Câu hỏi :
Anh L.N.N ở Hà Nam có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:
Ngân hàng V và tôi cùng xác nhận giữa Ngân hàng V và tôi có ký kết Hợp đồng tín dụng số 10.36.**15 và Hợp đồng thế chấp số 10.36.**15 ngày 16 tháng 11 năm 2013. Tài sản thế chấp là diện tích đất X theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ5**493 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 14-7-2004 đứng tên tôi. Tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện B.
Ủy ban nhân dân huyện B đã ban hành Quyết định số 30*3/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ5**493 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 14-7-2004 mang tên tôi. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi.
Tôi xin hỏi, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên có vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này không còn không?
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
I. Cơ sở pháp lý
- Luật Đất đai năm 2003;
- Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm do Chính phủ ban hành ngày 29 tháng 12 năm 2006;
- Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2019;
- Án lệ số /20/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày tháng năm 20 và được công bố theo Quyết định /QĐ-CA ngày tháng năm 20 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
II. Nội dung
Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất trên nên hợp đồng thế chấp trên còn nguyên hiệu lực.
- Giao dịch bảo đảm
Theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hình thức của giao dịch bảo đảm thế chấp tài sản là:
“Điều 343. Hình thức thế chấp tài sản
Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.”
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 10 và điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, quy định của pháp luật về việc thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên là:
“Điều 10. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm
- Giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ các trường hợp sau đây:
…
c) Việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp;…
Điều 12. Đăng ký giao dịch bảo đảm
- Các trường hợp phải đăng ký bao gồm:
a) Thế chấp quyền sử dụng đất;…”
Như vậy, việc thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên là đúng quy định của pháp luật.
- Việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có làm thay đổi quyền sử dụng đất
Đối tượng của hợp đồng thế chấp tài sản trên là quyền sử dụng thừa đất X.
Theo quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 thì:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất…”
Như vậy, việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thu hồi Giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước cấp cho người sử dụng đất.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 thì thu hồi đất là:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
- Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này…”
Như vậy, việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất X.

- Nội dung cơ bản của Án lệ số 36/2020
Án lệ số 36/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05 tháng 02 năm 2020 và được công bố theo Quyết định 50/QĐ-CA ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nội dung cơ bản của Án lệ số /20/AL:
“[2] Ngày 31-8-2011, Ủy ban nhân dân thị xã B đã ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B cấp ngày 14-7-2004 mang tên ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông C, bà T. Tuy nhiên việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông C, bà T, vì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Trần Thị Ngọc H, ông Trần Huỳnh L và vợ chồng ông C, bà T đã hoàn tất, các bên không có tranh chấp gì về Hợp đồng chuyển nhượng này.
[3] Mặt khác, trước khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T bị thu hồi, ông C, bà T đã thế chấp quyền sử dụng đất này cho Ngân hàng nhiều lần để vay tiền, gần nhất là ngày 19-3-2010. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ Điều 411 Bộ luật Dân sự năm 2005 cho rằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 nêu trên vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này không còn là không đúng.”
Trường hợp này, do hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất nên đối tượng của hợp đồng vẫn còn.
Căn cứ vào Án lệ nêu trên, đối với những trường hợp đáp ứng đủ các tình tiết dưới đây thì Tòa án xác định hợp đồng thế chấp không vô hiệu do đối tượng của hợp đồng vẫn còn:
- Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tuân thủ đúng quy định của pháp luật;
- Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Việc áp dụng án lệ trong xét xử
Việc áp dụng án lệ trong xét xử phải tuân thủ theo những nguyên tắc quy định tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ:
“Điều 8. Áp dụng án lệ trong xét xử
Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.
Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.”
Như vậy, để Án lệ số 36 được áp dụng vào vụ án này thì nội dung vụ án được áp dụng và án lệ phải tương tự nhau.
Vậy trong câu hỏi anh gửi đến Công ty luật thì việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất trên nên hợp đồng thế chấp trên còn nguyên hiệu lực
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com