Tử hình cựu Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Oceanbank

Bị cáo Trần Thị Kim Chi, cựu Giám đốc Ngân hàng Oceanbank – Chi nhánh Hải Phòng bị tòa tuyên án tử hình về tội Tham ô tài sản.

Sáng nay (4/9), TAND TP Hải Phòng mở phiên tòa xét xử vụ án Tham ô tài sản xảy ra tại ngân hàng Oceanbank, chi nhánh Hải Phòng.

Đây là vụ án được dư luận đặc biệt quan tâm, bởi nhiều gia đình điêu đứng khi gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng này.

HĐXX đã tuyên tử hình với bị cáo Trần Thị Kim Chi, cựu Giám đốc Ngân hàng Thương mại TNHH MTV Đại Dương (Oceanbank) – Chi nhánh Hải Phòng về tội Tham ô tài sản.

 

Tử hình cựu Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Oceanbank
HĐXX tuyên án các bị cáo phạm tội Tham ô tài sản

 

Các đồng phạm của Chi gồm: Lê Vương Hoàng (cựu kiểm soát viên) và Nguyễn Thị Minh Huệ (cựu Trưởng phòng Kế toán kho quỹ) cùng bị tuyên án tù chung thân.

Bị cáo Chu Văn Nha (cựu thủ quỹ) lĩnh 20 năm tù.

HĐXX nhận định hành vi của các bị cáo gây thiệt hại cho ngân hàng số tiền rất lớn, làm bất ổn nền kinh tế, tạo dư luận xấu.

Bị cáo Chi là chủ mưu trong vụ án nhưng không khai rõ số tiền chiếm đoạt vào mục đích gì. Đến nay, cơ quan chức năng không thu hồi được tài sản mà bị cáo đã cất giấu. Vì thế, bị cáo Chi phải chịu mức án nghiêm khắc nhất, loại bỏ ra khỏi xã hội. Các bị cáo còn lại có vai trò giúp sức cũng nhận mức án nghiêm khắc để răn đe xã hội.

Được nói lời cuối cùng, bị cáo Chi liên tục không nhận tội và tha thiết đề nghị HĐXX đánh giá lại toàn bộ tính chất vụ việc. Chi cho rằng mình không phạm tội tham ô tiền của ngân hàng và khách hàng để tư lợi cá nhân.

Tuy nhiên, các bị cáo Hoàng, Huệ và Nha lại nhận tội và cho rằng nghe theo chỉ đạo của Chi.

 

Tử hình cựu Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Oceanbank
Các bị cáo tại tòa

 

Tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng OceanBank cho rằng, các bị cáo đã phạm tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản chứ không phải tội tham ô.

Theo cáo trạng, từ năm 2012 đến tháng 8/2017, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, lợi dụng sơ hở của ngân hàng trong công tác quản lý, phát hành thẻ tiết kiệm cho khách hàng, công tác quản lý tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, các bị cáo nêu trên đã thực hiện thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tiền của Oceanbank – Chi nhánh Hải Phòng.

Các bị cáo đã nhận tiền gửi tiết kiệm của khách hàng nhưng không hạch toán vào hệ thống quản lý của ngân hàng; tất toán khống, lập khống hồ sơ vay cầm cố thẻ tiết kiệm của khách hàng; phát hành 109 thẻ tiết kiệm ngoài hệ thống cho 27 khách hàng.

Qua đó, các bị cáo chiếm đoạt của Oceanbank (Chi nhánh Hải Phòng) số tiền gần 414 tỷ đồng; gây thiệt hại cho ngân hàng số tiền hơn 9,3 tỷ đồng (là tiền lãi của 107 thẻ tiết kiệm của khách hàng).

Cáo trạng xác định, Chi là người thực hiện hành vi tổ chức, chỉ đạo Hoàng, Huệ và Nha thực hiện hành vi phạm pháp luật.

Nguồn : vietnamnet.vn

Chồng giả mạo chữ ký vợ vay tiền ngân hàng thì xử lý như thế nào?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: trường hợp chồng giả mạo chữ ký vợ vay tiền ngân hàng

Câu hỏi khách hàng:

Chồng tôi cùng với người khác đã giả mạo chữ ký của tôi – người thừa kế để vay tiền ngân hàng. Chồng tôi đã đưa toàn bộ số tiền đó cho họ vay, đến nay họ không trả cả gốc và lãi theo thỏa thuận. Chồng tôi phải trả qua lương hàng tháng cho ngân hàng. Luật sư cho tôi hỏi hành vi đó có vi phạm pháp luật hình sự không? Tôi có quyền khởi kiện không? Nếu tôi khởi kiện chồng tôi và người đó sẽ bị xử lý như thế nào? Tôi xin cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Thứ nhất, về việc giả mạo chữ ký.

Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép:

“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.”

Như vậy, hành vi làm giả chữ ký của chồng bạn và người khác để vay tiền ngân hàng dẫn đến việc ngân hàng đồng ý cho vay là hành vi lừa dối trong giao dịch dân sự dẫn đến bạn bị xâm phạm đến tài sản hay bị liên đới trách nhiệm dân sự,… Khi đó, bạn có thể khởi kiện lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn cư trú yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vay tiền với ngân hàng là vô hiệu.

Thứ hai, về giao dịch vay tiền giữa chồng bạn và người đó.

Mặc dù hợp đồng vay tài sản ngân hàng có chồng bạn là vô hiệu nhưng hợp đồng vay giữa chồng bạn và người khác bằng số tiền đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Việc người đó không trả tiền gốc và lãi đúng hạn theo hợp đồng giữa hai bên là căn cứ xác định trách nhiệm của người vay tiền khi vi phạm hợp đồng vay.

Khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

“Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Theo đó, bên vay tài sản phải trả tiền gốc và tiền lãi cho chồng bạn theo đúng như hợp đồng, trong trường hợp người này không trả đúng hạn sẽ bị tính lãi theo khoản 5 Điều trên.

Thứ ba, về việc xử lý vi phạm với chồng bạn và người cũng vay tiền.

Do thông tin bạn cung cấp không đầy đủ nên chúng tôi không thể xác định được chồng bạn có hành vi xâm phạm tài sản của bạn không để xác minh trách nhiệm của chồng bạn với bạn.

Tuy nhiên, với giao dịch của chồng bạn với ngân hàng, ngân hàng có thể kiện chồng bạn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2017:

 “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

  1. a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
  2. b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

…”

Chồng bạn đã có hành vi làm giả chữ ký của bạn để vay tiền ngân hàng dẫn đến ngân hàng chấp nhận cho vay tiền, tùy thuộc vào số tiền mà chồng bạn vay mà khi ngân hàng khởi kiện ra Tòa án, chồng bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm về tội danh trên theo các mức xử phạt.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Lấy sổ đỏ của nhân viên vay nợ ngân hàng cho công ty

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định lấy sổ đỏ của nhân viên vay nợ ngân hàng cho công ty.

Tóm tắt câu hỏi:

Chào luật sư Xin luật sư tư vấn giúp em. Năm 2012 em và gai đình có nhu cầu vay vốn ngân hàng để phát chuyển kinh tế. Và có nhờ 1 công ty vay hộ. Chủ công ty đó nói cho gia đình em vay tiền của công ty và lãi xuất như ngân hàng. Đến nay gia đình em được biết công ty đã phá sản chủ công ty đó hiện không liên lạc được. Nay em có nhận được điện thoại từ ngân hàng nói về khoản nợ của Công ty tại Ngân hàng và báo là tài sản của gia đình em là tài sản đảm bảo khoản nợ đó và sẽ bị thu hồi. Trong khi em và gia đình không hề biết là Công ty đã dùng sổ nhà em thế chấp vào Ngân hàng hơn 1 tỉ. Em và gia đình giờ không biết phải trả lời Ngân hàng như thế nào và không biết làm sao xin luật sư tư vấn giúp em và gia đình.

Luật sư tư vấn:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

Bộ luật dân sự Luật số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015

  1. Giải quyết vấn đề

Tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“Điều 317. Thế chấp tài sản

  1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).
  2. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.”

Theo đó, thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ mà không giao cho bên kia. Bạn nhờ bên Công ty vay hộ thì bạn có ký vào hợp đồng vay thế chấp bên Ngân hàng này không hay là bạn vay tiền trực tiếp từ phía Công ty và thế chấp tài sản này cho phía Công ty. Bạn vay trực tiếp từ bên nào thì bạn phải thanh toán cho bên đó. Nghĩa vụ của bên thế chấp và bên nhận thế chấp được quy định tại Điều 320, 322 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:

“Điều 320. Nghĩa vụ của bên thế chấp

  1. Giao giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa thuận, trừ trường hợp luật có quy định khác

…”

“Điều 322. Nghĩa vụ của bên nhận thế chấp

  1. Trả các giấy tờ cho bên thế chấp sau khi chấm dứt thế chấp đối với trường hợp các bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp.
  2. Thực hiện thủ tục xử lý tài sản thế chấp theo đúng quy định của pháp luật.”

Theo đó, khi bạn vay tiền theo phương thức bảo đảm là thế chấp thì bạn phải giao cho bên thế chấp các giấy tờ liên quan đến tài sản cho công ty và công ty phải trả cho mình các giấy tờ này khi chấm dứt thế chấp, tức là khi bạn trả xong nợ trong đúng thời hạn, nếu bạn không trả hết nợ đúng thời hạn thì bên công ty có thể xử lí tài sản thế chấp khi các bên thỏa thuận lựa chọn một trong các phương thức: bán đấu giá tài sản, bên nhận bảo đảm tự bán tài sản, bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm, phương thức khác căn cứ theo quy định tại Điều 303 Bộ luật dân sự năm 2015:

“Điều 303. Phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp

  1. Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây:
  2. a) Bán đấu giá tài sản;
  3. b) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản;
  4. c) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;
  5. d) Phương thức khác.
  6. Trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại khoản 1 Điều này thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.”

Theo đó, nếu bạn vay từ phía công ty thì bạn có nghĩa vụ trả tiền cho công ty, trong thời hạn vay thì công ty của bạn không được thế chấp tài sản này cho ngân hàng vì phía công ty vẫn chưa phải là chủ sở hữu của mảnh đất này trừ khi gia đình bạn đã quá hạn trả nợ. Còn ký hợp đồng vay với bên ngân hàng và lấy mảnh đất này làm tài sản bảo đảm thì khi hết hạn thì bên phía ngân hàng có quyền thu hồi mảnh đất này để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Giả mạo chữ ký vay tiền ngân hàng?

Luật Hiệp Thành tư vấn về trường hợp mẹ giả mạo chữ kí của con để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi vay thế chấp ngân hàng. Khi đó, hợp đồng có vô hiệu không, ai có nghĩa vụ trả nợ.

Nội dung tư vấn: Chào Luật sư!Tôi có một vướng mắc mong muốn nhờ giải đáp. Mẹ chồng tôi có việc cần tiền nên đã vay tiền thế chấp bằng GCNQSD đất của gia đình, ba chồng tôi ốm đau, bị tai biến nên không ký tên là người thừa kế trong HĐTD, mẹ tôi đã giả chữ ký của 02 người con trai làm người thừa kế trong HĐTD mà không cho 2 con trai biết. Sau khi mẹ tôi nhận tiền xong một thời gian mẹ tôi mới nói.Xin hỏi LS, việc làm của mẹ tôi có vi phạm pháp luật không? (VP điều khoản điểm nào của Luật) vì tôi cảm thấy mẹ chồng tôi có sự gian đối trong việc giả mạo chữ ký? Trường hợp không may mẹ chồng tôi mất thì 2 con trai của mẹ có phải trả khoản nợ đó không? Đối với Phòng Tín dụng của ngân hàng đã cho mẹ tôi vay vốn như vậy là đúng hay sai (giả sử trường hợp CB tín dụng biết chữ ký của người thừa kế là giả)..

Luật sư tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, chúng tôi tư vấn cho trường hợp của bạn như sau:

Trong trường hợp này, đất của gia đình bạn là đất hộ, vì vậy để lấy sổ đỏ đi thế chấp để vay từ ngân hàng thì phải có chữ kí của hai người con trai, bố bạn và theo quy định hợp đồng này phải được công chứng.

Trước hết, hành vi làm hồ sơ và sau đó giả mạo luôn chữ kí của hai người con trai là trái với quy định của pháp luật.

Căn cứ quy định Điều 122, Bộ luật dân sự 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu:

“Điều 122.Giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.”

Tham chiếu theo căn cứ trên thì mẹ bạn đã làm hồ sơ giả mạo chữ kí của hai người con trai để hoàn thành việc kí để ủy quyền cho họ nhằm mục đích vay tiền ngân hàng vì lí do cá nhân, như vậy mẹ bạn đã giả mạo chữ kí của người có quyền nên đây được coi là giao dịch dân sự vô hiệu.

Căn cứ quy định tại Điều 131, Bộ luật dân sự 2015  về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:

“Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

  1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập;
  2. Giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

 Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

  1. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó
  2. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
  3. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Như vậy, giao dịch dân sự trên vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.  Với hành vi làm giả chữ kí như vậy của mẹ bạn thì bạn có quyền được kiện theo quy định của pháp luật.

Nếu hành vi giả mạo chữ kí của mẹ bạn nhằm mục đích lừa dối nhằm chiếm đoạt tài sản vay ngân hàng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 Bộ luật hình sự 2015).

Thứ hai, việc mẹ bạn đã thế chấp sổ đỏ để vay ngân hàng, thì mẹ bạn phải có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng số tiền đó, gia đình bạn không có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng đối với khoản tiền mà mẹ bạn đã vay.

Giả sử trường hợp mẹ bạn chết:

Căn cứ quy định tại Điều 615, Bộ luật dân sự 2015 về Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:

“Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

  1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.

3.Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

  1. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”

Theo quy định nêu trên, khi người vay tiền đã chết thì nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng sẽ do những người thừa kế của người này thực hiện, bao gồm: người thừa kế theo di chúc (nếu người vay tiền bạn để lại di chúc); người thừa kế theo pháp luật.

Do đó, ngân hàng có thể yêu cầu những người thừa kế của mẹ bạn (ví dụ như: chồng, các con, cha mẹ đẻ…) thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, những người này chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản mà họ được hưởng. Theo đó, bố bạn và hai người con trai có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ do mẹ bạn để lại nhưng chỉ trong phạm vi di sản do mẹ bạn để lại. Toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu/sử dụng của bố bạn, hai người con trai không phải do được thừa kế từ mẹ bạn sẽ không bị kê biên để trả nợ cho Ngân hàng.

Thứ ba, đối với hành vi của người cán bộ ngân hàng; nếu cán bộ ngân hàng biết rõ hành vi của mẹ bạn nhưng vẫn giúp, tạo điều kiện cho mẹ bạn thực hiện hành vi thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với vai trò là đồng phạm.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của bạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến bạn chưa hiểu hết vấn đề hoặc và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn. Vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Quy định của pháp luật đối với việc ngân hàng khởi kiện đòi tiền

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về nghĩa vụ trả nợ.

Chào luật sư tôi có vay ngân hàng 15 triệu trả góp trong 24 tháng ra 21 triệu – tôi trả góp được 5 tháng rồi ngưng không trả nữa – rồi tôi dọn nhà đến tỉnh khác thay số điện thoại nên ngân hàng không liên lạc được với tôi – qua 1 thời gian có người của ngân hàng đem giấy thông báo đến nhà cũ của tôi – trong giấy nói trong 15 ngày không đến ngân hàng trả nợ thì ngân hàng sẽ kiện ra tòa – với tội danh chiếm đoạt tài sản – vậy cho tui hỏi nếu tui ko xuất hiện mà trốn luôn thì tòa có xử không – nhà cũ của tui có bị phát mãi để trừ nợ không – nếu bị phát mãi thì phần tiền con dư có trả lại cho tôi không – tui có bị truy nã không – phiền luật sư tư vấn giúp tui cám ơn người.

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.

Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2015.

Luật sửa đổi Bộ luật hình sự số 12/2017/QH14 Được Quốc hội khoá 14 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017.

  1. Chuyên viên tư vấn:

Theo thông tin bạn nêu ra thì bạn cần xác định rõ một số nội dung sau để giải quyết vấn đề của mình:

Bạn nêu rằng bạn có vay 15 triệu trong 2 năm đến thời hạn cả gốc và lãi là 21 triệu, bạn mới trả được 5 tháng sau đó thì ngưng không trả nữa, nhưng bạn chưa nói rõ là bạn đã quá thời hạn 24 tháng hay chưa, nếu bên ngân hàng muốn kiện bạn theo hình thức kiện ra tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thì phải quá thời hạn của hợp đồng vay hoặc trong hạn nếu bạn nợ quá số tháng đã thỏa thuận với phía bên ngân hàng.

“Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

  1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiềnkhi đến hạn;nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.

Điều 280. Thực hiện nghĩa vụ trả tiền

  1. Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận.
  2. Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Nếu như nợ vẫn đang trong hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng thì họ không thể khởi kiện bạn ra tòa án để yêu cầu bạn phải trả nợ, mà chỉ gửi thông báo đến cho bạn để thúc giục bạn trả nợ, còn nếu trong hợp đồng vay ban đầu có thỏa thuận về việc chẳng hạn nếu quá thời hạn 3 tháng mà bạn không trả được đồng nào cho phía bên họ thì họ có thể áp dụng các biện pháp xử lý như khởi kiện ra tòa án, đương nhiên trường hơp này họ có thể làm vậy, nhưng chỉ khởi kiện ra tòa án dân sự.

Nếu bạn vừa nợ quá hạn, vừa dọn đến tỉnh khác, mà bạn đã thế chấp nhà cho phía ngân hàng kèm theo văn bản ủy quyền xử lý tài sản thì kể bạn không có mặt ở địa phương theo sự thỏa thuận ban đầu của hai bên thì bên ngân hàng họ vẩn có quyền xử lý tài sản của bạn nếu có các giấy tờ trên và thanh toán cho bạn khoản tiền còn thừa, còn nếu không có giấy ủy quyền thì bên ngân hàng sẽ phải tiến hành khởi kiện ra tòa án để yêu cầu xử lý tài sản.

Còn bạn đã nợ quá hạn lại không có thế chấp tài sản, bạn chuyển đi khỏi nơi cư trú mà không có bất kỳ một thông báo gì với bên ngân hàng, cắt đứt mọi liên lạc với phía ngân hàng, cũng không xin thông báo gia hạn trả nợ gì cả thì bạn sẽ có dấu hiệu của các tội sau, nếu có hồ sơ đầy đủ các chứng cứ tài liệu liên quan thì cơ quan công an có thể tiến hành khởi tố với bạn:

Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
  2. a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
  3. b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

Như vậy để tránh việc phải gánh chịu trách nhiệm hình sự thì bạn nên nêu rõ hoàn cảnh khó khăn về điều kiện kinh tế với phía ngân hàng và xin gia hạn trả nợ, và tháng nào bạn cũng nên gửi tiền cho phía ngân hàng dù ít dù nhiều bạn vẫn sẽ phải gửi.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Có thể sử dụng tài sản trí tuệ để thế chấp vay vốn ngân hàng?

Các sản phẩm phát minh, sáng chế đã được đăng ký sở hữu trí tuệ có thể được coi là tài sản bảo đảm để vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động tại Việt Nam và quốc tế cho thấy, việc thế chấp đối với quyền sở hữu trí tuệ tại hệ thống các tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều hạn chế.

Qua Hệ thống Tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp, Câu lạc bộ cựu đại biểu Quốc hội kiến nghị ngành ngân hàng cần có chính sách quan tâm hơn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc vay vốn để sản xuất, kinh doanh.

Theo ý kiến của Câu lạc bộ cựu đại biểu Quốc hội, ngân hàng nên có chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp khoa học-công nghệ vay vốn, hoặc được dùng tài sản của doanh nghiệp (gồm cả sản phẩm phát minh, sáng chế đã được đăng ký sở hữu trí tuệ) làm tài sản thế chấp để vay vốn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có các chính sách ưu đãi trong việc vay vốn với những ngành nghề cần khuyến khích phát triển.

Về vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có ý kiến như sau:

Đối với kiến nghị của Câu lạc bộ cựu đại biểu Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp thu để hoàn thiện công tác chỉ đạo, điều hành chính sách tín dụng ngân hàng trong thời gian tới, đồng thời cũng có ý kiến giải trình thêm với Câu lạc bộ cựu đại biểu Quốc hội, cụ thể như sau:

Để hỗ trợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong việc tiếp cận vốn, thời gian qua, NHNN đã triển khai nhiều giải pháp, chính sách nhằm hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, cụ thể:

– Ban hành Quyết định 443/QĐ-NHNN ngày 16/3/2018 trong đó xác định chương trình hành động của ngành ngân hàng triển khai thực hiện Nghị quyết 98/NQ-CP của Chính phủ về phát triển kinh tế tư nhân, đưa ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình thời gian thực hiện gắn với việc điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, cải cách thủ tục hành chính đồng bộ trong các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp.

– Triển khai hiệu quả Chương trình hành động của ngành Ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020, với các giải pháp cụ thể nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp (đặc biệt là DNNVV) tiếp cận vốn tín dụng.

– Chỉ đạo NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố và các tổ chức tín dụng tiếp tục đẩy mạnh triển khai có hiệu quả các chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp; kết hợp chặt chẽ với các chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khác trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn.

– Tích cực phối hợp với các Bộ, ngành tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều chính sách, chương trình tín dụng hỗ trợ vốn cho những ngành nghề cần khuyến khích phát triển, đồng thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù như:

(i) Chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với 5 lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp nông thôn, DNNVV, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao), hiện nay là 6,5%/năm;

(ii) Chính sách cho vay không có tài sản bảo đảm lên đến 70%-80% để phát triển sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo Nghị định 55/2015/NĐ-CPNghị định 116/2018/NĐ-CP;

(iii) Chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; với lãi suất cho vay ưu đãi thấp hơn từ 0,5%-1,5%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường cùng kỳ hạn;

(iv) Cho vay có hỗ trợ lãi suất vay vốn lên đến 100% cho các khách hàng đầu tư máy móc thiết bị giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định 68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;

(v) Chính sách cho vay lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ được vay vốn tối đa 70% vốn đầu tư tại các tổ chức tín dụng trên cơ sở bảo lãnh của các tổ chức bảo lãnh;

(vi) Một số chính sách ưu đãi về lãi suất cho các DNNVV hoạt động tại các địa bàn kinh tế khó khăn.

– Chỉ đạo các tổ chức tín dụng quan tâm nhiều hơn tới các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp DNNVV, thiết kế và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp hơn đối với đối tượng doanh nghiệp này; cải cách thủ tục hành chính, đổi mới quy trình cho vay theo hướng tiết giảm tối đa thủ tục, giấy tờ cho doanh nghiệp để rút ngắn thời gian giải quyết cho vay nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tín dụng, an toàn vốn vay.

Chính sách bảo lãnh cho DNNVV vay vốn

Để hỗ trợ và phát triển DNNVV, từ năm 2001, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (do Bộ Tài chính chủ trì).

Theo đó, NHNN cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các tổ chức tín dụng phối hợp với Quỹ bảo lãnh tín dụng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam trong cho vay DNNVV có bảo lãnh của các tổ chức này.

Để hoàn thiện hành lang pháp lý hỗ trợ DNNVV, ngày 12/6/2017, Luật Hỗ trợ DNNVV đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 34/2018/NĐ-CP ngày 8/3/2018 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV (thay thế cho Quyết định 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ).

Nhằm triển khai Luật Hỗ trợ DNNVV và thực hiện nhiệm vụ được giao, NHNN đã ban hành Thông tư số 45/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 hướng dẫn các tổ chức tín dụng trong cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP.

Đối với kiến nghị của Câu lạc bộ cựu đại biểu Quốc hội về việc doanh nghiệp khoa học-công nghệ được dùng tài sản của doanh nghiệp (gồm cả sản phẩm phát minh, sáng chế đã được đăng ký sở hữu trí tuệ) làm tài sản thế chấp vay vốn, theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2016, tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, đồng thời quy định quyền tài sản là một loại tài sản và là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.

Vì vậy, các sản phẩm phát minh, sáng chế đã được đăng ký sở hữu trí tuệ có thể được coi là tài sản bảo đảm để vay vốn tại các tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động tại Việt Nam và quốc tế cho thấy, việc thế chấp đối với quyền sở hữu trí tuệ tại hệ thống các tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều hạn chế một phần do khó định giá quyền sở hữu trí tuệ, phần khác do giá trị của quyền sở hữu trí tuệ chỉ được bảo đảm trong chuỗi các hoạt động của doanh nghiệp đó, khó chuyển giao khi phải xử lý tài sản bảo đảm.

Thêm vào đó, một số doanh nghiệp chưa chứng minh phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, khả thi sẽ là khó khăn, tạo áp lực rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng khi xem xét cho vay.

Đổi mới quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa

Tiếp thu ý kiến của Câu lạc bộ cựu đại biểu Quốc hội, NHNN sẽ tiếp tục phối hợp các bộ, ngành hoàn thiện khung pháp lý để triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích phát triển theo chủ trương của Đảng và Chính phủ; triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ DNNVV đã được quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV; chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các sản phẩm, chương trình tín dụng với lãi suất hợp lý, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng; đổi mới quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

NHNN cũng đề nghị Câu lạc bộ cựu đại biểu Quốc hội thông tin tới Hiệp hội DNNVV thành phố Hà Nội và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về các chương trình, chính sách tín dụng của NHNN và các quy định của pháp luật liên quan để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể vận dụng nhằm được hưởng chính sách tín dụng phù hợp; đồng thời đề nghị các doanh nghiệp tiếp tục tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị để các tổ chức tín dụng thuận lợi hơn trong việc thẩm định, xem xét và quyết định cho vay.

Theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ