờ bị đơn phải chủ động trong việc chứng minh yêu cầu phản tố của mình. Khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện, nếu bị đơn không đưa ra yêu cầu phản tố thì Thẩm phán sẽ đình chỉ giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, nếu như bị đơn đã đưa ra yêu cầu phản tố thì vai trò của các bên sẽ thay đổi, bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn và ngược lại, nguyên đơn lại trở thành bị đơn, vụ án vẫn tiếp tục được giải quyết.

Thứ ba, theo quan điểm của tác giả là có nên áp dụng thời hiệu khởi kiện cho yêu cầu phản tố hay không.

Thực tế một số Toà án ở một số địa phương đã đưa ra những quan điểm khác nhau về việc có hay không có việc áp dụng thời hiệu khởi kiện cho yêu cầu phản tố. Trên thực tế có hai luồng ý kiến khác nhau về việc có nên hay không nên áp dụng thời hiệu khởi kiện vào yêu cầu phản tố:

(1) Yêu cầu phản tố cũng được coi là yêu cầu khởi kiện nên cũng phải áp dụng thời hiệu khởi kiện giống như yêu cầu khởi kiện. Theo khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này”. Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn cũng được hiểu là chính là một yêu cầu khởi kiện, khi có phát sinh “yêu cầu phản tố” thì bị đơn cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như nguyên đơn. Nếu yêu cầu phản tố đã quá thời hiệu khởi kiện thì Toà án sẽ lấy đó làm căn cứ để không chấp nhận việc khởi kiện của bị đơn.  Khoản 1 Điều 146 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định: “nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí” thì ở đây bị đơn cũng phải nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố của mình. Bên cạnh đó, Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định “Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn”. Như vậy, yêu cầu phản tố cũng chính là yêu cầu khởi kiện nên yêu cầu này cũng phải được tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

(2) Yêu cầu phản tố không phải là yêu cầu khởi kiện mà chỉ được áp dụng các thủ tục của yêu cầu khởi kiện do có tính chất tương tự nên không được áp dụng thời hiệu khởi kiện. Khi vụ kiện được bắt đầu bằng việc khởi kiện của nguyên đơn, sau khi Toà án thụ lý, bị đơn phải tìm hiểu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là gì để từ đó chấp nhận hay có yêu cầu phản tố. Khoản 4 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố tại bất kỳ thời điểm nào trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải”. Như vậy, thời hiệu khởi kiện chỉ áp dụng đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chứ không áp dụng đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, ở đây có nghĩa là “đây là quyền không bị hạn chế về thời hiệu của bị đơn”.

Thực tế, trong tất cả các vụ kiện dân sự thì bị đơn luôn ở thế bị động, phụ thuộc vào các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn có đưa ra yêu cầu khởi kiện thì bị đơn mới biết mà có yêu cầu phản tố ngược trở lại với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hay nói cách khác, yêu cầu phản tố luôn luôn có sau yêu cầu khởi kiện, khi nào có yêu cầu khởi kiện thì lúc ấy mới phát sinh yêu cầu phản tố, quyền yêu cầu phản tố của bị đơn là dạng quyền “phát sinh” từ quyền khởi kiện của nguyên đơn.

Mặt khác, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện, có nghĩa đây là quy định dành cho nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện của mình trong một thời hạn nhất định. Tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, không có nội dung nào xác định bị đơn phải phản tố trong thời hiệu khởi kiện. Như vậy, trong khoảng thời gian từ khi Toà án thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố bất kỳ lúc nào.

Từ những phân tích trên có thể thấy, việc thực hiện quyền phản tố của bị đơn có sự tác động to lớn tới quá trình giải quyết vụ việc về mặt nội dung  và hình thức, Thực tế, bị đơn thường bỏ lỡ việc sử dụng quyền này do không biết, cụ thể về mặt nội dung với những người dân bình thường thì thường không biết cách trình bày yêu cầu của mình một cách rõ ràng mà chỉ lồng ghép cùng với các ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Về mặt thủ tục, thì người dân cũng không biết trình tự thủ tục như thế nào nếu đưa ra yêu cầu phản tố, thực tế thì các cán bộ Toà án lại không hướng dẫn cụ thể. Như vậy, pháp luật cần quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu hơn về quyền này, cũng như trách nhiệm của cán bộ toà án trong việc phổ biến quyền và nghĩa vụ của các bên, cũng như việc hướng dẫn các bên trong việc thực hiện quyền của mình để pháp luật đi vào cuộc sống và đảm bảo được chức năng bảo vệ công lý của mình; Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng nên sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự theo hướng có thời hạn được yêu cầu: “Cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến phản tố xác định” thì cũng cần bổ sung thêm khái niệm, hình thức phản tố trong văn bản hướng dẫn cụ thể, có như vậy sẽ dễ dàng hơn trong việc xác định thời hạn; Mặt khác, không nên đặt quy định tại Điều 200 trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 một cách độc lập mà phải đặt trong mối liên hệ với các quy định khác của Bộ luật Tố tụng dân sự và chế định uỷ quyền được quy định trong Bộ luật Dân sự. Khi tham gia tố tụng, đương sự được quyền uỷ quyền cho người khác đại diện thay mặt mình, từ đó căn cứ vào văn bản uỷ quyền để xác định quyền được thực hiện yêu cầu phản tố của chủ thể là người đại diện theo uỷ quyền.

Ths.Đoàn Thị Ngọc Hải

Quy định về miễn tạm ứng án phí, án phí, lệ phí tòa án

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về miễn tạm ứng án phí, án phí, lệ phí tòa án.

Chào Luật sư xin hỏi: Ngày 11/11/2018 tôi có kiện ông Dung ra TAND huyện B, tôi sinh tháng 1 năm 1957 thì đã là người cao tuổi chưa? xin hỏi luật sư tôi có đủ điều kiện được miễn án phí không và thủ tục thế nào? Cảm ơn luật sư!

Luật sư trả lời:

Chào anh, cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của anh đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

  1. Chuyên viên tư vấn:

Theo như thông tin anh đưa ra thì anh sinh tháng 1 năm 1957, như vậy đến nay anh 61 tuổi.

Căn cứ điều 2 luật người cao tuổi 2009 quy định:

“Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”.

Vì vậy với quy định tại điều 2 luật người cao tuổi 2009 kết luận được anh là người cao tuổi.

Theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

“Điều 12. Miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án

  1. Những trường hợp sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:
  2. a) Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật;
  3. b) Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự;
  4. c) Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
  5. d) Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín;

đ) Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ.

  1. Những trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này được miễn các khoản tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 4 của Nghị quyết này.
  2. Trường hợp các đương sự thỏa thuận một bên chịu toàn bộ án phí hoặc một phần số tiền án phí phải nộp mà bên chịu toàn bộ án phí hoặc một phần số tiền án phí phải nộp thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí thì Tòa án chỉ xem xét miễn án phí đối với phần mà người thuộc trường hợp được miễn phải chịu theo quy định, của Nghị quyết này. Phần án phí, lệ phí Tòa án mà người đó nhận nộp thay người khác thì không được miễn nộp”.

Căn cứ điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án  thì những đối tượng được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án có bao gồm cả người cao tuổi nên anh hoàn toàn có thể được miễn án phí tòa án.

Luật sư hướng dẫn anh làm đơn đề nghị được miễn án phí sơ thẩm, trong đơn anh nêu ra căn cứ để được miễn án phí sơ thẩm như giải đáp của luật sư ở trên.

———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Quy định của pháp luật về những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án.

Tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

“Điều 26. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

  1. Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
  2. Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
  3. Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
  4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 30 của Bộ luật này.
  5. Tranh chấp về thừa kế tài sản.
  6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
  7. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
  8. Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.
  9. Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
  10. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật về báo chí.
  11. Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
  12. Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  13. Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  14. Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.”

Như vậy những trường hợp quy định tại Điều 26 BLTTDS năm 2015 nêu trên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, còn những trường hợp khác, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Trên đây là một số nhận định của chúng tôi về những tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án. Nếu có vướng mắc về vấn đề pháp lý Quý khách vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Quy định về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa dân sự

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về việc nguyên đơn liên tục vắng mặt khi được Tòa án triệu tập?

Chào Luật sư xin hỏi: Tôi là nguyên đơn trong vụ án dân sự, xin hỏi luật sư nguyên đơn vắng mặt 02 lần khi được triệu tập đến phiên tòa thì có làm sao không? Cảm ơn luật sư!

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.

  1. Nội dung tư vấn:

– Theo quy định tại Điều 624 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

– Chủ thể có quyền lập di chúc

Người thuộc các trường hợp sau có quyền lập di chúc:

+ Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

– Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân người để lại tài sản cho người khác trước khi chết. Nếu đủ điều kiện để lập di chúc như trên thì người lập di chúc có thể chỉ định người thừa kế và phân định tài sản của mình mà không cần sự đồng ý của bất kỳ ai.

– Điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;

+ Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

– Về hình thức của di chúc: Di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng

– Hình thức của di chúc

+ Di chúc có thể được lập thành văn bản hoặc di chúc miệng.

+ Di chúc bằng văn bản bao gồm:

Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết tay và ký vào bản di chúc.

Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào di chúc trước mặt những người làm chứng, những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc

Di chúc bằng văn bản có công chứng;

Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

*Di chúc bằng văn bản phải bảo đảm các nội dung sau:

– Ngày, tháng, năm lập di chúc;

– Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

– Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

– Di sản để lại và nơi có di sản;

– Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

Lưu ý: Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

* Di chúc miệng

Di chúc miệng được lập trong trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Nếu sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc vẫn còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng sẽ mặc nhiên bị hủy bỏ (Điều 651 Bộ luật dân sự 2005). ———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Những khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tòa án

Tòa án và trọng tài thương mại đều là những hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Thủ tục của hai cơ quan này đều dựa trên những nguyên tắc chung như tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, đảm bảo sự độc lập của người tài phán. Tuy nhiên, cơ chế tố tụng của hai cơ quan này có những sự khác biệt cơ bản về tính chất pháp lý, thẩm quyền, điều kiện thụ lý, nguyên tắc xét xử…Cho đến nay thì hai phương thức hành nghề – xét xử và trọng tài – được gọi là những sự lựa chọn có thể thay thế trong một tình huống giải quyết tranh chấp. Cái ranh giới của sự pha trộn đó có khi gây ra sự nhầm lẫn và cũng cần được nhìn nhận rõ nét hơn cả về lý luận cũng như thực tiễn.

Khác nhau về thẩm quyền, pháp lý

Theo đó, giữa tòa án và trọng tài có sự khác biệt rõ về tính chất pháp lý. Tòa án là cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình tố tụng, tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự công cộng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh.

Trong khi các trung tâm trọng tài là các tổ chức phi chính phủ, mang tính chất xã hội, nghề nghiệp. Các trung tâm trọng tài không do Nhà nước quyết định thành lập, mà do các trọng tài viên thỏa thuận xin phép Nhà nước để được thành lập. Các trung tâm trọng tài không nằm trong cơ cấu thiết chế nào của bộ máy nhà nước và cũng không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước.

Trọng tài được thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh doanh một cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện, phù hợp với tâm lý của doanh nghiệp. Chính sự khác biệt cơ bản này làm nên sự khác biệt về tố tụng giữa hai cơ quan trên.

Về thẩm quyền theo vụ việc, tòa án có thẩm quyền rộng hơn (giải quyết hầu hết tất cả tranh chấp trong kinh doanh) so với trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài chỉ được xác lập khi có sự thỏa thuận của các bên trong tranh chấp.

Thẩm quyền theo lãnh thổ thì không phải vụ tranh chấp trong kinh doanh nào cũng được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được tòa án thụ lý giải quyết khi được chuyển đến tòa án có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại, ở cơ chế trọng tài, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết theo ý muốn và sự tín nhiệm của họ. Khi tranh chấp đã được các bên thỏa thuận đưa ra trung tâm trọng tài nào giải quyết thì trung tâm đó có quyền thụ lý tranh chấp.

Như vậy, về thẩm quyền vụ việc thì tòa án có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài, còn thẩm quyền lãnh thổ trong tố tụng trọng tài lại không được đặt ra.

7 khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tòa án - ảnh 2

7 khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tòa án - ảnh 3

Trọng tài chỉ xét xử một lần

Trung tâm trọng tài chỉ xét xử một lần đối với các tranh chấp kinh doanh, thương mại, phán quyết của trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo, kháng nghị. Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tòa án. Nó xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền định đoạt của các bên đương sự. Họ đã tự lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết định của người đó.

Đối với tố tụng tòa án thì có nhiều cấp xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, thậm chí còn bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.

Về điều kiện khởi kiện, do xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện nên các bên đương sự hoàn toàn có thể lựa chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù hợp. Lựa chọn này trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể, không có sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào.

Chính vì vậy, khi có tranh chấp xảy ra, các bên chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra trung tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa thuận trước về việc này. Điều này có nghĩa là sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện quyết định quyền khởi kiện của đương sự. Đây là điều mà trong tố tụng tòa án không có.

Trọng tài không có nguyên tắc xét xử tập thể như tòa án. Việc chọn một hay nhiều trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình là quyền của các bên tranh chấp, pháp luật không can thiệp. Pháp luật chỉ can thiệp khi các bên không thỏa thuận được về cách thức lựa chọn trọng tài viên.

Ví dụ, khi các bên không nhất trí chọn một trọng tài viên để giải quyết tranh chấp thì mỗi bên tranh chấp sẽ chọn cho mình một trọng tài viên. Hai người được chọn sẽ chọn một người thứ ba làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Trường hợp hai trọng tài không chọn được người thứ ba đó thì quyền quyết định thuộc về chủ tịch trung tâm trọng tài.

Công khai hay giữ kín thông tin?

Cũng theo LS Hậu, việc xét xử của tòa án không chỉ có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự mà còn có ý nghĩa giáo dục việc tuân theo pháp luật. Do vậy, hầu hết các phiên tòa đều được tiến hành công khai, các bản án thường được công bố rộng rãi trước công chúng. Điều này dẫn đến khó khăn khi bảo vệ các thông tin bí mật kinh doanh. Trong khi tố tụng trọng tài thì mọi tình tiết và kết quả không được công bố (nếu không có sự chấp thuận của các bên). Xuất phát từ nhu cầu phải bảo vệ bí mật nghề nghiệp kinh doanh mà pháp luật không buộc các phiên họp xét xử trọng tài phải công khai. Quyết định của trọng tài cũng sẽ được giữ bí mật, không công khai nếu các bên không có yêu cầu. Nguyên tắc này hoàn toàn khác với nguyên tắc xét xử công khai của tòa án.

Tố tụng trọng tài là một thủ tục hết sức mềm dẻo và linh hoạt. Các thủ tục đơn giản, thuận tiện, đảm bảo thời cơ kinh doanh của các bên tranh chấp.

Ví dụ, các bên tranh chấp có thể chọn tổ chức trọng tài, trọng tài viên mà mình tin tưởng để giải quyết vụ kiện, chọn địa điểm để tiến hành trọng tài, thậm chí các bên có thể thỏa thuận với nhau lập ra quy tắc tố tụng áp dụng cho vụ kiện.

Trong khi tòa án bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng nghiêm ngặt, phải tuân thủ các yêu cầu nhiều khi mang tính nghi thức, luật áp dụng được coi là bất di bất dịch.

Quy định của pháp luật đối với việc ngân hàng khởi kiện đòi tiền

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về nghĩa vụ trả nợ.

Chào luật sư tôi có vay ngân hàng 15 triệu trả góp trong 24 tháng ra 21 triệu – tôi trả góp được 5 tháng rồi ngưng không trả nữa – rồi tôi dọn nhà đến tỉnh khác thay số điện thoại nên ngân hàng không liên lạc được với tôi – qua 1 thời gian có người của ngân hàng đem giấy thông báo đến nhà cũ của tôi – trong giấy nói trong 15 ngày không đến ngân hàng trả nợ thì ngân hàng sẽ kiện ra tòa – với tội danh chiếm đoạt tài sản – vậy cho tui hỏi nếu tui ko xuất hiện mà trốn luôn thì tòa có xử không – nhà cũ của tui có bị phát mãi để trừ nợ không – nếu bị phát mãi thì phần tiền con dư có trả lại cho tôi không – tui có bị truy nã không – phiền luật sư tư vấn giúp tui cám ơn người.

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.

Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2015.

Luật sửa đổi Bộ luật hình sự số 12/2017/QH14 Được Quốc hội khoá 14 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017.

  1. Chuyên viên tư vấn:

Theo thông tin bạn nêu ra thì bạn cần xác định rõ một số nội dung sau để giải quyết vấn đề của mình:

Bạn nêu rằng bạn có vay 15 triệu trong 2 năm đến thời hạn cả gốc và lãi là 21 triệu, bạn mới trả được 5 tháng sau đó thì ngưng không trả nữa, nhưng bạn chưa nói rõ là bạn đã quá thời hạn 24 tháng hay chưa, nếu bên ngân hàng muốn kiện bạn theo hình thức kiện ra tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thì phải quá thời hạn của hợp đồng vay hoặc trong hạn nếu bạn nợ quá số tháng đã thỏa thuận với phía bên ngân hàng.

“Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

  1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiềnkhi đến hạn;nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.

Điều 280. Thực hiện nghĩa vụ trả tiền

  1. Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận.
  2. Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Nếu như nợ vẫn đang trong hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng thì họ không thể khởi kiện bạn ra tòa án để yêu cầu bạn phải trả nợ, mà chỉ gửi thông báo đến cho bạn để thúc giục bạn trả nợ, còn nếu trong hợp đồng vay ban đầu có thỏa thuận về việc chẳng hạn nếu quá thời hạn 3 tháng mà bạn không trả được đồng nào cho phía bên họ thì họ có thể áp dụng các biện pháp xử lý như khởi kiện ra tòa án, đương nhiên trường hơp này họ có thể làm vậy, nhưng chỉ khởi kiện ra tòa án dân sự.

Nếu bạn vừa nợ quá hạn, vừa dọn đến tỉnh khác, mà bạn đã thế chấp nhà cho phía ngân hàng kèm theo văn bản ủy quyền xử lý tài sản thì kể bạn không có mặt ở địa phương theo sự thỏa thuận ban đầu của hai bên thì bên ngân hàng họ vẩn có quyền xử lý tài sản của bạn nếu có các giấy tờ trên và thanh toán cho bạn khoản tiền còn thừa, còn nếu không có giấy ủy quyền thì bên ngân hàng sẽ phải tiến hành khởi kiện ra tòa án để yêu cầu xử lý tài sản.

Còn bạn đã nợ quá hạn lại không có thế chấp tài sản, bạn chuyển đi khỏi nơi cư trú mà không có bất kỳ một thông báo gì với bên ngân hàng, cắt đứt mọi liên lạc với phía ngân hàng, cũng không xin thông báo gia hạn trả nợ gì cả thì bạn sẽ có dấu hiệu của các tội sau, nếu có hồ sơ đầy đủ các chứng cứ tài liệu liên quan thì cơ quan công an có thể tiến hành khởi tố với bạn:

Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
  2. a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
  3. b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

Như vậy để tránh việc phải gánh chịu trách nhiệm hình sự thì bạn nên nêu rõ hoàn cảnh khó khăn về điều kiện kinh tế với phía ngân hàng và xin gia hạn trả nợ, và tháng nào bạn cũng nên gửi tiền cho phía ngân hàng dù ít dù nhiều bạn vẫn sẽ phải gửi.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Những người tham gia tố tụng trong vụ án Hình sự

Trường hợp nào tham gia tố tụng trong một vụ án Hình sự? Sau đây, Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về những người tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự.

Câu hỏi khách hàng: Xin chào Luật sư tôi là một phiên dịch viên hiện nay có một người phạm mời tôi làm phiên dịch trong một vụ án hình sự, Vậy Luật sư có thể cho hỏi là tôi có thể tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự đó hay không?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Căn cứ pháp lý

Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

  1. Luật sư tư vấn

Tại Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có quy định về những người tham gia tố tụng như sau:

Điều 55. Người tham gia tố tụng

  1. Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
  2. Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
  3. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
  4. Người bị bắt.
  5. Người bị tạm giữ.
  6. 6. Bị can.
  7. 7. Bị cáo.
  8. 8. Bị hại.
  9. Nguyên đơn dân sự.
  10. Bị đơn dân sự.
  11. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
  12. Người làm chứng.
  13. Người chứng kiến.
  14. Người giám định.
  15. Người định giá tài sản.
  16. Người phiên dịch, người dịch thuật.
  17. Người bào chữa.
  18. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
  19. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố.
  20. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của Bộ luật này.

Như vậy những người được quy định tại Điều 55 BLTTHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì anh/chị là phiên dịch viên thì có thể tham gia tố tụng trong vụ án hình sự.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong vụ án dân sự

Quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong vụ án dân sự Sau đây, Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Thời hạn xét xử một vụ án dân sự.

Câu hỏi:

Tôi có Nộp đơn khởi kiện tại tòa án nhân dân huyện và đã có thông báo thụ lý vụ án, tuy nhiên đã hơn 2 tháng rồi mà vẫn chưa thấy tòa thông báo hay quyết định về việc xử sơ thẩm, Luật sư cho tôi hỏi là thời gian từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử là bao lâu?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:Căn cứ pháp lý

Luật Tố tụng hành chính năm 2015

  1. Luật sư tư vấn

Theo những thông tin mà anh chị/cung cấp thì vụ án của anh/chị đang trong thời gian chuẩn bị xét xử, quy định của pháp luật về việc này cụ thể như sau:

Tại Điều 130 LTTHC năm 2015 có quy định:

Điều 130. Thời hạn chuẩn bị xét xử

Thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài và vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri được quy định như sau:

  1. 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này.
  2. 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này.
  3. Đối với vụ án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử một lần, nhưng không quá 02 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này và không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
  4. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ vào theo Điều 130 BLTTHC năm 2015 nêu trên thì thời hạn để chuẩn bị xét như sau: 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này (Nếu thấy vụ án án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì có thể gia hạn thêm không quá 2 tháng đối với) hoặc 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này. Nếu thấy vụ án án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì có thể gia hạn thêm không quá 1 tháng)

Cụ thể quy định tại điểm a và điểm khoản 2 Điều 116 LTTHC năm 2015 như sau:

“Điều 116. Thời hiệu khởi kiện

…..

  1. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
  2. a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
  3. b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;

…………”

Như anh/chị đã nói vụ việc của anh/chị đã qua 2 tháng, tuy nhiên anh/ chị không nói rõ cụ thể đó là quyết định gì do đó chúng tôi không thể tư vấn cụ thể hơn cho anh/chị được.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Quy định về tạm giữ và thời hạn tạm giữ?

Tạm giữ, thời hạn tạm giữ được quy định cụ thể tại Điều 117, điều 118 Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015. Luật Hiệp Thành xin được đưa ra những tư vấn cụ thể như sau:

Luật sư tư vấn:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.

  1. Nội dung:

Thứ nhất, về tạm giữ:

– Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

– Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quyền ra quyết định tạm giữ.

Quyết định tạm giữ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lý do tạm giữ, giờ, ngày bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Quyết định tạm giữ phải giao cho người bị tạm giữ.

– Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

– Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Thứ hai, thời hạn tạm giữ:

– Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.

– Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.

Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

– Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

– Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.

———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng