Điều tra vụ thu mua khẩu trang đã qua sử dụng

Nguyễn Minh Nguyên (24 tuổi, quê Thái Nguyên) bị Công an huyện Sóc Sơn tạm giữ để làm rõ hành vi thu mua 620 kg khẩu trang y tế đã qua sử dụng.

Hôm 19/2, Nguyên khai khoảng 8h cùng ngày mua khẩu trang y tế, găng tay cao su… của một người chở rác ở Vĩnh Phúc. Hàng được cất trong căn nhà thuê ở thôn Đa Hội, xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn.

Số khẩu trang bị thu giữ. Ảnh: Công an cung cấp.

Số khẩu trang bị thu giữ. Ảnh: Công an cung cấp.

Ngày 23-24/2, Nguyên thay đổi lời khai cho hay thuê ôtô đến Công ty TNHH dịch vụ môi trường Anh Đăng ở thị xã Phổ Yên (Thái Nguyên) thu mua 600 kg khẩu trang và nhiều loại rác khác với giá 840.000 đồng. Nguyên không mua về để tái sử dụng mà tách lấy nhựa đem bán cho cơ sở tái chế.

Hôm nay, Công an huyện Sóc Sơn cho biết vẫn đang làm rõ lời khai của Nguyên để có hướng xử lý tiếp theo.

Trước đó, chiều 19/2, Công an huyện Sóc Sơn kiểm tra căn nhà thuê của Nguyên đã phát hiện 620 kg khẩu trang y tế, găng tay cao su, mũ chụp tóc đã qua sử dụng.

Công an sau đó phối hợp với và nhà chức trách địa phương phun khử trùng, diệt khuẩn và đốt tiêu hủy theo quy định.

Nguồn : vnexpress

TP HCM giám sát chặt người đến từ Hàn Quốc

Trước diễn biến dịch nCoV ở Hàn Quốc bùng phát với 833 người nhiễm, TP HCM triển khai nhiều biện pháp giám sát chặt người đến từ nước này.

Theo thống kê của Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị TP HCM, hiện có khoảng 90.000 người Hàn Quốc sinh sống, làm việc và học tập tại TP HCM, tập trung đông nhất ở quận 7 và quận 2. Thông tin dịch nCoV bùng phát ở Hàn Quốc chưa làm xáo trộn nhiều đến sinh hoạt của người dân.

Chiều 24/2, khu chung cư Sky Garden (phường Tân Phong, quận 7) – một trong những nơi có nhiều người Hàn Quốc ở, vẫn nhộn nhịp. Nhân viên nhà hàng, cửa tiệm đeo khẩu trang phục vụ. Các cổng ra vào bãi giữ xe chung cư được trang bị máy đo thân nhiệt và nước rửa tay. Cư dân, khách ra vào chung cư đều được bảo vệ kiểm tra thân nhiệt…

Chị Trần Thị Kim Thoa (25 tuổi) nhân viên phục vụ quán cà phê tại đây cho biết, mỗi ngày tiệm có khoảng 70 khách, chủ yếu là người Hàn Quốc và đều đeo khẩu trang. Để đảm bảo vệ sinh, mỗi ngày nhân viên quán xịt khử trùng cửa ra vào 3 lần. Việc này được ông chủ Hàn Quốc yêu cầu từ hơn một tháng nay, khi dịch bệnh corona khởi phát tại Trung Quốc, và chính quyền TP HCM đề nghị phòng chống bệnh ráo riết.

Tại chung cư Sky Garden 3 gần đấy, chị Eun Ji (32 tuổi) và gia đình đã định cư được 3 năm. Chị kể, gần một tháng qua ngày nào chị cùng chồng vài 2 con gái cũng đeo khẩu trang y tế khi ra ngoài. Hai hôm nay biết tin Hàn Quốc tăng rất nhanh số người nhiễm nCoV chị rất lo lắng cho người thân ở quê hương. “Tôi thấy may mắn vì tại Việt Nam vẫn kiểm soát dịch tốt. Cư dân ở đây cũng nhắc nhở nhau phòng dịch, không có tâm lý hoang mang”, chị nói.

Bà Bùi Thị Ngọc Hiếu, Phó chủ tịch UBND quận 7, cho biết quận có gần 11.000 người Hàn Quốc, chủ yếu ở khu đô thị Phú Mỹ Hưng, tập trung tại phường Tân Phong và Tân Phú. Do đó, khi Sở Y tế hướng dẫn lập danh sách đối với người về từ vùng dịch Hàn Quốc, quận rà soát và yêu cầu các khách sạn báo cáo thường xuyên danh sách khách Hàn Quốc đến lưu trú. Trung tâm Y tế quận cũng kiểm tra, hướng dẫn các ban quản lý chung cư ứng phó với người về từ vùng dịch, báo cáo ngay cho địa phương khi có bất thường.

Nhân viên Trung tâm kiểm dịch quốc tế đo thân nhiệt hành khách tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh: Hữu Nguyên

Nhân viên Trung tâm Kiểm dịch quốc tế đo thân nhiệt hành khách tại sân bay Tân Sơn Nhất.

Tại quận 2 có khoảng 3.500 người Hàn Quốc tập trung ở các phường Thảo Điền, An Phú, An Lợi Đông. Theo Phó chủ tịch quận Nguyễn Hồng Điệp, trước diễn biến dịch nCoV ở Hàn Quốc bùng phát nhanh trong 2 ngày qua, quận yêu cầu các phường rà soát những chung cư có người nước ngoài. Đặc biệt các phường phải cập nhật tình hình cư dân, thông tin nhập cảnh của người Hàn Quốc và Nhật Bản để ngành y tế chủ động theo dõi và có biện pháp ứng phó phù hợp.

“Khi dịch bùng phát nhanh, quận chủ động cập nhật tình hình và chỉ đạo cơ sở thông qua các nhóm chát để triển khai nhanh các biện pháp chứ không chờ văn bản chỉ đạo”, bà Điệp nói.

Ông Nguyễn Hồng Tâm, Giám đốc Trung tâm Kiểm dịch quốc tế (Sở Y tế TP HCM) cho biết, từ chiều 23/2, theo chỉ đạo của Bộ Y tế, trung tâm thực hiện khai báo y tế và kiểm soát thân nhiệt đối với hành khách trên chuyến bay đến từ Hàn Quốc. Những hành khách có triệu chứng nghi ngờ sẽ đưa đi cách ly ngay. “Hành khách đến từ Hàn Quốc sẽ được giám sát chặt chẽ, giống như khách đến từ Trung Quốc trước đây”, ông Tâm nói.

Đến rạng sáng nay, Trung tâm Kiểm dịch quốc tế phối hợp Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP HCM kiểm dịch đối với 575 hành khách Hàn Quốc đến Tân Sơn Nhất, phát hiện 3 trường hợp đến từ vùng dịch Daegu. Trong đó, một trường hợp có biểu hiện ho được đưa đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới lấy mẫu xét nghiệm; hai trường hợp được đưa đến cách ly tại Bệnh viện dã chiến huyện Củ Chi.

Những hành khách còn lại được tư vấn, khuyến cáo tự theo dõi sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng bệnh tại nhà, nơi lưu trú. Nếu có triệu chứng bệnh lý về đường hô hấp trong vòng 14 ngày sau khi nhập cảnh thì thông báo ngay cho y tế địa phương để được hỗ trợ.

Chiều cùng ngày, Sở Giáo dục và Đào tạo TP HCM yêu cầu quận, huyện và các trường trực thuộc rà soát, thống kê cán bộ, giáo viên và học sinh có đi qua Trung Quốc, Hàn Quốc và các tỉnh thành trong nước có dịch nCoV trong 14 ngày qua. Những người này sẽ được trường giám sát, cập nhật thường xuyên diễn biến sức khoẻ, kể các những trường hợp hết thời gian theo dõi, cách ly.

Trong khi đó, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP HCM) tạm ngưng các lớp có sinh viên nước ngoài học tại trường. Đây là trường có nhiều người nước ngoài theo học nhất tại TP HCM với hơn 5.300 người đến từ hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 100 sinh viên đến từ Hàn Quốc.

Trả lời VnExpress, Chánh văn phòng UBND TP HCM Hà Phước Thắng cho biết, Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Thành Phong đã họp với các sở ngành liên quan để triển khai kế hoạch đối phó dịch nCoV trong tình hình mới, nhất là dịch bùng phát nhanh ở Hàn Quốc. Chiều mai 25/2, thành phố tiếp tục họp với các sở ngành và 24 quận huyện để đưa ra giải pháp hiệu quả chống dịch cũng như chốt phương án có hay không cho học sinh đi học từ đầu tháng 3.

Hàn Quốc hiện có 833 người nhiễm virus corona – cao thứ hai trên thế giới, sau Trung Quốc; tập trung chủ yếu tại thành phố Daegu (457 trường hợp, một tử vong) và khu Bắc Gyeongsang (180 trường họp, 3 tử vong). Trong số các trường hợp nhiễm mới, 129 trường hợp liên quan tới nhà thờ của giáo phái Tân Thiên Địa ở thành phố Daegu.

Theo Thứ trưởng Y tế Đỗ Xuân Tuyên, nguy cơ xâm nhập dịch bệnh từ các vùng dịch của Hàn Quốc vào Việt Nam, thông qua các chuyến bay là rất lớn. Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch corona đã thống nhất giao Bộ Quốc phòng phân tuyến, cách ly y tế toàn bộ số khách nhập cảnh từ các vùng có dịch – gồm 31 tỉnh của Trung Quốc và 2 địa phương của Hàn Quốc (thành phố Daegu và tỉnh Gyeongsangbuk).

Việt Nam đã khuyến cáo công dân không đến thành phố Daegu và tỉnh Gyeongsangbuk; không khuyến khích người nước khác quá cảnh ở hai địa phương này và nhập cảnh vào Việt Nam.

Nguồn : vnexpress

Lật tẩy kế hoạch “chia tay đòi quà” rồi bắt cóc nữ sinh, tống tiền 5 tỉ

Toàn lên kế hoạch làm quen với nữ sinh viên, tặng quà nhưng sau đó hẹn gặp đòi lại quà để bắt cóc nạn nhân và đòi tiền chuộc 5 tỉ đồng.

Ngày 24-2, Công an tỉnh Trà Vinh đang mở rộng điều tra, truy xét nhóm người liên quan đến vụ bắt cóc nữ sinh viên Trường ĐH Trà Vinh là T.B.H (21 tuổi; ngụ huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh) để tống tiền 5 tỉ đồng xảy ra tại quán cà phê T.N (phường 5, TP Trà Vinh) vào sáng 13-1.

Liên quan đến vụ việc, cơ quan điều tra đã khởi tố bị can, bắt tạm giam kẻ chủ mưu là Nguyễn Quốc Toàn (28 tuổi; ngụ huyện Thới Lai, TP Cần Thơ) và đồng phạm Nguyễn Chí Tâm (20 tuổi; ngụ huyện Bình Chánh, TP HCM).

Lật tẩy kế hoạch chia tay đòi quà rồi bắt cóc nữ sinh, tống tiền 5 tỉ - Ảnh 1.

Nguyễn Quốc Toàn. Ảnh: Công an Trà Vinh

Toàn khai nhận do làm ăn thua lỗ nên nảy sinh ý định bắt cóc tống tiền. Toàn lấy vợ ở huyện Cầu Kè, gần nhà của H. nên biết H. là con gia đình khá giả. Toàn đã xin vợ số điện thoại của H. và nói dối để làm mai H. cho bạn mình. Sau khi kết bạn với H. qua Zalo, Toàn xưng mình tên Tâm và muốn làm quen với nữ sinh viên này. Sau đó, Toàn gọi điện thoại cho Nguyễn Chí Tâm từ TP HCM xuống để thực hiện kế hoạch bắt cóc, nếu thành công thì Tâm được nhận 200 triệu đồng. Toàn vay mượn và chuyển vào tài khoản Tâm 50 triệu đồng.

Biết được giờ giấc đi lại của nữ sinh, 2 đối tượng này định bắt cóc H. trên đoạn đường vắng từ TP Trà Vinh về Cầu Kè nhưng thấy không khả thi nên cả 2 không thực hiện. Toàn liền nghĩ ra cách là nói dối anh Trần Minh Hiếu (ngụ huyện Thới Lai, TP Cần Thơ) và một người tên Sơn kêu 2 người này sang Trà Vinh chơi và hứa sẽ làm mai một “tiểu thư con nhà giàu” cho Hiếu. Song song đó, Toàn chat hẹn gặp H. và nói rằng để tặng cho H. món quà. Toàn liền thuê phòng khách sạn gần khu vực Trường ĐH Trà Vinh và toan tính bắt cóc nữ sinh trong đêm.

Khi H. đồng ý gặp mặt, Toàn đã thuê xe ô tô do anh Trần Minh Triết làm tài xế điều khiển từ Vĩnh Long sang khách sạn Toàn đã thuê. Toàn nói với anh Triết là “Em gái bỏ nhà theo trai nên gia đình nói đi bắt”.

Trước khi đến điểm hẹn, Toàn lấy chai nước hoa đã mua sẵn đưa cho Hiếu và Sơn để vào gặp H. Hai thanh niên này vào quán cà phê, Toàn ở bên ngoài ô tô quan sát, dự tính bắt cóc nữ sinh nhưng không thành vì khu vực trung tâm đông người.

Sau cuộc hẹn gặp mặt và tặng quà cho nữ sinh, Hiếu và Sơn điều khiển xe máy về Cần Thơ và 2 người này không hề biết kế hoạch bắt cóc H. của Toàn. Toàn ở lại khách sạn, toan tính hẹn gặp nữ sinh đến khu vực vắng người bắt cóc nhưng H. không đi. Sáng hôm sau, Toàn yêu cầu anh Triết chở về Cần Thơ.

Lật tẩy kế hoạch chia tay đòi quà rồi bắt cóc nữ sinh, tống tiền 5 tỉ - Ảnh 2.

Nguyễn Chí Tâm. Ảnh: Công an Trà Vinh

Hai lần thực hiện kế hoạch bắt cóc không thành, H. từ chối tình cảm với người tên Tâm trên Zalo (tài khoản của Toàn) nên Toàn nhắn tin cho nữ sinh đòi lại món quà đã tặng. Để thực hiện kế hoạch này, Toàn gọi cho 2 người bạn tại TP HCM tên Hưng và Hoàng (chưa rõ lai lịch) xuống giúp sức. Theo yêu cầu của Toàn, hai người này chỉ cần bắt một người phụ nữ đưa lên ô tô, chở từ Trà Vinh đến khách sạn ở TP Vĩnh Long là có 200 triệu đồng.

Sáng 13-1, Toàn nhắn tin cho H. hẹn đến quán cà phê T.N ở gần Trường ĐH Trà Vinh để đòi lại món quà đã tặng. Toàn gọi cho tài xế ô tô dịch vụ từ Vĩnh Long sang, chờ sẵn trước quán cà phê và chỉ cho Hưng và Hoàng biết. Toàn bố trí Nguyễn Chí Tâm ngồi một mình, còn mình cùng với Hưng và Hoàng ngồi phía trong quan sát. Khoảng 10 giờ, H. đến quán cà phê gặp Nguyễn Chí Tâm trả lại gói quà. Khi H. vừa quay mặt đi, Hưng và Hoàng túm tóc, khống chế nữ H. đưa lên ô tô chờ sẵn và nhanh chóng tẩu thoát về hướng Vĩnh Long.

Toàn đã đưa Hưng và Hoàng 5 triệu đồng và bảo 2 người này về TP HCM. Nhận được tin báo, lực lượng Công an tỉnh Trà Vinh thành lập tổ công tác đặc biệt khẩn trương xác minh. Sau khi bắt cóc nữ sinh viên, Toàn buộc H. gọi cho mẹ ruột là bà H.H.D đòi tiền chuộc 5 tỉ đồng, nếu không bị hại sẽ nguy hiểm đến tính mạng và không được báo cơ quan công an. Gia đình bà D. nhận được nhiều tin nhắn hối thúc giao tiền và đối tượng liên tục thay đổi địa điểm giao tiền. Khi thì Vĩnh Long, Vàm Cống, rồi chuyển qua Long Xuyên (An Giang), Cờ Đỏ, Thốt Nốt (Cần Thơ).

Lúc này, tổ công tác đặc biệt do đại tá Phan Thanh Quân – Phó Giám đốc, Thủ trưởng Cơ quan CSĐT – trực tiếp chỉ đạo, làm việc xuyên đêm để giải cứu con tin. Rạng sáng 14-1, khi nhóm bắt cóc yêu cầu giao tiền chuộc tại một địa điểm trên Quốc lộ 91 (quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ) nên tổ công tác quyết định cho bà D. ôm túi xách đứng bên đường. Khi Toàn quan sát thấy mẹ nữ sinh ôm túi xách đứng ven quốc lộ nên yên tâm kêu Tâm bước xuống nhận tiền thì bị trinh sát bắt quả tang, giải cứu con tin.

Nguồn : nld.com.vn

Dì tưới xăng đốt cháu vì khoản nợ 3,9 triệu

Vì gia đình anh rể nợ 3,9 triệu đồng chưa kịp trả, Phượng tưới xăng lên cháu trai 6 tuổi rồi đốt. Vụ việc khiến 2 người bị bỏng nặng phải nhập viện cấp cứu.

Liên quan đến vụ dì ruột đổ xăng châm lửa đốt cháu trai bỏng 50% cơ thể ở phường 10 (TP Vũng Tàu), người thân cho biết đã đưa nạn nhân N.T.V. (6 tuổi) lên Bệnh viện Nhi Đồng 2 (TP.HCM) điều trị.

Người gây ra thương tích cho V. là dì ruột tên Nguyễn Thị Ngọc Phượng (27 tuổi, ngụ TP Vũng Tàu).

Di tuoi xang dot chau vi khoan no 3,9 trieu hinh anh 1 87254888_824668441343851_6204384497375379456_n.jpg
Phượng bị người dân giữ lại để bàn giao cho công an.

Trao đổi với Zing.vn, người thân của nạn nhân cho biết 2 ngày qua, Phượng thường xuyên đến nhà chị gái trên đường Lưu Chí Hiếu (phường 10) yêu cầu anh rể trả khoản nợ cả gốc lẫn lãi là 3,9 triệu đồng.

Ba của V. hứa 17h ngày 23/2 đi làm về sẽ trả đủ tiền. Tuy nhiên, không đợi anh rể đến giờ đó, Phượng cầm theo con dao và can xăng đến nhà chị gái gây áp lực. Sau khi cự cãi với chị, Phượng đổ xăng lên người bé V. rồi châm lửa đốt.

Mẹ của V. lao vào ôm con dập lửa nên cũng bị bỏng nặng. Cả hai được người dân chuyển vào bệnh viện cấp cứu.

“V. đã được chuyển lên TP.HCM chữa trị. Mẹ bé bị bỏng nặng ở hai cánh tay và chân đang điều trị tại Bệnh viện Lê Lợi”, người nhà nạn nhân cho biết.

Tối cùng ngày, Công an phường 10 đã bàn giao Nguyễn Thị Ngọc Phượng cho Công an TP Vũng Tàu để điều tra, xử lý.

Nguồn : news.zing.vn

Nghi can đốt xác chủ nợ bị bắt

Tuấn bị cáo buộc xoá dấu vết giết chủ nợ bằng cách đốt xác phi tang trong thùng phuy rồi trốn lên Sơn La.

Ngày 23/2, Công an Hải Phòng cho hay cơ quan điều tra đã bắt được nghi can Phạm Ngọc Tuấn (24 tuổi, trú ở xã Lê Lợi, huyện An Dương) tại tỉnh Sơn La.

Tuấn bị cáo buộc đã chém chết anh Nguyễn Văn Lâm (25 tuổi, trú tại xã Quốc Tuấn, huyện An Dương) khi anh này đến nhà đòi nợ, sau đó dọn hiện trường, lấy hết tài sản trong người nạn nhân. Nghi can xóa dấu vết bằng cách cho xác nạn nhân vào thùng phuy đốt xác phía sau nhà, trước khi bỏ trốn.

Cảnh sát khám nghiệm hiện trường lúc 23h ngày 22/2. Ảnh: Giang Chinh

Cảnh sát khám nghiệm hiện trường lúc 23h ngày 22/2.

Chiều 22/2, nhận được tin báo về án mạng, công an huyện An Dương, Phòng cảnh sát hình sự và các phòng nghiệp vụ (Công an Hải Phòng) đã đến khám nghiệm hiện trường, tử thi, thu thập chứng cứ, tổ chức truy bắt Tuấn ngay trong đêm. Từ các nguồn tin, lực lượng chức năng xác định hung thủ đã bỏ trốn tới tỉnh Sơn La.

Được sự hỗ trợ của đơn vị nghiệp vụ Bộ Công an và Công an tỉnh Sơn La, lực lượng chức năng Hải Phòng bắt giữ Tuấn khi nghi can vừa xuống xe, đang tìm đường lẩn trốn vào sáng nay 23/2.

Nhà chức trách tiếp tục làm rõ vụ án.

Nguồn : vnexpress

Đến nhà vợ dọa “giết hết”, con rể bị bố vợ đâm tử vong

Đến nhà bố vợ chửi bới, dọa giết, xô ngã bố vợ, anh H. đã bị bố vợ dùng dao đâm nhiều nhát vào người, tử vong tại chỗ.

Ngày 21-2, TAND tỉnh Nghệ An đã mở phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử Vũ Văn Sơn (SN 1972, trú xã Môn Sơn, huyện Con Cuông, Nghệ An) về tội “Giết người”.

Theo tài liệu của cơ quan điều tra, chiều 27-7-2019, Vũ Văn Sơn đi giúp đám cưới nhà một người quen thì đứa cháu ngoại 7 tuổi gọi về vì bố đến tìm mẹ. Khi ông Sơn về đến nhà, người con rể là N.V.H. (SN 1985) nói với ông Sơn “gọi con gái về”. Ông Sơn trả lời không biết thì giữa ông Sơn và con rể to tiếng với nhau.

Đến nhà vợ dọa giết, xô ngã bố vợ, con rể bị đâm tử vong - Ảnh 1.

Bị cáo Vũ Văn Sơn tại phiên toà

Đến khoảng 17 giờ, chị Vũ Hà H. (con gái ông Sơn) đi làm về thì giữa chị H. và chồng là anh H. xảy ra to tiếng. H. lớn tiếng chửi bới và thánh thức “tau sẽ giết bay hết”. Nghe con rể có những lời nói xúc phạm nên ông Sơn nói lại thì bất ngờ bị H. xô ngã. Tức giận, ông Sơn cầm dao đâm nhiều nhát vào người khiến H. tử vong tại chỗ.

Sau khi gây ra cái chết cho con rể, Vũ Văn Sơn đến Đồn biên phòng Môn Sơn đầu thú.

Tại phiên tòa, bị cáo Sơn thừa nhận hành vi giết người của mình là sai trái, bị cáo cho rằng mình phạm tội trong trạng thái tâm lý bị ức chế, không kìm được bản thân.

Kết thúc phiên tòa, HĐXX đã tuyên phạt Vũ Văn Sơn 10 năm tù về tội “Giết người”. Ngoài ra, bị cáo phải bồi thường cho gia đình bị hại 88 triệu đồng.

Nguồn : nld.com.vn

Núp bóng quán cắt tóc ở Đà Nẵng để tổ chức bán dâm

Ngày 21-2, Công an quận Cẩm Lệ (TP Đà Nẵng) đã khởi tố vụ án, bắt tạm giam 2 “tú bà” núp bóng tiệm cắt tóc thanh nữ. Trong đó, một người vì đang mang thai nên được cho tại ngoại.

Hai đối tượng được xác định là Nguyễn Thị Hiền (SN 1993, ngụ xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng) và Nguyễn Thị Mỹ Dung (SN 1982, ngụ Quảng Nam).

Theo điều tra, tháng 9-2019, Hiền thuê 2 ngôi nhà số 62, 64 đường Trường Sơn (khu vực gần cầu vượt Hòa Cầm, quận Cẩm Lệ) để mở 2 tiệm cắt tóc thanh nữ Hồng Trâm và Anh Đào. Hiền còn rủ thêm Nguyễn Thị Mỹ Dung để cùng tổ chức mại dâm, tham gia bán dâm khi khách có nhu cầu.

Núp bóng quán cắt tóc ở Đà Nẵng để tổ chức bán dâm - Ảnh 1.

“Tú bà” Nguyễn Thị Hiền bị khởi tố, bắt tạm giam 4 tháng (Ảnh Công an cung cấp)

Cụ thể, Hiền giao Dung quản lý gái mại dâm, thu tiền bán dâm với giá 150.000/cuốc “tàu nhanh”. Trong đó, gái mại dâm nhận 100.000 đồng, còn hai “tú bà” ăn chia phần còn lại.

Đến 21 giờ 45 ngày 17-2, khi Nguyễn Thị Mỹ Dung và một gái mại dâm tên L.T.M (SN 1992, ngụ Thừa Thiên- Huế) đang bán dâm cho hai khách làng chơi thì Công an Quận Cẩm Lệ bất ngờ đột kích.

Công an còn bắt quả tang “tú bà” Nguyễn Thị Hiền và 2 gái bán dâm A.l.T.A (dân tộc Cơ Tu) và H.N (cùng SN 1994, ngụ Quảng Nam) vừa mới bán dâm xong tại đây.

Các đối tượng khai nhận, trong đêm 17-2, động mại dâm Hồng Trâm và Anh Đào mở hàng đón khách từ 20 giờ, để bán dâm cho khách. Đặc biệt, “tú bà” Nguyễn Thị Mỹ Dung mặc dù đang mang thai cũng bán dâm.

Công an đã bắt tạm giam 4 tháng đối với “tú bà” Nguyễn Thị Hiền, cho tại ngoại đối tượng Nguyễn Thị Mỹ Dung vì đang có thai. Với 3 gái bán dâm tại cơ sở, lực lượng chức năng đưa vào cơ sở xã hội TP Đà Nẵng để giáo dục, rèn luyện

Nguồn : nld.com.vn

Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính

Căn cứ pháp lý:

  • Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015
  • Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015.

Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Trường hợp vụ án đã được thụ lý, Tòa án án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi có căn cứ xác định thời hiệu khởi kiện đã hết theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

Điều 116. Thời hiệu khởi kiện

  1. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
  2. a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
  3. b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
  4. c) Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày.
  5. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
  6. a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
  7. b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.
  8. Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện.

Theo đó, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được xác định là thời điểm người khởi kiện nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc thời điểm nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Thời điểm nhận được hay biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính được xác định dựa vào đối tượng bị tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và phân biệt như sau:

  1. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ là đối tượng được nhận quyết định thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ nhận được quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc (được cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc giao trực tiếp, được nhận qua nhân viên bưu điện, qua chính quyền địa phương hoặc những người khác theo quy định của pháp luật).
  2. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là đối tượng bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ không phải là đối tượng được nhận quyết định và thực tế là họ không nhận được quyết định đó thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ biết được quyết định đó.
  3. Trường hợp hành vi của cơ quan, tổ chức hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là thời điểm hành vi hành chính đó được thực hiện hoặc kể từ ngày được thông báo về thời điểm hành vi hành chính đó đã được thực hiện.
  4. Trường hợp hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thủ tục đối thoại trong tố tụng hành chính

Đối thoại là thủ tục tố tụng được Tòa án tiến hành trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Theo quy định tại Điều 20 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, đối thoại là thủ tục bắt buộc trong tố tụng hành chính. Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại giữa các bên đương sự về việc giải quyết vụ án trừ các trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

Điều 20. Đối thoại trong tố tụng hành chính

Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật này.”

Việc đối thoại phải được thực hiện theo đúng nguyên tắc, trình tự thủ tục quy định tại Luật tố tụng hành chính năm 2015. Cụ thể như sau:

  1. Nguyên tắc thực hiện đối thoại:

Việc đối thoại được tiến hành theo các nguyên tắc quy định tại Điều 134 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, cụ thể như sau:

–  Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự;

–  Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính trái với ý chí của họ;

–  Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

  1. Thủ tục thực hiện đối thoại:

Việc đối thoại được tổ chức khi có đầy đủ các thành phần tham gia theo quy định tại Điều 137 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 gồm: Thẩm phán, thư ký, đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự (nếu có), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có). Trường hợp cần thiết, Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia phiên họp. Trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp và thông báo bằng văn bản việc hoãn phiên họp, mở lại phiên họp cho các đương sự.

Trình tự đối thoại được quy định tại khoản 4 Điều 138 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, theo đó Thẩm phán tiến hành thủ tục đối thoại như sau: (i) Thẩm phán phổ biến cho đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc đối thoại để họ tự nguyện thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án; (ii) Người khởi kiện trình bày bổ sung về yêu cầu khởi kiện, những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm của người khởi kiện về hướng giải quyết vụ án (nếu có); (iii) Người bị kiện trình bày bổ sung ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện, những căn cứ ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện và đề xuất hướng giải quyết vụ án (nếu có); (iii) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày bổ sung và đề xuất ý kiến giải quyết phần liên quan đến họ (nếu có); (iiiii) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người khác tham gia phiên họp đối thoại (nếu có) phát biểu ý kiến; (iiiiii) Tùy từng trường hợp, Thẩm phán yêu cầu đương sự nêu văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, đồng thời kiểm tra hiệu lực pháp luật của văn bản đó. Thẩm phán có thể phân tích để các đương sự nhận thức đúng về nội dung văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa chọn và quyết định việc giải quyết vụ án; (iiiiiii) Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất; (iiiiiiii) Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất.

  1. Hậu quả pháp lý của việc đối thoại:

(i) Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, người bị kiện giữ nguyên quyết định, hành vi bị khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án.

(ii). Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện thì Thẩm phán lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện. Người khởi kiện được quyền khởi kiện lại vụ án nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

(iii). Trường hợp qua đối thoại mà người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Tòa án lập biên bản về việc cam kết của đương sự. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị kiện phải gửi cho Tòa án quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải gửi cho Tòa án văn bản rút đơn khởi kiện. Hết thời hạn này mà một trong các đương sự không thực hiện cam kết của mình thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án.

Trường hợp nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khởi kiện thì Tòa án phải thông báo cho các đương sự khác biết. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, nếu các đương sự không có ý kiến phản đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án và gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các bên đã thống nhất và cam kết là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì quyết định của Tòa án có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Theo hướng dẫn tại Văn bản số 55/TANDTC-PC ngày 20 tháng 03 năm 2018 của Tòa án nhân dân tối cao, vụ án hành chính được xác định là vụ việc đối thoại thành khi thuộc một các trường hợp dưới đây:

  • Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện rút đơn khởi kiện; Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Khoản 2 Điều 140 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
  • Trường hợp sau khi đối thoại, người bị kiện ban hành quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện rút đơn khởi kiện như đã cam kết tại phiên họp đối thoại; Tòa án ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Khoản 3 Điều 140 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, tùy theo tính chất, nội dung vụ án mà thời gian để tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ có thể bị kéo dài; đồng thời để việc giải quyết vụ án hành chính được toàn diện, đúng pháp luật cần triệu tập được đầy đủ những người có liên quan đến vụ án. Do đó, trong một số trường hợp Tòa án có thể ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính chỉ mang tính chất tạm thời, khi căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính không còn, Tòa án sẽ tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Theo quy định tại Điều 141 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
  • Đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.
  • Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự.
  • Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan.
  • Cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án.
  • Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó.

Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Theo quy định tại Điều 145 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trong thời gian chuẩn bị xét xử, thẩm phán được hân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án phải gửi quyết định cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Tại phiên tòa, trường hợp có căn cứ quy định tại Điều 141 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ vụ án:

Theo quy định tại Điều 142 Luật tố tụng hành chính năm 2015, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không dẫn tới việc xóa tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án đó để theo dõi. Trường hợp căn cứ tạm đình chỉ không còn thì Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đối với tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.

Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án. Cụ thể: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ trong thời gian ngắn nhất để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các trường hợp nào không được nhận trợ cấp thôi việc?

Theo quy định của pháp luật lao động khi nghỉ việc người lao động được hưởng trợ cấp thôi việc do công ty chi trả, tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp người lao động đều được chi trả khoản tiền này. Với đội ngũ Luật sư uy tín và chuyên nghiệp của Công ty Luật TNHH Hiệp Thành bài viết dưới đấy chúng tôi xin đưa ra tư vấn  cụ thể về vấn đề này như sau:

  1. Căn cứ pháp lý:

Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012;

  1. Luật sư tư vấn

Theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012 thì trợ cấp thất nghiệp được công ty trả cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động thuộc các trường hợp sau:

“Điều 48. Trợ cấp thôi việc

  1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.”

Từ quy định trên có thể liệt kê ra các trường hợp sau sẽ không được tính hưởng trợ cấp thất nghiệp:

  1. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu:

Về độ tuổi nghỉ hưu: đối với nam là đủ 60 tuổi và đối với nữ là đủ 55 tuổi.

Về thời gian đóng bảo hiễm xã hội: có thời gian đóng bảo hiểm đủ 20 năm trở lên.

  1. Người lao động bị áp dụng biện pháp xử lý kỷ luật: Sa thải

Căn cứ áp dụng sa thải:

  1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động;
  2. Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm.

Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 127 của Bộ luật này;

  1. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng.
  2. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:

“Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

  1. Không được trợ cấp thôi việcvà phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động…”

Theo quy định tại điều 37 Bộ luật lao động thì để đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng luật người lao động cần lưu ý:

  1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
  2. a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
  3. b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
  4. c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
  5. d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

  1. e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
  2. g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
  3. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
  4. a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;
  5. b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;
  6. c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
  7. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

Nguời lao động bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật khi thuộc các trường hợp sau khi không thực hiện đúng quy định tại điều 37 nêu trên.

  1. Người lao động có thời gian làm việc thực tế bằng với thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp

Trường hợp này mặc dù người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp, nhưng lại tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp cho toàn bộ thời gian làm việc thì cũng sẽ không được chi trả trợ cấp thôi việc. Bởi lẽ, trợ cấp thôi việc được trả cho quãng thời gian người lao động làm việc thực tế nhưng lại không tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.

Nếu thời gian làm việc thực tế bằng thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp, suy ra trợ cấp thất nghiệp bằng không.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Trịnh Văn Dũng
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Điều kiện và hồ sơ để hưởng trợ cấp thất nghiệp

Để đảm bảo hỗ trợ tối đa quyền lợi cho người lao động sau khi mất việc, nghỉ việc được ổn định, được chi trả trợ cấp thất nghiệp cũng như nhanh chóng tìm được một công việc mới pháp luật Việt Nam nói chung, Bộ luật Lao động; Luật việc làm năm 2013 và các văn bản khác có liên quan đã cụ thể hóa ra bằng những quy định về điều kiện cũng như hồ sơ để người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Luật Việc làm năm 2013;

– Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 03 năm 2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp.

  1. Nội dung tư vấn:

2.1. Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Để được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì NLĐ cần xem xét các điều kiện được hưởng theo quy định tại Điều 49 Luật việc làm năm 2013. Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:

– Thứ nhất về việc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau đây:

+ Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật;

+ Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;

– Thứ hai đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này;

– Thứ ba đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này;

– Thứ tư chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:

+ Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;

+ Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;

+ Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

+ Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù;

+ Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;

+ Chết.

2.2. Cách tính hưởng trợ cấp thất nghiệp

Mức hưởng và thời gian hưởng được quy định tại điều 50 Luật việc làm 2013 như sau:

– Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá 05 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật lao động đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

– Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.

Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này.

2.3. Hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp

Theo quy định tại Điều 16 và Điều 17 Nghị định 28/2015/NĐ-CP thì hồ sowbao gồm những tài liêu như sau:

– Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định.

– Bản chính hoặc bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ sau đây xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc:

– Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;

– Quyết định thôi việc;

– Quyết định sa thải;

– Quyết định kỷ luật buộc thôi việc;

– Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

Trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm thì giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng là bản chính hoặc bản sao có chứng thực của hợp đồng đó.

– Sổ bảo hiểm xã hội.

Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện xác nhận về việc đóng bảo hiểm thất nghiệp và trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của người sử dụng lao động.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Trịnh Văn Dũng
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com