Quy định về tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng dân sự

  1. Quy định về tạm ngừng phiên tòa

Khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (Bộ LTTDS) quy định: Trong quá trình xét xử Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có một trong 6 căn cứ sau:

– Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng;

– Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt;

– Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa;

– Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại;

– Các đương sự thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải;

– Cần phải báo cáo Chánh án Tòa án để đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật này

Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa.

  1. Phân biệt hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa

Hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa đều để lại hệ quả pháp lý là phiên tòa sẽ không được xét xử trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, tính chất pháp lý của hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa lại khác nhau. Theo đó, Theo quy định tại khoản 1 Điều 233 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa trong các trường hợp sau:

– Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án mà không có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký dự khuyết thay thế   theo quy định khoản 2 Điều 56 BLTTDS;

– Trong trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế như quy định tại khoản 2 Điều 62 BLTTDS;

– Trường hợp phải thay đổi người giám định, người phiên dịch mà không có người khác thay thế như quy định tại khoản 2 Điều 84 BLTTDS;

– Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng như quy định tại các Điều 227 BLTTDS;

– Trường hợp người làm chứng, người giám định, người phiên dịch vắng mặt thì tùy từng hoàn cảnh cụ thể, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử như quy định tại Điều 229, Điều 230 và Điều 231 BLTTDS.

Bên cạnh đó, khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại Điều 241 mà không thuộc trường hợp Tòa án buộc phải hoãn phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận, trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.

Và thời hạn hoãn là không quá 01 tháng, đối với phiên tòa xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn là 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Việc hoãn phiên tòa phải được thực hiện bằng một quyết định. Trong quyết định hoãn phiên tòa phải nêu đầy đủ các nội dung về ngày, tháng năm ra quyết định; tên Toà án và họ, tên những người tiến hành tố tụng; vụ án được đưa ra xét xử; lý do của việc hoãn phiên toà; thời gian, địa điểm mở lại phiên toà. Quyết định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt HĐXX ký tên và thông báo công khai cho những người tham gia tố tụng biết; đối với người vắng mặt thì Tòa án gửi ngay cho họ quyết định đó, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về Quy định về tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng dân sự”. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan, Quý khách hàng vui lòng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!

Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942941668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Người đại diện của đương sự trong Tố tụng dân sự

  1. Người đại diện trong tố tụng dân sự

Người đại diện của đương sự tham gia tố tụng dân sự là người thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án. Và theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyềm. Họ có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cũng chính là người đại diện theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự, Theo đó, người đại diện theo pháp luật của cá nhân bao gồm các trường hợp sau, trừ trường hợp người bị hạn chế quyền đại diện theo quy định tại Điều 87 Bộ luật Tố tụng Dân sự:

  • Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
  • Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
  • Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện theo hai trường hợp trên.
  • Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng dân sự được thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự của đương sự trong phạm vi đại diện.

Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự là người đại diện theo ủy quyền được quy định trong Bộ luật Dân sự. Theo đó, người đại diện theo ủy quyền của các nhân bao gồm các trường hợp sau:

  • Cá nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
  • Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, ngoại trừ trường hợp pháp luật quy định các giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền.

  1. Các trường hợp không được đại diện

Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về những trường hợp không được làm người đại diện, cụ thể:

* Những người sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật:

  • Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
  • Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc.

* Quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.

* Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.

  1. Chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự

Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự. Cụ thể:

  • Việc chấm dứt đại diện theo pháp luật

Theo quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật dân sự năm 2015, việc đại diện theo pháp luật chấm dứt trong những trường hợp:

  • Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục;
  • Người được đại diện là cá nhân chết;
  • Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
  • Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

 

  • Việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền

Theo quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật dân sự năm 2015, việc đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong những trường hợp sau đây:

  • Theo thỏa thuận;
  • Thời hạn ủy quyền đã hết;
  • Công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
  • Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;
  • đ) Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
  • Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này;
  • Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về Người đại diện của đương sự trong Tố tụng dân sự”. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan, Quý khách hàng vui lòng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!

Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942941668

Email: luathiepthanh@gmail.com

LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự:

  1. Điều 7 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 7. Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan tổ chức có thẩm quyền

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.”

….

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 3 năm 2011.

Tải về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BL TTDS

Quyền Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn pháp lý về quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự theo quy định pháp luật hiện hành.

  1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015.

  1. Nội dung tư vấn

– Khoản 1 Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 quy định: “Trường hợp chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật này thì Viện kiểm sát (VKS) đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu”.

Quy định này nhằm “tôn trọng quan điểm của VKS và của người ký kháng nghị trong trường hợp họ muốn thay đổi, bổ sung kháng nghị”, đồng thời, tạo điều kiện để các đương sự chuẩn bị tổ chức việc bào chữa bảo vệ quyền lợi hợp pháp sau khi đã biết rõ thực trạng những nội dung kháng nghị một cách có hiệu quả nhất. Đây là quy định bổ sung và làm rõ hơn so với khoản 1 Điều 256 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi,  bổ sung năm 2011), thể hiện ở chỗ trong trường hợp chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 280 BLTTDS năm 2015 thì việc thay đổi, bổ sung kháng nghị không bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu, nghĩa là VKS sẽ được quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị mà không phải chịu bất kỳ một giới hạn, hạn chế nào. Có thể thay đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ kháng nghị so với kháng nghị ban đầu, và có thể thay đổi cả số lượng và tăng giá trị yêu cầu…

Khoản 2 Điều 284 BLTTDS năm 2015 có sửa đổi về bản chất so với khoản 1 Điều 256 BLTTDS năm 2004: “Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, VKS đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng nghị đã hết”. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định VKS ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nghĩa là có thể VKS đã kháng nghị hoặc VKS cấp trên trực tiếp sẽ được quyền thay đổi, bổ sung. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bó hẹp hơn nữa, chỉ còn trao cho VKS đã kháng nghị mới có quyền này, như vậy, nếu VKS cùng cấp kháng nghị đối với Tòa án cấp sơ thẩm thì VKS đã kháng nghị mới có quyền thay đổi, bổ sung, còn VKS cấp trên, trực tiếp tham gia phiên tòa phúc thẩm và bảo vệ kháng nghị lại không có quyền này. Điều này, vô hình trung dẫn tới việc thiếu chủ động và tính tự quyết của VKS cấp trên trực tiếp, bởi lẽ, tại phiên tòa phúc thẩm có thể sẽ có những diễn biến khác so với chiều hướng kháng nghị ban đầu mà VKS cùng cấp sơ thẩm đã không thể dự liệu hết được trong kháng nghị của mình.

Bên cạnh đó, BLTTDS năm 2015 còn bổ sung quy định về hình thức và thủ tục thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Theo đó, việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải được lập thành văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải thông báo cho các đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm còn phải tiến hành các công việc theo quy định của BLTTDS để mở phiên tòa xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị, phần kháng nghị còn lại theo thủ tục chung. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị tại phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa và Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung đối với kháng nghị đã được thay đổi, bổ sung và phần kháng nghị còn lại.

Việc thay đổi, bổ sung kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự có điểm khác so với thay đổi, bổ sung kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự. Theo quy định tại Điều 284 BLTTDS năm 2015 thì việc thay đổi, bổ sung kháng nghị phúc thẩm phải được thông báo trước cho các đương sự có liên quan đến kháng nghị và không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng nghị đã hết (bởi phúc thẩm chỉ là việc xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nên đương sự phải được chuẩn bị để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án). Mọi thay đổi, bổ sung kháng nghị dẫn đến đương sự bị động, không có điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đều không được chấp nhận. Còn giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ xem xét lại việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án thông qua việc xét lại các bản  án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Trong giai đoạn này, các đương sự không bắt buộc phải tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm chủ yếu dựa vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xét, nên những người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị mà không có bất kỳ một sự hạn chế nào.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác anh/chị vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng