Ông Đinh La Thăng phản bác cáo trạng

Cựu bộ trưởng Đinh La Thăng bị xét hỏi trong ngày thứ ba diễn ra phiên tòa, phản bác cáo buộc “can thiệp cấp dưới” để Út “Trọc” mua được quyền thu phí cao tốc.

Sáng 16/12, TAND TP HCM tiếp tục xét xử ông Thăng; nguyên thứ trưởng Giao thông Vận tải (GTVT) Nguyễn Hồng Trường; cựu thượng tá quân đội Đinh Ngọc Hệ (49 tuổi, nguyên phó giám đốc Tổng Công ty Thái Sơn, Bộ Quốc phòng) cùng 17 bị cáo về các sai phạm khi bán quyền thu phí cao tốc Trung Lương và “ăn chặn” tiền của nhà nước, gây thiệt hại 725 tỷ đồng.

Ông Thăng được HĐXX gọi thẩm vấn, sau khi đã xét hỏi hơn 10 bị cáo. Trong vụ án này, cựu bộ trưởng GTVT bị cáo buộc “phớt lờ” các quy định khi chỉ đạo chuyển giao quyền thu phí cao tốc TP HCM – Trung Lương. Ông Thăng biết Công ty Yên Khánh (của Đinh Ngọc Hệ) không thanh toán tiền trúng đấu giá như cam kết, vi phạm quy chế bán đấu giá, hợp đồng phải bị chấm dứt trước hạn và phải trả lại quyền thu phí cho Nhà nước nhưng đã can thiệp cho Hệ “trả từ từ”.

 

Chủ tọa xét hỏi bị cáo Đinh La Thăng. Ảnh: Hữu Khoa.
Chủ tọa xét hỏi bị cáo Đinh La Thăng.

Trả lời HĐXX, cựu bộ trưởng GTVT giọng khá to, rõ ràng. Ông Thăng cho rằng lời khai của các bị cáo khác “có ý đúng, có ý chưa đúng”. “Ví dụ, ông Trường nói tất cả văn bản gửi cho bộ trưởng là không đúng. Quyết định về giá tài sản, đơn vị trúng đấu giá, hợp đồng hai bên ký với nhau không gửi cho tôi. Tôi ở tù nên chỉ tiếp nhận những tài liệu của cơ quan điều tra gửi”.

Theo ông Thăng, dự án này ông không trực tiếp chỉ đạo, đã giao cho thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường, chỉ những văn bản nào ông này không ký được mà trình lên thì Bộ trưởng mới ký. Tương tự như ở giai đoạn sau, tháng 6/2015, khi Thứ trưởng Nguyễn Văn Thể (hiện là Bộ trưởng GTVT) thay ông Trường, trình ký văn bản liên quan Công ty Yên Khánh, bị cáo mới bút phê “đề nghị làm đúng pháp luật”.

Chủ tọa hỏi: “Trong việc Công ty Yên Khánh tham gia mua quyền thu phí, Hệ và Minh (Dương Tuấn Minh, Tổng giám đốc Công ty Cửu Long, quản lý cao tốc, thuộc Bộ GTVT) khai là bị cáo gọi điện cho bị cáo Minh để giới thiệu Hệ?”.

“Tôi không gọi”, ông Thăng trả lời. “Ông Minh không có vai trò nhiệm vụ gì trong đó. Hơn nữa, việc này thuộc thẩm quyền của Bộ nên không có lý gì mà tôi phải gọi cho ông Minh”.

Cựu bộ trưởng cũng nói thêm: “Cáo trạng nêu bị cáo và Hệ ‘có mối quan hệ từ trước nên giới thiệu’ là mang tính suy đoán, không có căn cứ bởi có những bị cáo đến đây tôi mới gặp, chứ không tác động gì. Cáo trạng nêu như vậy sai sự thật, quy chụp tôi”.

Ngoài ra, ông Thăng nhiều lần xin trình bày cho rõ về việc không gọi điện cho Dương Tuấn Minh để giới thiệu, song chủ toạ ngắt lời, yêu cầu “không trình bày, chỉ nói có hoặc không”.

* Tiếp tục cập nhật.

Ông Đinh La Thăng được đưa đến tòa sáng 16/12. Ảnh: Hữu Khoa.

Ông Đinh La Thăng được đưa đến tòa sáng 16/12.

 

Theo cáo trạng, ông Thăng nhận thức rất rõ quyền thu phí cao tốc Trung Lương là tài sản đặc thù, có giá trị lớn, cần tìm đối tác có năng lực tài chính để tối ưu hóa việc bán quyền thu phí, nhưng vẫn giúp công ty của Đinh Ngọc Hệ (kinh doanh thua lỗ, không có năng lực tài chính) mua được quyền thu phí. Hành vi này của ông Thăng bị cho là xuất phát từ mối quan hệ quen biết từ trước với thượng tá quân đội, tạo tiền đề cho Hệ có cơ hội chiếm đoạt 725 tỷ đồng của Nhà nước.

Tháng 2/2012, ông Thăng điện thoại chỉ đạo Dương Tuấn Minh (nguyên Tổng giám đốc Tổng Công ty Đầu tư phát triển và quản lý dự án hạ tầng giao thông Cửu Long, thuộc Bộ GTVT, quản lý cao tốc Trung Lương) “tạo điều kiện” để công ty của Hệ trúng thầu quyền thu phí cao tốc. Khi doanh nghiệp chậm thanh toán tiền, ông Thăng yêu cầu “để doanh nghiệp trả từ từ”.

Quá trình tổ chức đấu giá, ông Thăng ký quyết định thành lập Hội đồng bán đấu giá quyền thu phí và Tổ thường trực giúp việc, giao thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường làm Chủ tịch. Toàn bộ hoạt động xây dựng hoàn thiện đề án và kết quả bán đấu giá được ông Trường báo cáo Bộ trưởng. Thông qua các tài liệu này, ông Thăng biết việc bán đấu giá không thực hiện đúng quy định của pháp luật, để cho Công ty Yên Khánh trúng thầu theo ý định ban đầu của mình.

Ngoài ra, ông Thăng còn bút phê đề xuất để Công ty Yên Khánh làm nhà đầu tư xây dựng bổ sung hai nút giao thông trên tuyến nối Tân Tạo – Chợ Đệm và đề nghị cho công ty này cấn trừ vào tiền phải thanh toán theo hợp đồng mua quyền thu phí, dẫn đến việc doanh nghiệp tiếp tục không thanh toán đúng theo quy định.

Năm 2018, ông Thăng bị phạt 30 năm tù (mức cao nhất của hình phạt có thời hạn) trong hai vụ án xảy ra tại Tổng Công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng TMCP Đại Dương. Hồi đầu năm, ông tiếp tục bị đề nghị truy tố trong vụ án chỉ định nhà thầu thực hiện dự án Ethanol Phú Thọ, gây thiệt hại hơn 600 tỷ đồng.

Nguồn : vnexpress

Xây dựng trên đất quy hoạch treo

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Xây dựng năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2020;
  • Thông tư 15/2016/TT-BXD hướng dẫn về cấp giấy phép xây dựng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành ngày 30 tháng 06 năm 2016;

     II. Nội dung

  1. Quy hoạch treo là gì?

Theo quy định tại khoản 33 Điều 1 Luật Xây dựng sửa đổi năm 2020 như sau:

“5. ..

Trường hợp sau 03 năm kể từ ngày công bố kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố mà không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất được quyền đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.”

Theo đó, từ ngày 01/01/2021, sau thời gian 3 năm nếu:

– Đất được công bố thuộc diện quy hoạch nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa thu hồi đất để thực hiện dự án; hoặc

– Đất chưa cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố mà không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện;

Thì đất đó được coi là có quy hoạch treo và người sử dụng đất được quyền đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn.

  1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép xây dựng mới

Theo Điều 14 Thông tư 15/2016/TT-BXD thì hồ sơ đề nghị cấp GPXD mới bao gồm:

“Điều 14. Giấy phép xây dựng có thời hạn

  1. Căn cứ quy định tại Điều 94 Luật Xây dựng năm 2014 và trên cơ sở kế hoạch thực hiện quy hoạch xây dựng, vị trí xây dựng công trình, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định cụ thể quy mô công trình, chiều cao tối đa, thời gian được phép tồn tại của công trình để làm căn cứ cấp giấy phép xây dựng có thời hạn, bảo đảm an toàn, vệ sinh môi trường, phòng chống cháy – nổ, kiến trúc, cảnh quan, đáp ứng các Điều kiện về hạ tầng kỹ thuật và các quy định của pháp luật có liên quan.
  2. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn như quy định đối với từng loại công trình, nhà ở riêng lẻ quy định tại các Điều 8, 11, 12, 13 Thông tư này. Riêng tiêu đề của đơn được đổi thành “Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn”.
  3. Trường hợp công trình theo giấy phép xây dựng có thời hạn hết thời gian tồn tại, nhưng Nhà nước vẫn chưa thực hiện quy hoạch xây dựng, nếu chủ đầu tư có nhu cầu sử dụng tiếp thì đề nghị với cơ quan cấp phép xem xét cho phép kéo dài thời hạn tồn tại.”

Hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ

– Số lượng hồ sơ: Chủ đầu tư phải chuẩn bị 02 bộ hồ sơ;

– Thành phần hồ sơ: Theo Điều 11 Thông tư 15/2016/TT-BXD, hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ gồm các giấy tờ sau:

+ Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng theo mẫu tại Phụ lục số 1;

+ Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

+ Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính hai bộ bản vẽ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt theo quy định của pháp luật về xây dựng, mỗi bộ gồm:

+ Bản vẽ mặt bằng công trình trên lô đất tỷ lệ 1/50 – 1/500 kèm theo sơ đồ vị trí công trình;

+ Bản vẽ mặt bằng các tầng, các mặt đứng và mặt cắt chính của công trình tỷ lệ 1/50 – 1/200;

+ Bản vẽ mặt bằng móng tỷ lệ 1/50 – 1/200 và mặt cắt móng tỷ lệ 1/50 kèm theo sơ đồ đấu nối hệ thống thoát nước mưa, xử lý nước thải, cấp nước, cấp điện, thông tin tỷ lệ 1/50 – 1/200.

+ Trường hợp thiết kế xây dựng của công trình đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định, các bản vẽ thiết kế quy định tại nội dung này là bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp các bản vẽ thiết kế xây dựng đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định.

– Đối với công trình xây chen có tầng hầm, ngoài các tài liệu quy định tại điểm 1, 2, 3 nội dung này, hồ sơ còn phải bổ sung bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính văn bản chấp thuận biện pháp thi công móng của chủ đầu tư đảm bảo an toàn cho công trình và công trình lân cận.

– Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết của chủ đầu tư bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thủ tục cấp phép xây dựng nhà ở riêng lẻ năm 2019

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Xây dựng năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2020;
  • Thông tư 15/2016/TT-BXD hướng dẫn về cấp giấy phép xây dựng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2016;
  • Thông tư 96/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư 250/2016/TT-BTC hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 27 tháng 9 năm 2017;

     II. Nội dung

Giấy phép xây dựng là văn bản pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho chủ đầu tư để xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo, di dời công trình.

Xét theo thời gian xây dựng, Giấy phép xây dựng được chia thành 02 loại bao gồm:

– Giấy phép xây dựng có thời hạn là Giấy phép xây dựng cấp cho xây dựng công trình, nhà ở riêng lẻ được sử dụng trong thời hạn nhất định theo kế hoạch thực hiện quy hoạch xây dựng.

– Giấy phép xây dựng theo giai đoạn là Giấy phép xây dựng cấp cho từng phần của công trình hoặc từng công trình của dự án khi thiết kế xây dựng của công trình hoặc của dự án chưa được thực hiện xong.

Xét theo tính chất của hoạt động xây dựng, Giấy phép xây dựng được cấp theo 03 hạng mục cơ bản:

– Giấy phép xây dựng mới;

– Giấy phép sửa chữa, cải tạo;

– Giấy phép di dời công trình.

Theo đó, để được cấp giấy phép xây dựng mới thì nhà ở phải đáp ứng được một số điều kiện và trình tự cụ thể:

  1. Điều kiện chung để được cấp giấy phép xây dựng

+ Đối với nhà ở riêng lẻ tại đô thị:

– Phù hợp với mục đích sử dụng đất theo quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt;

– Bảo đảm an toàn cho công trình, công trình lân cận và yêu cầu về bảo vệ môi trường, phòng, chống cháy, nổ; bảo đảm an toàn hạ tầng kỹ thuật, hành lang bảo vệ công trình thuỷ lợi, đê điều, năng lượng, giao thông; bảo đảm khoảng cách an toàn đến công trình dễ cháy, nổ, độc hại…;

 

– Thiết kế xây dựng nhà ở riêng lẻ được thực hiện theo quy định;

– Ngoài ra, nhà ở riêng lẻ tại đô thị phải phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng; nhà ở riêng lẻ thuộc khu vực, tuyến phố trong đô thị đã ổn định nhưng chưa có quy hoạch chi tiết xây dựng thì phải phù hợp với quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị hoặc thiết kế đô thị.

+ Đối với nhà ở riêng lẻ tại nông thôn gồm:

Trường hợp nhà ở riêng lẻ tại nông thôn khi xây dựng phải phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn.

 

 

  1. Thủ tục bao gồm

Hồ sơ thủ tục

– Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng theo mẫu.

– Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

– Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính hai bộ bản vẽ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt theo quy định của pháp luật về xây dựng, mỗi bộ gồm:

+ Bản vẽ mặt bằng công trình trên lô đất tỷ lệ 1/50 – 1/500 kèm theo sơ đồ vị trí công trình;

+ Bản vẽ mặt bằng các tầng, các mặt đứng và mặt cắt chính của công trình tỷ lệ 1/50 – 1/200;

+ Bản vẽ mặt bằng móng tỷ lệ 1/50 – 1/200 và mặt cắt móng tỷ lệ 1/50 kèm theo sơ đồ đấu nối hệ thống thoát nước mưa, xử lý nước thải, cấp nước, cấp điện, thông tin tỷ lệ 1/50 – 1/200.

Trường hợp thiết kế xây dựng của công trình đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định, các bản vẽ thiết kế nêu trên là bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp các bản vẽ thiết kế xây dựng đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định.

– Đối với công trình xây chen có tầng hầm, ngoài các tài liệu đã nêu, hồ sơ còn phải bổ sung bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính văn bản chấp thuận biện pháp thi công móng của chủ đầu tư đảm bảo an toàn cho công trình và công trình lân cận.

– Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết của chủ đầu tư bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.

  1. Thẩm quyền

Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép xây dựng là Ủy ban nhân dân cấp huyện.

 

  1. Thời hạn giải quyết

Thời gian cấp Giấy phép xây dựng là 15 ngày đối với nhà ở riêng lẻ, trường hợp đến thời hạn cấp giấy phép nhưng cần phải xem xét thêm thì cơ quan cấp giấy phép phải thông báo bằng văn bản và thời gian không được quá 10 ngày kể từ ngày hết hạn.

  1. Lệ phí cấp giấy phép xây dựng.

Do Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Di chúc bằng tiếng dân tộc ít người dùng chữ Hán giản thể để kí âm

Câu hỏi :

Anh V.A.M ở Sơn La có gửi câu hỏi cho Công ty luật như sau:

Cha tôi là ông V.T.A có quốc tịch Việt Nam, dân tộc Miêu. Dân tộc Miêu có tiếng nói riêng nhưng không có hệ thống chữ viết riêng. Trong những ngày cuối đời, ông V.T.A dùng chữ Hán giản thể để kí âm tiếng nói người Miêu (cùng cách làm của chữ Nôm của người Kinh). Di chúc của ông A không được công chứng.

Vậy có cơ sở để công nhận di chúc của ông A không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Nghị định 206-CP năm 1961 quy định việc dùng chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ Mèo ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo do Hội Đồng Chính Phủ ban hành ngày 27 tháng 11 năm 1961;

     II. Nội dung

Di chúc trên không được công nhận hiệu lực.

  1. Hình thức của di chúc

Theo quy định tại khoản 5 Điều 647 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 647. Công bố di chúc

  1. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.”

Do Việt Nam là đất nước đa dân tộc nên trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều tiếng nói khác nhau, vì vậy tiếng nói của các dân tộc thiểu số không được xác định là tiếng nước ngoài nên không yêu cầu phải được công chứng bản dịch sang tiếng Việt. Tuy nhiên, để di chúc được công nhận hiệu lực thì chữ viết dùng để thể hiện di chúc đó phải là chữ viết theo quy chuẩn và đã được công nhận.

  1. Chữ viết tiếng dân tộc Miêu được công nhận

Theo quy định tại điểm c Điều 2 Nghị định 206-CP năm 1961 quy định việc dùng chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ Mèo ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo do Hội Đồng Chính Phủ ban hành thì:

“Điều 2: – Ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo, chữ Tày- Nùng, chữ Thái và chữ Mèo đều coi là chữ chính thức và được dùng:

     c) Trong công văn, giấy tờ của các cơ quan Nhà nước và trong các hoạt động khác, tuỳ theo sự cần thiết của địa phương.”

Như vậy, việc dùng chữ Hán giản thể để kí âm tiếng nói người Miêu không phải là cách chính thức, và chữ viết theo cách viết này không được công nhận.

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 630. Di chúc hợp pháp

  1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

     a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

     b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

  1. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này…”

Vậy, do di chúc này không được lập bằng ngôn ngữ được công nhận và  di chúc này cũng không được công chứng, chứng thực nên di chúc này không đủ điều kiện để được coi là hợp pháp.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Lời khai của các bị cáo trong vụ Tuấn “khỉ” giết 5 người ở Củ Chi

Tại tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội nhưng khai, không biết Tuấn “khỉ” xả súng ở sòng bài khiến 5 người chết để cướp tiền.

Ngày 15/4, TAND TP.HCM mở phiên xét xử 19 bị cáo liên quan vụ án Lê Quốc Tuấn (tức Tuấn “Khỉ”) dùng súng bắn 5 người tử vong về các tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

 

Lời khai của các bị cáo trong vụ Tuấn 'khỉ' giết 5 người ở Củ Chi
Từ sáng sớm các bị cáo được dẫn giải tới tòa

 

Từ sáng sớm, hàng chục người thân của các bị cáo và bị hại đã có mặt tại cổng tòa. Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh, lực lượng bảo vệ chỉ cho phép những người có giấy mời vào tham dự phiên tòa.

Sau gần 3 tiếng kiểm tra căn cước và công bố cáo trạng, phiên tòa bước vào phần xét xử.

Khai tại tòa, bị cáo Phạm Thanh Tâm (Tý “Ba dòm”) thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Tý “Ba dòm”, khai khi nhận bọc đồ của Tuấn “khỉ” đưa, bị cáo hoàn toàn không biết bên trong là tiền. Tý “Ba dòm” khẳng định thời điểm đó chưa biết Tuấn vừa bắn chết người, cướp tiền.

Bị cáo Trần Quốc Đạt cũng thừa nhận hành vi phạm tội. Theo lời khai của Đạt, sau khi nhận được 2 khẩu súng, đạn của Tý “Ba dòm” đưa, bị cáo đã mang về miền Tây cất giữ.

Đạt khai, không biết loại súng gì, sau đó trả lại cho Tý “Ba dòm” 1 khẩu, còn 1 khẩu mang bán lấy tiền chạy trốn.

 

Lời khai của các bị cáo trong vụ Tuấn 'khỉ' giết 5 người ở Củ Chi
Các bị cáo khẳng định không biết Tuấn ‘khỉ’ thảm sát 5 người ở Củ Chi

Bị cáo Lê Văn Tâm nói không biết nguồn gốc chiếc túi chứa 802 triệu đồng. “Hôm đó, sinh nhật bị cáo. Bị cáo đi nhậu thì anh Tý “Ba dòm” gặp bị cáo và nhờ cầm cái túi chứ không bàn bạc. Khi tôi đưa về nhà thì anh Tý “ba dòm” mới nói túi tiền do Tuấn đưa”, Tâm khai.

Theo truy tố, chiều ngày 29/1, Tuấn đến sới bạc trong khu vườn nhãn ở ấp 5, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi để sát phạt cùng một số người khác. Khi hết tiền, Tuấn nhờ Lê Quốc Minh (em họ Tuấn) về nhà mẹ đẻ lấy 100 triệu đồng.

Tuy nhiên, do phát sinh mâu thuẫn với những người trong sới bạc nên Tuấn bỏ đi. Một lúc sau, anh ta quay lại, xả súng vào sòng bạc khiến 4 người chết, 1 người bị thương.
Gây án xong, Tuấn cướp 1 xe SH cùng túi tiền 802 triệu đồng của người trong sòng bạc và tẩu thoát. Trong lúc trốn chạy, Tuấn cướp 2 xe máy khác, bắn chết thêm 1 người và làm bị thương 2 người.

Sau đó, Tuấn gặp Võ Hồng Tâm và Nguyễn Duy Thanh (em họ Tuấn) nhờ giúp đỡ. Dù biết Tuấn vừa gây tội ác nhưng hai người này vẫn giúp gã lẩn trốn. Cả hai còn lên kế hoạch đưa Tuấn tới Vũng Tàu bằng xe taxi.

Kế hoạch không thành khi tối ngày 13, rạng sáng 14/2, cảnh sát phát hiện vị trí ẩn nấp của Tuấn “khỉ” và tổ chức bao vây. Khi anh ta chống trả thì bị tiêu diệt.

Nguồn : vietnamnet.vn

Tử hình gã chồng ghen tuông sát hại vợ và con nhỏ ở Hà Nội

Hôn nhân của Quách Văn Nam (ở Hà Nội) trở nên ngột ngạt vì những nghi ngờ ghen tuông. Kết cục bi thảm khi Nam xuống tay sát hại vợ và con trai mình.

Hôm nay (14/12), TAND TP Hà Nội tuyên phạt Quách Văn Nam (SN 1989, ở Tây Hồ) án tử hình về tội Giết người. Bị hại trong vụ án, đau lòng thay lại là vợ và con trai bị cáo.

Năm 2017, Nam kết hôn với chị Dương Khắc H. (SN 1999, ở Cầu Giấy). Hôn nhân không hạnh phúc khi Nam không nghề nghiệp, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi chửi nhau.

Đầu năm 2018, chị H. sinh một bé trai tên T., hai mẹ con chị chuyển về nhà ngoại ở phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy sống. Nam thỉnh thoảng sang thăm vợ con.

 

Tử hình gã chồng ghen tuông sát hại vợ và con nhỏ ở Hà Nội
Bị cáo Quách Văn Nam tại tòa

 

Khoảng một tháng sau khi vợ sinh, Nam thường thấy trong điện thoại của vợ có tin nhắn chuyển khoản đến số tiền 3 triệu đồng. Nam hỏi vợ thì chị H. nói do chuyển nhầm. Lúc này, Nam bắt đầu nghi ngờ vợ ngoại tình và đứa con mới sinh không phải con mình.

Sau những nghi ngờ dồn nén, Nam nói chuyện với vợ việc anh ta muốn đưa con đi giám định ADN, nhưng gia đình chị H. không đồng ý. Từ đó, mâu thuẫn giữa vợ chồng bị cáo càng căng thẳng, Nam không sang thăm vợ con nữa.

Đến giữa tháng 3/2020, Nam thuyết phục hai mẹ con chị H. về sống chung và vợ Nam đã đồng ý. Tuy nhiên, thời gian chung sống, cuộc hôn nhân của bị cáo và vợ vẫn trở nên ngột ngạt bởi những mâu thuẫn, cãi vã xuất phát từ việc Nam nghi ngờ vợ có nhân tình.

Theo lời khai của Nam, mâu thuẫn giữa vợ chồng bị cáo càng trở nên căng thẳng hơn khi chị H. hay phàn nàn về chuyện Nam chỉ ở nhà, không chịu đi làm kiếm tiền.

Khoảng 7h ngày 2/5, vợ chồng Nam lại bắt đầu cãi vã. Chán nản, bị cáo lấy rượu ra uống. Lúc này Nam nói với vợ : “Giờ chúng mình giải thoát cho nhau, em có tương lai của em, anh có tương lai của anh”.

Chị H. đáp lời: “Đi lấy giấy ly hôn ra đây”. Lời qua tiếng lại, chị H. nói với Nam: “Mày có gan thì mày giết tao đi, chết thì cùng chết”.

Thấy vậy, Nam đi ra cửa phòng, quay lại nói: “Mày đừng ép tao vào đường cùng, con người có giới hạn, mày đừng có khiêu khích tao”. Ngay sau đó, Nam vào bếp lấy dao phay.

Nước mắt muộn mằn

Khi bị cáo cầm dao quay về phòng, chị H. đang bế con nhỏ, ngồi khoanh chân trên đệm. Đứng sau lưng vợ, Nam cầm dao chém chị H. Chị co người lại, xoay người sang trái nên nhát chém trúng vào vùng cổ con nhỏ và trúng vào mặt chị H.

Theo lời khai của Nam tại tòa, anh ta còn lao đến chém vợ liên tiếp 4-5 nhát cho đến khi vợ và con bị cáo bất động.

Sau khi chém chết vợ và con trai, Nam đi sang nói với bà ngoại: “cháu lỡ tay chém chết vợ, con cháu rồi”. Khai đến đây, bị cáo không cầm được nước mắt.

Vẫn theo lời khai của Nam, sau khi đã giết chết vợ và con trai, anh ta đi mua thuốc diệt chuột tự tử. Nhưng sau đó bị cáo đổi ý vì nghĩ rằng, sau khi đầu thú sẽ được tiêm thuốc độc vì tội giết người. Vì vậy, cùng ngày xảy ra vụ án, Nam đã đến công an đầu thú.

Kết luận giám định pháp y về ADN của Trung tâm giám định pháp y Hà Nội cho thấy, bị cáo Quách Văn Nam và cháu T.  có quan hệ huyết thống cha – con. Sau khi biết điều này, Nam đã vô cùng hối hận, nhưng tất cả đã quá muộn.

Những giọt nước mắt muộn mằn trước tòa cũng không thể khiến Nam gột rửa hết tội lỗi đã gây ra. Lí nhí nói lời xin lỗi tất cả mọi người, Nam mong HĐXX cho anh ta có được cơ hội sống.

HĐXX cho rằng, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống gia đình, bị cáo đã đang tâm giết chết vợ và con nhỏ một cách dã man, gây tang thương mất mát không gì bù đắp được cho gia đình nạn nhân, gây bất bình trong dư luận…, nên cần thiết phải loại bỏ bị cáo vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội.

Nguồn : vietnamnet.vn

Các chính sách nổi bật có hiệu lực từ tháng 12/2020

1. Làm mất hóa đơn bị phạt đến 10 triệu đồng

Nghị định 125/2020/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn sẽ có hiệu lực từ ngày 05/12/2020, trong đó có quy định mức phạt đối với hành vi làm mất hóa đơn.

Mức phạt cụ thể như sau:

– Phạt cảnh cáo nếu làm mất, cháy, hỏng hóa đơn đã lập nhưng có tình tiết giảm nhẹ; Làm mất, cháy, hỏng hóa đơn đã lập sai, đã xóa bỏ và người bán đã lập hóa đơn khác thay thế

– Phạt từ 03 – 05 triệu đồng nếu làm mất, cháy, hỏng hóa đơn đã lập (liên giao cho khách hàng)

– Phạt từ 04 – 08 triệu đồng nếu làm mất, cháy, hỏng hóa đơn đã phát hành, đã mua của cơ quan thuế nhưng chưa lập…

– Phạt từ 08 – 10 triệu đồng nếu làm mất, cháy, hỏng hóa đơn không thuộc các trường hợp trên.

 

2. Che giấu tài sản, thu nhập có thể bị cách chức

Nghị định 130 về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị có hiệu lực từ ngày 20/12, nêu rõ người được yêu cầu kê khai tài sản phải cung cấp thông tin trong 5 ngày; nếu thông tin được yêu cầu phức tạp, không có sẵn thì thời hạn 15 ngày.

Chính phủ quy định, người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập hàng năm gồm: chấp hành viên; điều tra viên; kế toán viên; kiểm lâm viên; kiểm sát viên; kiểm sát viên ngân hàng; kiểm sát viên thị trường; kiểm toán viên; kiểm tra viên của Đảng; kiểm tra viên hải quan; kiểm tra viên thuế; thanh tra viên; thẩm phán.

Người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý từ phó phòng trở lên công tác trong một số lĩnh vực; người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Người có nghĩa vụ kê khai mà tẩu tán, che giấu tài sản, thu nhập hoặc cản trở hoạt động kiểm soát tài sản có thể bị cảnh cáo, cách chức. Ngoài ra, người kê khai không trung thực cũng có thể bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm.

3. Phạm nhân nữ được tăng gấp đôi lượng lương thực khi mang thai, nuôi con dưới 2 tuổi

Đây là quy định tại Khoản 1 Điều 10 Nghị định 133/2020/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật thi hành án hình sự 2019.
Trước đây, phạm nhân nữ chỉ được tăng 20-30% lượng lương thực so với khi không mang thai, không nuôi con nhỏ. (Khoản 6 Điều 8 Nghị định 117/2011/NĐ-CP)
Nghị định 133 có hiệu lực kể từ 25 tháng 12 năm 2020, thay thế cho Nghị định 117/2011/NĐ-CP và Nghị định 90/2015/NĐ-CP

4. Phạm nhân được tăng tiêu chuẩn đồ ăn

Nghị định 133/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực từ 25/12 quy định rõ việc thay đổi tiêu chuẩn định lượng mỗi tháng đồ ăn như: 7 kg gạo tẻ; 15 kg rau xanh; 1 kg thịt lợn; 1 kg cá; 0,5 kg đường; 0,75 lít nước mắm; 0,2 lít dầu ăn; 0,1 kg bột ngọt; 0,5 kg muối; gia vị khác; chất đốt tương đương 17 kg củi hoặc 15 kg than.

So với quy định hiện hành, chế độ ăn đã tăng thêm 0,2 kg cá; 0,3 kg thịt lợn; bổ sung dầu ăn và gia vị khác.

Phạm nhân lao động nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm mức ăn sẽ được tăng thêm không quá 2 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường (quy định hiện hành tăng 1,5 lần).

5. Từ 5/12, ngân hàng cung cấp thông tin tài khoản cho cơ quan thuế

Đây là thông tin đáng chú ý tại Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế, có hiệu lực từ ngày 05/12/2020.

Khoản 2 Điều 30 của Nghị định nêu rõ, theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế, ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của từng người nộp thuế, bao gồm: Tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản.

Đồng thời, trong trường hợp cần thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, ngân hàng thương mại cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản, số liệu giao dịch theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế.

Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của các thông tin trên.

6. Đe dọa tính mạng nhà báo, phóng viên bị phạt đến 60 triệu đồng

Nghị định 119/2020 của Chính phủ có hiệu lực từ 1/12 quy định tăng mức phạt tiền trong hoạt động báo chí. Theo đó, với hành vi cản trở trái pháp luật hoạt động nghề nghiệp của nhà báo, phóng viên, người vi phạm bị phạt tiền từ 10-20 triệu đồng, gấp đôi so với quy định hiện hành.

Phạt tiền từ 30-40 triệu đồng đối với một trong các hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên khi đang hoạt động nghề nghiệp; hủy hoại, cố ý làm hư hỏng phương tiện, tài liệu hoạt động báo chí của nhà báo, phóng viên. Mức phạt các hành vi này theo quy định hiện hành là từ 20-30 triệu đồng.

Đặc biệt, hành vi có lời nói, hành động đe dọa tính mạng nhà báo, phóng viên mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự bị phạt tăng từ 20 triệu đồng hiện hành lên tối đa 60 triệu đồng.

Xác định họ và quê quán

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Bình đẳng giới năm 2006;
  • Thông tư 01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch do Bộ Tư pháp ban hành ngày 02 tháng 06 năm 2008;

     II. Nội dung

Theo Điều 1, Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007,  trong chứng minh nhân dân sẽ bao gồm có phần nội dung ghi “quê quán”. Theo nội dung của Nghị định này thì cụng từ “Nguyên quán” trước đây trong chứng minh nhân dân sẽ được đổi thành “quê quán”.

Cho đến thời điểm này Bộ Công an chưa có hướng dẫn cụ thể về việc xác định quê quán là như thế nào.

Theo điểm e, khoản 1, mục II, Thông tư 01/2008/TT-BTP ngày 02/06/2008 về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch do Bộ Tư pháp ban hành thì:

“II. ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH

  1. Đăng ký khai sinh

     e) Xác định họ và quê quán

Khi đăng ký khai sinh, họ và quê quán của con được xác định theo họ và quê quán của người cha hoặc họ và quê quán của người mẹ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ.

Trong trường hợp đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không có quyết định công nhận việc nhận cha cho con, thì họ và quê quán của con được xác định theo họ và quê quán của người mẹ…”

Như vậy, việc đăng ký khai sinh cho con thì họ và quê quán của người được khai sinh được xác định như sau:

Thông tư 01/2008/TT-BTP được hiểu như sau:

“…quê quán của con được xác định theo quê quán của người cha hoặc người mẹ // theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ”.

Trật tự xác định theo thứ tự sau:

+ Thứ nhất, cha và mẹ sẽ thỏa thuận chọn quê quán theo của cha hay của mẹ.

+ Thứ hai, nếu cha và mẹ không thỏa thuận được thì sẽ áp dụng tập quán địa phương.

Sẽ không có việc người được khai sinh ưu tiên nhận họ, quê quán của cha vì theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Bình đẳng giới năm 2006 thì:

“Điều 18. Bình đẳng giới trong gia đình

  1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình…”

Vậy, cha và mẹ sẽ thỏa thuận chọn quê quán theo của cha hay của mẹ nếu cha và mẹ không thỏa thuận được thì sẽ áp dụng tập quán địa phương.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Cấm nuôi gia cầm trong khu dân cư tại Hà Nội

Câu hỏi :

Anh Đ.T.K ở phường Sơn Lộc, thị xã Sơn Tây, Hà Nội có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tôi mua một chục quả trứng vịt lộn về nhà để ăn dần mỗi ngày 2 quả. Nhưng chỉ được ngày đầu tiên, vì tôi đã quên mất sự tồn tại của số trứng đó. Sau vài ngày thì trứng vịt lộn đã nở thành con. Theo tôi được biết thì trên địa bàn phường Sơn Lộc mà tôi sinh sống đã cấm việc chăn nuôi gia cầm.

Tôi xin hỏi, tôi có phải tiêu hủy số vịt con vừa nở trên không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐND quy định về khu vực không được phép chăn nuôi và chính sách hỗ trợ di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi trên địa bàn thành phố Hà Nội do Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ban hành ngày 07 tháng 07 năm 2020;
  • Luật Chăn nuôi năm 2018;

     II. Nội dung

Anh không cần tiêu hủy số gia cầm vừa nở nếu anh có thể chăn nuôi chúng với mục đích làm cảnh.

  1. Khu vực cấm chăn nuôi trên địa bàn thành phố Hà Nội

Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐND quy định về khu vực không được phép chăn nuôi và chính sách hỗ trợ di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi trên địa bàn thành phố Hà Nội thì:

“Điều 1. Quy định khu vực không được phép chăn nuôi trên địa bàn thành phố Hà Nội:

  1. Khu vực không được phép chăn nuôi

Khu vực không được phép chăn nuôi gia súc, gia cầm (trừ nuôi động vật làm cảnh, nuôi động vật thí nghiệm mà không gây ô nhiễm môi trường), gồm:

     a) Các phường của các quận thuộc Thành phố.

     b) 04 phường thuộc thị xã Sơn Tây, gồm: Sơn Lộc, Quang Trung, Ngô Quyền và Lê Lợi.

     c) Các thị trấn của 05 huyện: Thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng; thị trấn Trạm Trôi, huyện Hoài Đức; thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh; thị trấn Trâu Quỳ và thị trấn Yên Viên, huyện Gia Lâm; thị trấn Văn Điển, huyện Thanh Trì.

     d) Các khu chung cư, tập thể cũ, khu đô thị nằm trên địa bàn các huyện, thị xã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (cơ quan có thẩm quyền phê duyệt khu đô thị được quy định tại Điều 9 Nghị định số 11/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý đầu tư phát triển đô thị).

  1. Chăn nuôi tại các địa bàn khác không thuộc khu vực không được phép chăn nuôi phải đảm bảo tuân thủ quy định tại Thông tư 23/2019/TT-BNN&PTNT ngày 30/11/2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các quy định pháp luật liên quan…”

Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Chăn nuôi năm 2018 thì:

“Điều 12. Các hành vi bị nghiêm cấm trong chăn nuôi

  1. Chăn nuôi trong khu vực không được phép chăn nuôi của thành phố, thị xã, thị trấn, khu dân cư; trừ nuôi động vật làm cảnh, nuôi động vật trong phòng thí nghiệm mà không gây ô nhiễm môi trường…”

Như vậy, địa bàn phường Sơn Lộc nơi mà anh đang sinh sống thuộc địa bàn bị cấm chăn nuôi gia súc, gia cầm theo quy định tại Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐND quy định về khu vực không được phép chăn nuôi.

  1. Quy định của pháp luật về các khái niệm có liên quan

Theo quy định tại khoản 1, 2 và 7 Luật Chăn nuôi năm 2018 thì:

“Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Chăn nuôi là ngành kinh tế – kỹ thuật bao gồm các hoạt động trong lĩnh vực giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, điều kiện chăn nuôi, chế biến và thị trường sản phẩm chăn nuôi.
  2. Hoạt động chăn nuôi là nuôi sinh trưởng, nuôi sinh sản vật nuôi và hoạt động khác có liên quan đến vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi phục vụ mục đích làm thực phẩm, khai thác sức kéo, làm cảnh hoặc mục đích khác của con người.

  1. Gia cầm là các loài động vật có 02 chân, có lông vũ, thuộc nhóm động vật có cánh được con người thuần hóa và chăn nuôi…”

Như vậy, vịt cũng là gia cầm và hoạt động chăn nuôi gia cầm tại khu vực phường Sơn Lộc nơi mà anh đang sinh sống thuộc địa bàn bị cấm chăn nuôi gia súc, gia cầm theo quy định. Hoạt động chăn nuôi là một phần trong chăn nuôi và hoạt động ấp nở cũng là một phần của hoạt động chăn nuôi.

 

 

  1. Để nở trứng vịt lộn có là hoạt động chăn nuôi không?

Theo quy định tại khoản 2 Luật Chăn nuôi năm 2018 thì:

“Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Hoạt động chăn nuôi là nuôi sinh trưởng, nuôi sinh sản vật nuôi và hoạt động khác có liên quan đến vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi phục vụ mục đích làm thực phẩm, khai thác sức kéo, làm cảnh hoặc mục đích khác của con người…”

Các hoạt động liên quan đến vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi nếu phục vụ mục đích làm thực phẩm, khai thác sức kéo, làm cảnh hoặc mục đích khác của con người thì là hoạt động chăn nuôi.

Như vậy, hoạt động chăn nuôi được phân loại theo mục đích khi thực hiện:

  • Làm thực phẩm;
  • Khai thác sức kéo;
  • Làm cảnh;
  • Mục đích khác;

Việc ấp nở của anh không do anh không có chủ quan thực hiện và do không phục vụ mục đích làm thực phẩm nên không bị cấm.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Chăn nuôi năm 2018 thì:

“Điều 12. Các hành vi bị nghiêm cấm trong chăn nuôi

  1. Chăn nuôi trong khu vực không được phép chăn nuôi của thành phố, thị xã, thị trấn, khu dân cư; trừ nuôi động vật làm cảnh, nuôi động vật trong phòng thí nghiệm mà không gây ô nhiễm môi trường…”

Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Chăn nuôi năm 2018 thì vẫn có 02 hoạt động chăn nuôi tại trong khu vực không được phép chăn nuôi của thành phố, thị xã, thị trấn, khu dân cư được phép nếu mục đích của hoạt động chăn nuôi đó là:

  • Làm cảnh; hoặc
  • Nuôi trong phòng thí nghiệm;

Vậy, nếu việc nuôi số vịt vừa nở nói trên của anh phục vụ mục đích làm cảnh thì không cần thiết phải tiêu hủy chúng.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Quy định mới của Bộ luật Lao động năm 2019 về việc ủy quyền nhận thay lương

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Lao động năm 2019;

     II. Nội dung

  1. Hiệu lực của Bộ luật Lao động năm 2019

Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021 sẽ thay thế Bộ luật Lao động năm 2012 với nhiều quy định mới liên quan lương – thưởng của người lao động.

  1. Việc trả lương cho người lao động cho người được ủy quyền theo ủy quyền của người lao động

Khoản 1 Điều 94 yêu cầu người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Tuy nhiên, nếu người lao động không thể nhận lương trực tiếp, người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được họ ủy quyền hợp pháp:

“Điều 94. Nguyên tắc trả lương

  1. Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp…”

Pháp luật không bắt buộc người lao động phải chứng minh lý do chính đáng của việc ủy quyền nhưng họ phải tự chịu trách nhiệm về việc ủy quyền cho người khác nhận thay. Người sử dụng lao động cũng không có quyền đòi hỏi người lao động phải chứng minh lý do ủy quyền.

Do vậy, về nguyên tắc người lao động có thể ủy quyền cho bất kỳ ai nhận thay lương, kể cả việc trả lương sang tài khoản của người khác. Luật cũng không quy định bắt buộc phải ủy quyền nhận toàn bộ số lương nên người lao động có thể chỉ ủy quyền cho nhận một phần lương, phần còn lại họ vẫn trực tiếp nhận. Chẳng hạn, nếu người lao động là người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thì có thể ủy quyền để người sử dụng lao động tự trích một phần lương (qua chuyển khoản) để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Quy định này sẽ giúp người lao động không phải hàng tháng ra ngân hàng chuyển tiền cho người thân.

Về hình thức ủy quyền, người lao động có thể làm giấy ủy quyền (chữ ký của bên ủy quyền) hoặc hợp đồng ủy quyền (có chữ ký của bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền) và phải được công chứng, chứng thực.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Đề nghị phạt cựu Giám đốc CDC Hà Nội Nguyễn Nhật Cảm 10-11 năm tù

Sáng nay (11/12), tại phiên tòa xét xử vụ “thổi” giá xảy ra tại CDC Hà Nội, ông Nguyễn Nhật Cảm bị đề nghị mức án 10- 11 năm tù về tội Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.

Cùng tội danh, các bị cáo khác bị đại diện VKS đề nghị mức án như sau:

Nguyễn Vũ Hà Thanh (Trưởng phòng Tài chính kế toán CDC Hà Nội): 7 – 8 năm

Nguyễn Thị Kim Dung (Trưởng phòng tổ chức hành chính CDC Hà Nội): 5 – 6 năm

Nguyễn Ngọc Quỳnh (Trưởng phòng Kế hoạch nghiệp vụ CDC Hà Nội): 5 – 6 năm

Hoàng Kim Thư (Kế toán trưởng CDC Hà Nội): 2 – 3 năm

Lê Xuân Tuấn (cán bộ CDC Hà Nội): 2- 3 năm

Nguyễn Ngọc Nhất (nhân viên Công ty TNHH Phát triển khoa học Vitech): 6 – 7 năm

Đào Thế Vinh (Giám đốc Công ty TNHH Vật tư khoa học và Thương mại Việt Nam – MST): 7 – 8 năm

Nguyễn Trần Duy (nguyên Tổng giám đốc Công ty CP định giá và bán đấu giá Nhân Thành): 6 – 7 năm

Nguyễn Thanh Tuyền (nhân viên Công ty TNHH Thiết bị y tế Phương Đông): 5 – 6 năm

 

Đề nghị phạt cựu Giám đốc CDC Hà Nội Nguyễn Nhật Cảm 10-11 năm tù
Bị cáo Nguyễn Nhật Cảm tại tòa

 

Theo nhận định của đại diện VKS, Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền các cấp và toàn thể xã hội đã nỗ lực và tập trung các nguồn lực để phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, chấp nhận hy sinh lợi ích kinh tế để đảm bảo sức khỏe, tính mạng cho người dân.

Tuy nhiên, các bị cáo lại gian lận, thông đồng với các đối tượng bên ngoài để nâng khống giá trị gói thầu.

Hành vi này làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của các lực lượng y bác sỹ và các cá nhân, đơn vị đang trực tiếp phòng chống dịch, gây bức xúc trong dư luận.

Đại diện Viện Kiểm sát cho rằng, bị cáo Nguyễn Nhật Cảm giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu xuyên suốt vụ án nâng giá máy xét nghiệm Covid-19 nên cần áp dụng hình phạt cao nhất.

 

Đề nghị phạt cựu Giám đốc CDC Hà Nội Nguyễn Nhật Cảm 10-11 năm tù
Các bị cáo tại tòa

 

Từ đầu năm 2020, CDC Hà Nội đã mua một số hệ thống Realtime PCR tự động nhằm đáp ứng nhu cầu xét nghiệm phòng chống dịch COVID-19. Do thời gian gấp nên việc mua sắm này được CDC Hà Nội thực hiện theo phương thức chỉ định thầu.

Hệ thống máy xét nghiệm Realtime PCR phòng chống COVID-19 khi nhập về Việt Nam giá khoảng hơn 2 tỉ đồng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối mua bán lòng vòng với nhau và CDC Hà Nội đã mua với giá hơn 7 tỉ đồng, gấp 3 lần giá nhập.

 

Đề nghị phạt cựu Giám đốc CDC Hà Nội Nguyễn Nhật Cảm 10-11 năm tù
Đại diện VKS thực hành quyền công tố tại tòa

 

Sai phạm xảy ra khi CDC Hà Nội mua sắm trang thiết bị y tế phòng chống dịch COVID-19, tại gói thầu số 15 với số tiền là 9,54 tỉ đồng. VKS cáo buộc sai phạm của các bị cáo, trong đó có ông Nguyễn Nhật Cảm (cựu Giám đốc CDC Hà Nội) tại gói thầu số 15, gây thiệt hại cho Nhà nước là hơn 5 tỉ đồng.

Đề nghị mức án trên, đại diện VKS cũng cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ tội cho các bị cáo như  đều thành khẩn khai báo, đại diện bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nguyên là cán bộ CDC Hà Nội.

Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Nhật Cảm và các bị cáo nguyên là bộ CDC Hà Nội có nhiều thành tích trong công tác, một số bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả… Các bị cáo đều có nhiều đóng góp cho ngành Y tế.

Nguồn : vietnamnet.vn

Trả lại đơn khởi kiện với yêu cầu khởi kiện về chia di sản thừa kế

Câu hỏi :

Chị Đ.M.H ở Thái Nguyên có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Cụ L.Q.A chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ L.Q.A có con là ông L.V.H (còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 và không từ chối nhận di sản).

Tôi xin hỏi, anh L.V.C là con của ông L.V.H có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ L.Q.A theo pháp luật không? Tòa án sẽ giải quyết ra sao với đơn khởi kiện về yêu cầu nói trên của anh L.V.C?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
  • Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 05 tháng 05 năm 2017;

     II. Nội dung

Anh L.V.C không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ L.Q.A.

  1. Điều kiện áp dụng chia di sản thừa kế theo pháp luật

Điều 649 và điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về chia di sản thừa kế theo pháp luật:

“Điều 649. Thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.”

“Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

  1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

     a) Không có di chúc;

  1. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

     a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;…”

Do di sản ông L.Q.A để lại là căn nhà X không có di chúc và cũng không được định đoạt trong di chúc nên di sản là căn nhà X sẽ được chia theo pháp luật về thừa kế.

  1. Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật

Hàng thừa kế thứ nhất và hàng thừa kế thứ hai tại Bộ luật Dân sự năm 2015 được quy định tại điểm a và b khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

     a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

     b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;…”

Như vậy, chúng ta có thể kết luận:

  • Ông L.V.H là con của ông L.Q.A, do đó ông L.V.H thuộc hàng thừa kế thứ nhất;
  • Anh L.V.C là cháu của ông L.Q.A, do đó anh L.V.C thuộc hàng thừa kế thứ hai;

 

 

Theo quy định tại khoản 3 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Do ông L.V.H còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 và không từ chối nhận di sản nên do đó hàng thừa kế thứ nhất vẫn còn người được hưởng thừa kế nên anh L.V.C không có quyền hưởng di sản.

  1. Quyền khởi kiện vụ án dân sự

Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền khởi kiện vụ án dân sự:

“Điều 186. Quyền khởi kiện vụ án

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”

Do anh L.V.C không có quyền hưởng di sản nên anh L.V.C không có bất kì quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến việc chia thừa kế nên anh L.V.C không có quyền khởi kiện vụ án.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:

“Điều 192. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện

  1. Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:

     a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;…”

Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành thì:

“Điều 2. Về người khởi kiện không có quyền khởi kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Người khởi kiện không có quyền khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  1. Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ…”

Như vậy, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện của anh L.V.C do anh L.V.C có yêu cầu khởi kiện không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.

Vậy, anh L.V.C không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ L.Q.A. Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện của anh L.V.C do anh L.V.C có yêu cầu khởi kiện không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com