Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

Bộ luật Dân sự năm 2015 không có quy định hướng dẫn về người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, trường hợp này được hiểu là người chiếm hữu không có căn cứ pháp lý đối với tài sản nhưng không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu là cần thiết nhằm bảo đảm tính ổn định của giao dịch dân sự nói chung và các giao dịch liên quan đến bất động sản và các tài sản khác phải đăng ký nói riêng.

  1. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự vô hiệu khi không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015:

Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

  1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”

Một số trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu như:

– Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

– Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

– Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

– Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

– Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

– Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

– Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015: giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

  1. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu. Cụ thể như sau:

2.1. Đối với tài sản không phải đăng ký

Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực.

Giao dịch dân sự với người thứ ba sẽ không có hiệu lực trong trường hợp:

  • Người chiếm hữu ngay tình (người thứ ba ngay tình) có được động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản
  • Nếu trường hợp hợp đồng nêu trên là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu tài sản không phải đăng ký có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

2.2. Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu

·      Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký

Đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

·      Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký

Đối với trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Quyền lợi của người lao động khi làm thêm vào ngày lễ, tết theo quy định của Bộ luật lao động hiện hành

Chào luật sư, công ty tôi đang làm việc trước đây chỉ làm việc giờ hành chính, thứ bảy, chủ nhật và ngày lễ tết được nghỉ theo quy định của nhà nước. Gio công ty thay đổi thành làm việc theo ca buộc chúng tôi làm việc theo ca 8 tiếng 1 ngày, một tuần được nghỉ 2 ngày bất kỳ do công ty quy định và không được nghỉ lễ tết. Tôi muốn hỏi công ty làm vậy có đúng quy định pháp luật không? nếu không được nghỉ lễ tôi có được nghỉ vào ngày khác không?

Luật sư trả lời:Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, sau thời gian nghiên cứu nội dung câu hỏi cùng với các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan Luật sư xin trả lời bạn như sau.

  1. Căn cứ pháp lý

Bộ Luật Lao Động năm 2012 Luật số: 10/2012/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2012

Nghị định 45/2013/NĐ-CP Số: 45/2013/NĐ-CP 0 tháng 05 năm 2013

  1. Nội dung tư vấn

Thứ nhất: Căn cứ theo Điều 104 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về thời gian làm việc bình thường không quá 08 giờ một ngày và 48 giờ một tuần. Người sử dụng lao động có quyền quy định thời gian làm việc theo tuần, ngày hoặc giờ. Trường hợp theo tuần thì thời gian làm việc không quá 10 giờ trong một ngày, nhưng không quá 48 giờ trong một tuần. Thời gian làm việc phải được sắp xếp hợp lý để người lao động có thời gian nghỉ ngơi đảm bảo sức khỏe. Trường hợp công ty nơi bạn làm việc do yêu cầu sản xuất kinh doanh mà đổi lịch làm việc như vậy là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật lao động.

Thứ hai: Về nghỉ làm việc hằng tuần thì mỗi tuần người lao động được nghỉ ít nhất 24h liên tục, trong trường hợp làm việc theo tháng không bố trí được ngày nghỉ hằng tuần thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm bảo đảm cho người lao động được nghỉ bình quân một tháng ít nhất 04 ngày. Người sử dụng lao động có quyền quyết định sắp xếp thời gian nghỉ hằng tuần vào ngày chủ nhật hoặc một ngày cố định khác và được ghi trong hợp đồng lao động.

Thứ ba: Căn cứ theo Điều 97 Bộ luật lao động năm 2012 quy định người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc:

“Điều 97. Tiền lương làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm

  1. Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:
  2. a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;
  3. b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;
  4. c) Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.
  5. Người lao động làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường.
  6. Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc trả lương theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày.”

Thứ tư: Căn cứ theo Điều 106 Bộ luật lao động năm 2012 quy định người sử dụng lao động được áp dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng được các điều kiện như:

-Được sự đồng ý của người lao động; Nội dung này được quy định trong hợp đồng lao động ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao động. Hầu hết các doanh nghiệp đều có quy định nội dung này trong hợp đồng lao động nhưng rất ít người lao động tập trung đọc trước, nhiều người lao động khi mới vào làm việc thì không phải tăng ca nhưng một thời gian sau lại tăng ca rồi phàn nàn là hoàn toàn không có căn cứ. Tất cả đều do người sử dụng lao động quy định và phù hợp với quy định pháp luật, cùng với đó là nhu cầu sản xuất kinh doanh từng thời điểm của công ty mà có kế hoạch làm việc phù hợp.

-Sau mỗi đợt làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong tháng, người sử dụng lao động phải bố trí sắp xếp để người lao động được nghỉ bù cho số thời gian đã được nghỉ. Nhiều doanh nghiệp hiện nay có lựa chọn phương thức làm việc theo ca hoặc theo kíp, điều này hoàn toàn không có gì trái với quy định của pháp luật lao động.

Như vậy theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012 và nghị định 45/2013 thì việc sắp xếp làm việc với thời gian 8 giờ một ngày cho người lao động là đúng quy định pháp luật lao động. Khi người sử dụng lao động yêu cầu làm việc vào các ngày nghỉ ,lễ, tết bạn có quyền đề nghị với người sử dụng lao động bố trí nghỉ bù với số thời gian đã không được nghỉ. Trường hợp không bố trí được thì phải trả lương làm thêm giờ theo quy định của pháp luật lao động.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng