Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên theo quy định của pháp luật

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Công chứng năm 2014;

     II. Nội dung

  1. Khái niệm công chứng, công chứng viên

Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 thì:

“Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
  2. Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật này, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng…”

     2. Các quyền, nghĩa vụ của công chứng viên

– Các quyền của công chứng viên được quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật Công chứng năm 2014:

“Điều 17. Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên

  1. Công chứng viên có các quyền sau đây:

     a) Được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng;

     b) Tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng;

     c) Được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này;

     d) Đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện việc công chứng;

     đ) Được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội;

     e) Các quyền khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan…”

– Các nghĩa vụ của công chứng viên được quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật Công chứng năm 2014:

“Điều 17. Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên

  1. Công chứng viên có các nghĩa vụ sau đây:

     a) Tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng;

     b) Hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng;

     c) Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng;

     d) Giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng;

     đ) Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;

     e) Tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm;

     g) Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh;

     h) Tham gia tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên;

     i) Chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ chức hành nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên;

     k) Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.”

Như vậy, khi yêu cầu công chứng thì cần đặc biệt chú ý đến nghĩa vụ giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng và nghĩa vụ giữ bí mật về nội dung công chứng.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Chung về chỉ dẫn địa lý

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 và năm 2019;

     II. Nội dung

  1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý

Theo khoản 22 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 và năm 2019, Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể:

“Điều 4. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể…”

Chỉ dẫn địa lý cũng là 1 dạng quyền sở hữu công nghiệp theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 và năm 2019:

“Điều 4. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh…”

Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật sở hữu trí tuệ hoặc theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

  1. Điều kiện chung đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ

Theo Điều 79 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 và năm 2019, Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

“Điều 79. Điều kiện chung đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ

Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

  1. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý;
  2. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định.”

Như vậy, có 2 điều kiện chung đối với chỉ dẫn địa lý:

– Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý;

– Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định .

  1. Điều kiện về danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý

Điều kiện về danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được quy định tại Điều 81 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 và năm 2019:

“Điều 81. Danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý

  1. Danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được xác định bằng mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó thông qua mức độ rộng rãi người tiêu dùng biết đến và chọn lựa sản phẩm đó.
  2. Chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được xác định bằng một hoặc một số chỉ tiêu định tính, định lượng hoặc cảm quan về vật lý, hóa học, vi sinh và các chỉ tiêu đó phải có khả năng kiểm tra được bằng phương tiện kỹ thuật hoặc chuyên gia với phương pháp kiểm tra phù hợp.”

     4. Điều kiện địa lý liên quan đến chỉ dẫn địa lý

Điều kiện địa lý liên quan đến chỉ dẫn địa lý là những yếu tố tự nhiên, yếu tố về con người quyết định danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó.

Các yếu tố tự nhiện, yếu tố con người được quy định tại khoản 2, 3 Điều 82 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 và năm 2019:

“Điều 82. Điều kiện địa lý liên quan đến chỉ dẫn địa lý

  1. Yếu tố tự nhiên bao gồm yếu tố về khí hậu, thủy văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái và các điều kiện tự nhiên khác.
  2. Yếu tố về con người bao gồm kỹ năng, kỹ xảo của người sản xuất, quy trình sản xuất truyền thống của địa phương.”

     5. Khu vực địa lý mang chỉ dấn địa lý

Khu vực địa lý mang chỉ dấn địa lý là khái niệm được quy định tại Điều 83 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 và năm 2019:

“Điều 83. Khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý

Khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý có ranh giới được xác định một cách chính xác bằng từ ngữ và bản đồ.”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Chốt cửa sát hại vợ và sự xuất hiện kịp thời của hai đứa con

Tại phiên tòa xét xử người chồng giết vợ ở Hà Nội, nạn nhân đau khổ hỏi chồng: “Chốt cửa đâm em, sao anh ác thế?”.

TAND TP Hà Nội hôm 2/12 đưa Phùng Văn Chiến (SN 1989, ở Ba Vì) ra xét xử tội Giết người. Nạn nhân của Chiến là vợ bị cáo.

Cho rằng, người bị hại không chết là do được cấp cứu kịp thời, nằm ngoài ý chí chủ quan của bị cáo…, HĐXX tuyên phạt Chiến mức án 7 năm tù.

Trước đó, vào năm 2013, Chiến kết hôn với chị N. (SN 1989) và chung sống tại quê vợ ở Đông Anh, Hà Nội cùng con gái riêng của chị N.

 

Chốt cửa sát hại vợ và sự xuất hiện kịp thời của hai đứa con
Bị cáo tại tòa

 

Thời gian hôn nhân còn mặn nồng, hai người có thêm cậu con trai. Từ giữa tháng 4, Chiến nghi ngờ vợ có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác. Việc này khiến vợ chồng bị cáo thường xảy ra mâu thuẫn.

Khoảng 13h ngày 21/4, sau khi đi uống bia về, trong người đã có hơi men, Chiến lên phòng ngủ ở tầng hai. Thấy vợ đang nằm ngủ, bị cáo gọi chị N. dậy để nói chuyện.

Chị N. đáp: “Không nói chuyện gì hết, mày đi chán rồi, mày về lại còn lắm chuyện”. Bực tức vì thái độ của vợ, Chiến nảy sinh ý định giết chết chị N.

Anh ta xuống bếp ở tầng 1 lấy kéo rồi quay lại phòng ngủ, đóng chốt cửa lại. Lúc này chị N. đang nằm quay mặt vào trong tường ngủ.

Chiến đi lại giường, ngồi lên chân vợ, dùng tay giữ vợ rồi lấy kéo đâm 1 nhát trúng lưng chị N. Vừa nói: “Suốt ngày chửi tao, mở mồm ra là chửi”, Chiến đâm tiếp nhát thứ hai trúng cổ nạn nhân.

Chị N. xoay người nằm ngửa thì bị Chiến đâm thêm nhiều phát vào bụng, ngực. Lúc này, chị cố giằng co, túm tay cầm kéo, đẩy Chiến ra nên bị cáo không đâm được.

Qúa trình giằng co, Chiến bị kéo đâm trúng tay trái, gây chảy máu. Chị N. kêu cứu: “Nó giết tôi rồi”, “bố ơi nó giết con rồi”. Sau đó chị lật người nằm sấp và bị Chiến đâm thêm 1 nhát vào cổ, 3 nhát trúng lưng.

Đang chơi ở phòng bên cạnh, nghe thấy mẹ kêu cứu, hai con của chị N. chạy về phía phòng ngủ.

Cửa phòng ngủ đóng, nhưng có chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa ngoài, con gái chị N. mở cửa chạy vào. Thấy Chiến đang cầm kéo đâm vào lưng mẹ, cô bé giữ lấy tay cầm kéo của Chiến. Lúc này, con trai chị N. cũng chạy vào ôm lấy mẹ.

Không can ngăn được bị cáo, con gái chị N. chạy sang nhà ông ngoại ở đối diện kêu cứu.

Thấy con trai ôm sau lưng mẹ, Chiến không đâm vợ nữa mà cầm kéo bỏ chạy xuống tầng một.

Đúng lúc này, bố chị N. vào đến cổng. Bị cáo vội vứt kéo ở cửa phụ rồi vùng bỏ chạy.

Nạn nhân được người thân đưa đi cấp cứu kịp thời nên thoát chết. Về phần bị cáo, sau khi gây án, anh ta đến công an xã tự thú, khai nhận hành vi phạm tội.

Trình bày với HĐXX, chị N. cho hay: “Vợ chồng tôi có cãi nhau từ hôm trước, nhưng không ngờ anh ý chờ tôi ngủ say, chốt cửa đâm tôi thế”.

Tại tòa, Chiến thừa nhận hành vi phạm tội, quay xuống lí nhí nói lời xin lỗi vợ. Đáp lại, người vợ nói: “Sao anh ác thế, chờ tôi ngủ say rồi đâm”.

Không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự, chị N. có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho chồng.

Nước mắt vắn dài nhận án tù, bị cáo được đưa nhanh ra xe chở phạm nhân về trại tạm giam, để lại sau lưng người vợ và đứa con trai nhỏ buồn bã đứng nhìn theo đến hút tầm mắt.

Nguồn : vietnamnet.vn

Phần di chúc định đoạt bất động sản đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi

Câu hỏi :

Anh H.Đ.A ở Bắc Ninh có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Cha tôi là ông H.M.T chủ sở hữu quyền sử dụng đất của mảnh đất X là đất ở lâu dài và đã được cấp sổ đỏ. Mảnh đất X được ông định đoạt trong di chúc năm 2018 hợp lệ là trao toàn bộ cho tôi. Tháng 1 năm 2019, Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi tôi sinh sống ra Quyết định thu hổi toàn bộ quyền sử dụng mảnh đất trên vì lý do là thu hồi vì mục đích phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Năm 2020, cha tôi qua đời.

Tôi xin hỏi, di chúc của cha tôi đã định đoạt quyền sử dụng mảnh đất X nhưng khi ông chết thì quyền sử dụng mảnh đất trên đã bị thu hồi. Vậy phần di chúc định đoạt quyền sử dụng mảnh đất X có vô hiệu không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Đất đai năm 2013;
  • Bộ luật Dân sự năm 2015
  • Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2019;
  • Án lệ số 34/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05 tháng 02 năm 20 20 và được công bố theo Quyết định 50/QĐ-CA  ngày 25 tháng 02 năm 2020  của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

     II. Nội dung

Phần di chúc định đoạt phần diện tích mảnh đất X không vô hiệu.

  1. Khái niệm nhà nước công nhận quyền sử dụng đất

Theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định mà không có nguồn gốc được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đối với thửa đất xác định…”

Trong trường hợp này, do ông H.M.T đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất X nên có thể xác định ông H.M.T đã được Nhà nước công nhận ông H.M.T công nhận quyền sử dụng đất với thừa đất X.

  1. Điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2014 thì điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là:

“Điều 75. Điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

  1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp…”

Trong trường hợp này, mảnh đất X là đất ở, thuộc loại để ở lâu dài và đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đủ điều kiện  được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

 

 

  1. Nội dung cơ bản của Án lệ số 34/2020

Án lệ số 34/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05 tháng 02 năm 2016 và được công bố theo Quyết định 50/QĐ-CA ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nội dung cơ bản của Án lệ số 34/2020/AL:

 “[5]… di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1…”

Trường hợp này, phải xác định cụ D, cụ C có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.

Căn cứ vào Án lệ nêu trên, đối với những trường hợp đáp ứng đủ các tình tiết dưới đây thì xác định người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản trong di chúc là tài sản mà bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi:

  • Người lập di chúc là người có quyền sử dụng được cơ quan có thẩm quyền công nhận;
  • Tài sản được định đoạt trong di chúc là quyền sử dụng đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi;
  • Việc thu hồi của cơ quan có thẩm quyền là có đền bù;
  1. Việc áp dụng án lệ trong xét xử

Việc áp dụng án lệ trong xét xử phải tuân thủ theo những nguyên tắc quy định tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ:

“Điều 8. Áp dụng án lệ trong xét xử

Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.

Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.”

Như vậy, để Án lệ số 34 được áp dụng vào vụ án này thì nội dung vụ án được áp dụng và án lệ phải tương tự nhau.

Vậy trong câu hỏi anh gửi đến Công ty luật thì phần di chúc định đoạt phần diện tích mảnh đất X không vô hiệu mà được hiểu là giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên ông H.M.T có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho anh.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Bắt vợ nguyên Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

Bà Trần Thị Kim Loan, vợ nguyên Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu bị bắt để điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ngày 1/12, Cơ quan CSĐT (PC02) Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã thi hành lệnh bắt tạm giam 4 tháng đối với bà Trần Thị Kim Loan (SN 1966, ngụ TP Vũng Tàu), vợ nguyên Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để tiếp tục điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Trước đó, bà Loan bị nhiều người tố cáo vay hàng chục tỉ đồng nhưng không trả. Khi vay tiền, bà Loan nói để đáo hạn ngân hàng, làm giấy phép khai thác cát… Được biết, thời điểm vay tiền (năm 2018, 2019), bà Loan có mở công ty kinh doanh yến sào.

Nhiều nạn nhân vì tin tưởng nên đã cho bà Loan vay tiền, các lần vay tiền đều có giấy biên nhận hoặc giấy góp vốn. Người nhiều cũng vài chục tỉ đồng, người ít nhất cũng vài tỉ đồng. Thế nhưng, nhiều lần liên lạc đòi tiền thì bà Loan luôn tìm lý do trốn tránh.

 

Bắt vợ nguyên Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu - Ảnh 1.

                                   Bà Loan thời điểm bị bắt giữ

Sau nhiều lần nhận thấy bà Loan có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tiền nên họ đã gửi đơn tố cáo tới Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để xác minh, giải quyết.

Tháng 2/2020, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã ra thông báo yêu cầu bà Loan đến làm việc.

Ngoài điều tra việc bà Loan bị nhiều người tố cáo lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cơ quan công an còn xác minh việc bà Loan tố cáo nguợc lại những người khác có hành vi cho vay nặng lãi và bắt, giữ người trái pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình cơ quan công an điều tra, bà Loan không đến trụ sở công an làm việc.

Sau quá trình điều tra, ngày 23-10-2020, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra đối với bà Trần Thị Kim Loan về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Nguồn : vietnamnet.vn

Con rể sát hại mẹ vợ 73 tuổi vì bị la rầy

Bực tức vì bị la rầy, gã con rể ở An Giang dùng xẻng đánh mẹ vợ tử vong.

Sáng 1/12, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh An Giang đang tạm giữ hình sự Chau Done (49 tuổi, tạm trú xã An Tức, huyện Tri Tôn) để điều tra về hành vi giết người.

 

Con rể sát hại mẹ vợ 73 tuổi vì bị la rầy
Nghi phạm Chau Done tại cơ quan Công an

 

Khoảng 19h hôm 29/11, Chau Done cự cãi với vợ. Bà Néang Srây (mẹ vợ của Chau Done), sống bên cạnh nghe tiếng cự cãi nên qua can ngăn rồi về nằm nghỉ.

Lúc sau, nghe tiếng con gái và con rể tiếp tục cãi nhau nên người phụ nữ 73 tuổi tiếp tục qua khuyên răn. Chau Done bực tức, lấy cây xẻng sắt đánh vợ ngất xỉu. Gã hung hăng xông đến đánh mẹ vợ té ngã xuống đất.

Con rể sát hại mẹ vợ 73 tuổi vì bị la rầy
Cây xẻng sắt mà Chau Done dùng để sát hại mẹ vợ

 

Gây án xong, Chau Done bỏ đi. Người nhà phát hiện bà Srây nằm bất tỉnh dưới đất, đầu chảy nhiều máu liền đưa đi cấp cứu, nhưng nạn nhân đã tử vong. Còn Chau Done bị Công an bắt ngay sau đó.

Nguồn : vietnamnet.vn

Lái xe Grap ở Hà Nội bị đâm liên tiếp, cướp tài sản

Điều lái xe Grap đến đoạn đường vắng, hai kẻ lang thang khống chế, dùng dao đâm liên tiếp tài xế để cướp tài sản.

Hôm nay (30/11), TAND TP Hà Nội tuyên phạt Giàng Seo Diu (SN 2002, ở Lào Cai) mức án 18 năm tù vì tội Giết người, 8 năm tù vì tội Cướp tài sản.

HĐXX tuyên phạt Lưu Ngọc Vỹ (SN 2003, ở Thái Bình) 8 năm tù vì tội Giết người, 6 năm tù vì tội Cướp tài sản. Bị cáo Nguyễn Văn Sơn (SN 1997, ở Bắc Giang) nhận 9 tháng tù treo vì tội Không tố giác tội phạm.

 

Lái xe Grap ở Hà Nội bị đâm liên tiếp, cướp tài sản
Các bị cáo tại tòa

 

Diu và Vỹ vốn là hai kẻ không nghề nghiệp, bỏ nhà đi sống lang thang ở Hà Nội. Ngày 17/7, Diu mua dao gấp, rủ Vỹ đi cướp tài sản.

Khoảng 1h30 phút ngày 19/7, Diu mang theo dao, cùng Vỹ đến khu vực đường Tôn Thất Thuyết, thuê anh Nguyễn Văn Quyết (lái xe ôm công nghệ Grap) chở đi nhiều địa điểm khác nhau, sau đó chở đến đoạn đường đê sông Đuống.

Thấy đoạn đường vắng người qua lại, Diu bảo anh Quyết dừng xe, cùng lúc Vỹ khống chế, ôm giữ lái xe để Diu đâm 5 nhát vào ngực phải, lưng và cẳng tay anh Quyết, gây ra các vết thương có tỷ lệ tổn hại sức khỏe 52% cho nạn nhân.

Anh Quyết được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị kịp thời nên không bị tử vong. Cáo buộc cho rằng, nạn nhân không chết nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo.

Gây án xong, Diu và Vỹ chiếm đoạt của nạn nhân chiếc xe máy, ví da bên trong có 6,1 triệu đồng. Cả hai bỏ trốn ở Bắc Giang, mang xe máy của anh Quyết đi cầm cố lấy tiền chia nhau.

Đến ngày 23/7, khi đang ngồi chơi tại quán games ở đường Mỹ Đình, Vỹ kể cho bạn là Nguyễn Viết Sơn biết chuyện đã đâm lái xe ôm cướp tài sản.

Bị cáo Sơn biết chuyện bạn gây án nhưng không trình báo công an nên bị truy tố tội Không tố giác tội phạm.

Ngày 24/7, Diu bị công an phát hiện, bắt giữ, Vỹ đến CQĐT đầu thú

Nguồn : vietnamnet.vn

Trộm cắp tài sản của chính mình

Câu hỏi :

Anh L.P.H ở Hà Nội có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tôi thuê từ ông Đ.T.Đ 1 xe oto trong thời hạn 06 tháng với mức tiền thuê hàng tháng là 15.000.000 đồng. Khi tôi vẫn đang thuê xe thì ông Đ.T.Đ tự ý lấy xe mà không thông báo cho tôi.

Tôi xin hỏi, hành vi của ông Đ.T.Đ có cấu thành tội trộm cắp tài sản không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;

     II. Nội dung

  1. Cấu thành hành vi tội trộm cắp tài sản

Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì cấu thành cơ bản tội trộm cắp tài sản là:

“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

  1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:…”

Như vậy, hành vi khách quan của tội Trộm cắp tài sản là:

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, người quản lý tài sản, hoặc lợi dụng hoàn cảnh mà người quản lý tài sản không biết. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản cấu thành tội phạm khi thuộc một trong các trường hợp sau:

– Tài sản trộm cắp có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên;

– Gây hậu quả nghiêm trọng;

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản;

– Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và chưa được xóa án tích

– Có hậu quả xảy ra là tài sản bị chiếm đoạt thuộc một trong các trường hợp:

Với những tài sản to lớn, cồng kềnh, người phạm tội phải chuyển được tài sản đó ra khỏi phạm vi cất giữ

Với nhưng tài sản nhỏ, dễ cất giấu, chỉ cần đưa tài sản ra khỏi vị trí cất giữ ban đầu

Với tài sản không có nơi cất giữ riêng, người phạm tội phải đưa tài sản đó ra khỏi địa bàn (địa điểm phạm tội) thì tội mới hoàn thành.

Ngoại lệ: Tài sản từ 2 triệu đồng trở lên, nếu có giá trị rất lớn như ô tô, xe máy, máy tính… thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì vẫn bị coi là phạm tội.

Như vậy, đối tượng trộm cắp của tội trộm cắp tài sản phải là tài sản của người khác.

  1. Khái niệm tài sản

Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tài sản là:

“Điều 105. Tài sản

  1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản…”

Theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 115. Quyền tài sản

Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”

Do quyền sử dụng tài sản thuê có thể trị giá được bằng tiền và không phải là quyền nhân thân nên có thể chuyển giao được nên quyền sử dụng tài sản thuê là một quyền tài sản.

Như vậy, quyền sử dụng tài sản thuê cũng là 1 dạng quyền tài sản nên theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quyền sử dụng tài sản thuê là một tài sản. Do quyền sử dụng tài sản thuê đang thuộc về anh với giao kết bằng hợp đồng thuê tài sản nên việc ông Đ.T.Đ tự ý sử dụng tài sản thuê của anh mà không thông báo là cấu thành hành vi khách quan tội trộm cắp tài sản.

Vậy, hành vi của anh Đ.T.Đ có thể cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Văn bản chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Câu hỏi :

Anh T.H.Đ ở Hà Nội có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Do là chỗ bạn bè quen biết nhau từ lâu nên ngày 29/10/2015 tôi có cho anh N.V.N vay khoản tiền là 300.000.000 đồng (có giấy biên nhận). Đến năm 2018, do có nhiều nhu cầu về vốn nên tôi yêu cầu anh N trả nợ nhưng anh N viện lý do tình hình kinh doanh gặp khó khăn nên khất nợ tôi. Sau đó 2 tháng, tôi tình cờ gặp mặt một người bạn cũng cho anh N vay tiền thì biết được công ty của anh N đã giải thể và tài sản của anh N đã được chuyển giao cho chị H – vợ anh N bằng văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng đã được công chứng ngày 5/3/2018.

Thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa anh N và chị H nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ với tôi. Tôi xin hỏi, việc chia tài sản chung của vợ chồng anh N như vậy có hợp pháp không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

     II. Nội dung

  1. Khái niệm thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Trong thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn dược chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bởi vợ chồng có mẫu thuẫn trong quản lý tài chính hoặc nhiều lý do khác. Do đó, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có nhu cầu thì có quyền thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng như sau:

Vợ, chồng tự thỏa thuận phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung;

Vợ, chồng yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Điều 38. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

  1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết…”

Hình thức của thỏa thuận: Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bắt buộc là văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Điều 38. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

  1. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật…”

Thời điêm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:

Theo quy định tại Điều 39 Luật hôn nhân và gia đình 2014, việc chia tài sản cung trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo từng trường hợp như sau:

“Điều 39. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

  1. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
  2. Trong trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định.
  3. Trong trường hợp Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
  4. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”

     2. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu

Điểm d khoản 2 Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định, việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ chung của vợ chồng nhằm trồn tránh nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức không được pháp luật công nhận:

“Điều 42. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu

Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  1. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

     d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;…”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ

Câu hỏi :

Anh L.N.N ở Hà Nam có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Ngân hàng V và tôi cùng xác nhận giữa Ngân hàng V và tôi có ký kết Hợp đồng tín dụng số 10.36.**15 và Hợp đồng thế chấp số 10.36.**15 ngày 16 tháng 11 năm 2013. Tài sản thế chấp là diện tích đất X theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ5**493 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 14-7-2004 đứng tên tôi. Tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện B.

Ủy ban nhân dân huyện B đã ban hành Quyết định số 30*3/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ5**493 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 14-7-2004 mang tên tôi. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi.

Tôi xin hỏi, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên có  vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này không còn không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Đất đai năm 2003;
  • Bộ luật Dân sự năm 2005;
  • Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm do Chính phủ ban hành ngày 29 tháng 12 năm 2006;
  • Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2019;
  • Án lệ số /20/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày  tháng  năm 20  và được công bố theo Quyết định /QĐ-CA  ngày  tháng  năm 20  của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

     II. Nội dung

Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất trên nên hợp đồng thế chấp trên còn nguyên hiệu lực.

  1. Giao dịch bảo đảm

Theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hình thức của giao dịch bảo đảm thế chấp tài sản là:

“Điều 343. Hình thức thế chấp tài sản

Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.”

 

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 10 và điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, quy định của pháp luật về việc thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên là:

“Điều 10. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm

  1. Giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ các trường hợp sau đây:

     c) Việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp;…

Điều 12. Đăng ký giao dịch bảo đảm

  1. Các trường hợp phải đăng ký bao gồm:

     a) Thế chấp quyền sử dụng đất;…”

Như vậy, việc thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên là đúng quy định của pháp luật.

  1. Việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có làm thay đổi quyền sử dụng đất

Đối tượng của hợp đồng thế chấp tài sản trên là quyền sử dụng thừa đất X.

Theo quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 thì:

“Điều 4. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất…”

Như vậy, việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thu hồi Giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước cấp cho người sử dụng đất.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 thì thu hồi đất là:

“Điều 4. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này…”

Như vậy, việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất X.

 

 

  1. Nội dung cơ bản của Án lệ số 36/2020

Án lệ số 36/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05 tháng 02 năm 2020 và được công bố theo Quyết định 50/QĐ-CA ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nội dung cơ bản của Án lệ số /20/AL:

  “[2] Ngày 31-8-2011, Ủy ban nhân dân thị xã B đã ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B cấp ngày 14-7-2004 mang tên ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông C, bà T. Tuy nhiên việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông C, bà T, vì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Trần Thị Ngọc H, ông Trần Huỳnh L và vợ chồng ông C, bà T đã hoàn tất, các bên không có tranh chấp gì về Hợp đồng chuyển nhượng này.

[3] Mặt khác, trước khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T bị thu hồi, ông C, bà T đã thế chấp quyền sử dụng đất này cho Ngân hàng nhiều lần để vay tiền, gần nhất là ngày 19-3-2010. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ Điều 411 Bộ luật Dân sự năm 2005 cho rằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 nêu trên vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này không còn là không đúng.”

Trường hợp này, do hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất nên đối tượng của hợp đồng vẫn còn.

Căn cứ vào Án lệ nêu trên, đối với những trường hợp đáp ứng đủ các tình tiết dưới đây thì Tòa án xác định hợp đồng thế chấp không vô hiệu do đối tượng của hợp đồng vẫn còn:

  • Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tuân thủ đúng quy định của pháp luật;
  • Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
  1. Việc áp dụng án lệ trong xét xử

Việc áp dụng án lệ trong xét xử phải tuân thủ theo những nguyên tắc quy định tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ:

“Điều 8. Áp dụng án lệ trong xét xử

Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.

Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.”

Như vậy, để Án lệ số 36 được áp dụng vào vụ án này thì nội dung vụ án được áp dụng và án lệ phải tương tự nhau.

Vậy trong câu hỏi anh gửi đến Công ty luật thì việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất trên nên hợp đồng thế chấp trên còn nguyên hiệu lực

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các hoạt động kinh doanh không phải đăng ký kinh doanh

     I. Cơ sở pháp lý

  • Nghị định 39/2007/NĐ-CP về việc cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh do Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 03 năm 2007;

     II. Nội dung

Cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại.

Cụ thể bao gồm những cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP về việc cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Nghị định này, một số từ ngữ đ­ược hiểu nh­ư sau:

  1. Cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác như­ng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại. Cụ thể bao gồm những cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây:

     a) Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các th­ương nhân đ­ược phép kinh doanh các sản phẩm này theo quy định của pháp luật để bán rong;

     b) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định;

     c) Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc không có địa điểm cố định;

     d) Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ;

     đ) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe, trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không có địa điểm cố định;

     e) Các hoạt động thương mại một cách độc lập, th­ường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác…”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Vụ xác người giấu trong vali: Lạnh người về động cơ gây án thật sự

Nghi phạm Jeong In Cheol thừa nhận động cơ thực sự ra tay tàn độc với bạn đồng hương và khi gây án đã tẩm thuốc ngủ cực mạnh vào bia cho nạn nhân uống.

Liên quan đến vụ xác người giấu trong vali gây xôn xao dư luận, nguồn thông tin cho hay, đã làm rõ lời khai của nghi phạm Jeong In Cheol (SN 1985, quốc tịch Hàn Quốc).

Qua đấu tranh, Jeong In Choel đã thừa nhận toàn bộ hành vi “giết người” và “cướp tài sản” nhưng khai ra động cơ thực sự là xuất phát từ chuyện nạn nhân Han Tong Duk (SN 1987, quốc tịch Hàn Quốc) nợ tiền nhưng không chịu trả.

 

Vụ xác người giấu trong vali: Lạnh người về động cơ gây án thật sự
 Nghi phạm Jeong In Cheol khai động cơ thực sự gây án là do đòi nợ bạn đồng hương nhưng không được

 

Cụ thể, đầu năm 2018 Jeong In Cheol thuê căn nhà số 24 (đường số 3, khu dân cư Him Lam, phương Tân Hưng, quận 7) để mở công ty Crearta Việt Nam.

Hoạt động về lĩnh vực cung cấp giải pháp marketing cho các sản phẩm Hàn Quốc và môi giới đa lĩnh vực nên những năm trước công ty của Jeong In Cheol phát triển bình thường. Giai đoạn dịch Covid-19 đến nay thì công ty cũng có khó khăn theo tình hình chung nhưng không vỡ nợ.

Jeong In Cheol khai bản chất thật sự là, trước đây nạn nhân Han Tong Duk đã mượn của Jeong In Cheol số tiền vài tỷ đồng VN. Khi tình hình kinh doanh khó khăn, Jeong In Cheol đòi tiền thì nạn nhân Han Tong Duk cứ hứa hẹn, không chịu trả. Trong khi đó để có tiền xoay sở, Jeong In Cheol đã vay mượn khắp nơi.

Áp lực nợ nần vây quanh

Gần đây, các chủ nợ gây áp lực để đòi nợ Jeong In Cheol khiến nghi phạm sống bất an….

 

Vụ xác người giấu trong vali: Lạnh người về động cơ gây án thật sự
Jeong In cheol đã có kế hoạch chi tiết để thủ tiêu người bạn đồng hương vì nợ không chịu trả

 

Bị áp lực nợ nần vây quanh và nghĩ Han Tong Duk quỵt nợ mình nên Jeong In Cheol bực tức, nghĩ đến chuyện “thủ tiêu” người đồng hương.

Trước khi gây án 1 ngày, tức vào ngày 25/11 Jeong In Cheol đã mua 2 cưa tay, 1 kiềm cộng lực để mang về ngôi nhà số 24, đường số 3, khu dân cư Him Lam. Tại đây, Jeong In Cheol đã lên kế hoạch chi tiết.

Chiều 26/11 Jeong In Cheol gọi điện hẹn Han Tong Duk đến trụ sở công ty của mình để nói chuyện, giải quyết nợ nần. Khi Han Tong Duk lái ô tô đến thì Jeong In Cheol đóng vai giả lả thân tình.

Không nhắc về chuyện nợ nần nhiều, Jeong In Cheol mời bạn uống bia.

Nguồn thông tin cho hay, đến nay cơ quan điều tra đã xác định rõ, Jeong In Cheol đã bỏ thuốc ngủ cực mạnh vào bia để chuốc cho Han Tong Duk uống, rồi nhanh chóng gục tại chỗ.

Jeong In Cheol đã dùng tay bóp miệng, mũi cũa Han Tong Duk cho đến khi nạn nhân tử vong.

Trong đêm 26/11 Jeong In Cheol đã phân xác nạn nhân thành nhiều đoạn bỏ trong valy du lịch màu hồng tại nhà vệ sinh tầng 1 và các bịch nilong tại nhà vệ sinh tầng 3 của ngôi nhà.

Động cơ thực chất mà Jeong In Cheol gây án là bực tức khi đòi nợ bạn không được nên phân xác cho hả cơn giận. Dù ban đầu không tính toán chuyện cướp tài sản nhưng lúc đó Jeong In Cheol đã lục soát lấy của Han Tong Duk 2 lượng vàng và số tiền mặt, tổng cộng khoảng 200 triệu đồng. Jeong In Cheol còn cướp xe ô tô của Han Tong Duk để tẩu thoát.

Chiều tối 27/11 khi phát hiện vali và những bịch nilong chứa những đoạn thi thể người thì Ban GĐ Công an TP.HCM đã giao trách nhiệm cho phòng Cảnh sát hình sự làm chủ công phá án. Theo dấu chiếc xe, đến chiều 28/11, trinh sát phòng Cảnh sát hình sự đã bắt giữ được nghi phạm Jeong In Cheol đang ẩn náu tại nhà 1 người bạn tại chung cư Masteri Thảo Điền, quận 2.

Nguồn : vietnamnet.vn