Quảng Ngãi: Bãi biển cạnh KCN Dung Quất bị “nhuộm” màu nâu đen

(PLVN) – Những ngày vừa qua, hàng km bờ biển ở bãi tắm Khe Hai (thôn Trung An, xã Bình Thạnh, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), xuất hiện hiện tượng nước chuyển sang màu nâu đen kèm nhiều bọt.
Quảng Ngãi: Bãi biển cạnh KCN Dung Quất bị “nhuộm” màu nâu đen

Vệt bãi biển cạnh KCC Dung Quất với nước màu nâu đen kèm nhiều bọt

Vị trí này gần Khu kinh tế Dung Quất khiến nhiều người lo lắng cho rằng có khả năng do ô nhiễm trong hoạt động xả thải của các doanh nghiệp.

Anh Nguyễn Trai, 1 hộ dân thôn Trung An cùng nhiều người cho biết, những năm trước, vào mùa biển động, nước cũng có đổi màu nhưng hiện tượng nâu đen kéo dài nhiều ngày qua, nay mới thấy.

“Nguyên một vệt dài bãi biển, nước toàn màu nâu đen xô vào, nhìn rất sợ”, anh Trai rùng mình.

 Nước đọng lại cùng với bọt nhớt

Theo ông Nguyễn Duy Khắc, Chủ tịch UBND xã Bình Thạnh, sau khi nghe phản ánh của người dân, xã đã cử người xuống xem xét tình hình và lấy thử mẫu nước biển vào chai mang về. Dùng tay kiểm tra, ông thấy nhớt.

 Từng đợt sóng nước thẫm màu xô vào bờ

“Mùa biển động các năm, khu vực đổi màu thông thường chỉ khoảng vài trăm mét, nhưng năm nay kéo dài đến 2km. Sóng xô vào bờ và để lại màu trên cát cũng có màu sậm chứ không vàng nhạt và nhanh tan như trước kia”, ông Khắc miêu tả. Ngoài ra, ông Khắc cùng khẳng định, nước biển như những ngày qua là bất thường, tuy nhiên nguyên nhân hiện vẫn chưa rõ.

“Theo phỏng đoán, có nhiều khả năng, hoặc do dầu từ chiếc tàu mắc cạn trong cơn bão số 5 ở gần đó, cũng có thể do hoạt động xả thải từ các doanh nghiệp trong khu kinh tế Dung Quất”,vị Chủ tịch UBND xã đặt nghi vấn.

 Bãi tắm càng vắng vẻ, đìu hiu

Theo ông Trương Duy Khắc, Cục bảo vệ môi trường miền Trung và Tây Nguyên cũng đã về kiểm tra và lấy mẫu nước biển ở khu vực này để làm rõ nguyên nhân.

Nguồn : baophapluat.vn

Vụ học sinh trường Gateway tử vong: Ngành giáo dục Hà Nội nhận “một phần trách nhiệm”

(NLĐO)- Ông Chử Xuân Dũng, Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội, khi trả lời chất vấn tại HĐND TP sáng nay 5-12 cho rằng vụ việc học sinh tử vong tại trường tiểu học Gateway có một phần trách nhiệm của ngành giáo dục Hà Nội, tuy nhiên trách nhiệm lớn nhất là các cá nhân có liên quan trực tiếp.

Sáng 5-12, HĐND TP Hà Nội trong kỳ họp thứ 11 của khóa XV dành một ngày để chất vấn và trả lời chất vấn về 3 nhóm vấn đề nóng, được cử tri và người dân quan tâm.

Tại phần chất vấn về nội dung thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với các trường ngoài công lập trên địa bàn thành phố hiện nay là nhóm vấn đề được đưa ra tái chất vấn tại kỳ họp. Nhắc lại vụ Gateway, đại biểu Hoàng Tú Anh yêu cầu Sở Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Hà Nội và UBND quận Cầu Giấy phân tích nguyên nhân và trách nhiệm sau vụ việc đau lòng này.

Trả lời câu hỏi này, ông Chử Xuân Dũng, Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội, cho biết: “Chúng tôi ý thức được rằng ngành GD-ĐT cũng có một phần trách nhiệm. Đây là một sự việc hi hữu, sự việc rất đau xót đối với ngành, trách nhiệm lớn nhất trong sự việc này là cá nhân có liên quan, là những người đưa đón học sinh, cô giáo chủ nhiệm, ban giám hiệu nhà trường”.

Vụ học sinh trường Gateway tử vong: Ngành giáo dục Hà Nội nhận một phần trách nhiệm - Ảnh 1.

Ông Chử Xuân Dũng, Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội

Về nguyên nhân xảy ra sự việc đau lòng trên, ông Dũng cho rằng có lỗ hổng trong quản lý, tinh thần làm việc thiếu trách nhiệm của các cá nhân trực tiếp liên quan đến sự việc. Còn nguyên nhân cụ thể thì phải chờ xác minh, công bố của cơ quan điều tra.

Cũng theo ông Dũng, sau khi xảy ra sự việc đau lòng đó, ngành giáo dục đã có và đưa ra nhiều giải pháp để không xảy ra những vụ việc tương tự. Sở GD-ĐT đề nghị nhiều cơ quan như Công an, Sở GT-VT vào cuộc hỗ trợ để quản lý trong việc đưa đón trẻ.

Trước đó, như Báo Người Lao Động đã thông tin, chiều 6-8, cháu L.H.L., là học sinh lớp 1, Trường Phổ thông Liên cấp Quốc tế Gateway, được phát hiện tử vong trên ôtô đưa đón của nhà trường. Theo tường trình, khoảng 6 giờ ngày 6-8, tài xế Doãn Quý Phiến lái ôtô từ bãi gửi xe Học viện Báo chí và Tuyên truyền đến đón bà Nguyễn Bích Quy, nhân viên đưa đón học sinh của trường Gateway, để đi đón học sinh.

Xe này sau đó đón bé L.H.L. tại tòa nhà Trung Yên Plaza, quận Cầu Giấy. Trong số 13 học sinh đi xe, bé L. ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Khi đến trường, các cháu xuống xe nhưng tài xế và bà Quy không kiểm tra. Họ không biết cháu L. vẫn chưa xuống. Sau đó, ông Phiến đưa xe về bãi trông giữ.

Chiều cùng ngày, tài xế Phiến đánh xe về đến trường đón học sinh thì sự việc mới được phát hiện. Cháu L. được đưa đến phòng y tế của trường, sau đó được chuyển đến Bệnh viện E, nhưng được xác định tử vong từ trước.

Ngày 7-8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy đã ra quyết định khởi tố vụ án “Vô ý làm chết người” xảy ra tại trường Gateway. Đến ngày 27-8, VKSND quận Cầu Giấy phê chuẩn lệnh khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam 3 tháng đối với bà Nguyễn Bích Quy về hành vi Vô ý làm chết người.

Cùng tội danh nêu trên, ngày 3-9, Cơ quan Cảnh sát điều tra khởi tố đối với ông Doãn Quý Phiến nhưng cho ông này tại ngoại.

Ngày 17-10, ông Đinh Minh Tảo, Viện trưởng VKSND quận Cầu Giấy (TP Hà Nội), cho biết cơ quan này đã quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can Nguyễn Thị Thủy (SN 1990) về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng vì liên quan đến vụ cháu bé L.H.L. (6 tuổi, học sinh trường Gateway) tử vong trước đó vào ngày 6-8. Bị can Nguyễn Thị Thủy, là cô giáo chủ nhiệm của cháu L. được cơ quan tố tụng cho tại ngoại.

 Nguồn : nld.com.vn

Thông tin từ bộ Công an cho biết, C03 vừa triệt phá một đường dây buôn lậu quy mô lớn từ Campuchia về Việt Nam, thu giữ gần 1.000 tấn đường

An ninh - Hình sự - Triệt phá đường dây buôn lậu “khủng” từ Campuchia về Việt Nam, thu giữ gần 1.000 tấn đường

Các xe tải chở đường lậu.

Ngày 4/12, Bộ Công an thông tin: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (C03) đang đấu tranh triệt phá đường dây tội phạm có tổ chức buôn lậu đường cát trắng từ Campuchia về Việt Nam do Vi Hoàng Minh (sinh năm 1994, trú tại số 166 Trần Hưng Đạo, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang) cầm đầu.

Căn cứ vào kết quả điều tra và tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an xác định: Vi Hoàng Minh là đối tượng chủ mưu, đứng ra chỉ đạo đồng bọn thực hiện hành vi mua bán, vận chuyển trái pháp luật đường cát trắng từ Campuchia về Việt Nam.

Trong đó, Vi Hoàng Minh trực tiếp mua, thanh toán tiền đường cát trắng tại Campuchia; chỉ đạo đồng bọn mang các vỏ bao in nhãn mác ghi tên công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Một thành viên Kim Hưng Lợi (do Vi Hoàng Minh là người được ủy quyền điều hành) từ Việt Nam sang Campuchia để thay vỏ bao đường in chữ nước ngoài nhằm che giấu, đối phó với cơ quan chức năng kiểm tra trong quá trình vận chuyển.

Vi Hoàng Minh còn tổ chức lực lượng thuê người bốc vác, vận chuyển hàng bằng ghe từ Campuchia về Việt Nam qua đường Rạch, kênh Vĩnh Tế (thuộc ấp Bà Bài, xã Vĩnh Tế, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang

Tiếp sau đó, các đối tượng thuê xe ô tô tải chở hàng từ bãi tập kết (bãi Cống Đồn, ấp Bà Bài) về kho của công ty TNHH Di Thạnh (địa chỉ đường Tôn Đức Thắng, phường Mỹ Thành, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang).

An ninh - Hình sự - Triệt phá đường dây buôn lậu “khủng” từ Campuchia về Việt Nam, thu giữ gần 1.000 tấn đường (Hình 2).

Đối tượng cầm đầu Vi Hoàng Minh.

Đồng thời, băng nhóm này còn rất tinh quái, chúng tổ chức lực lượng canh gác, cảnh giới dọc tuyến đường ra, vào từ khu vực bãi bốc hàng về kho nhằm phát hiện, đối phó các lực lượng chức năng.

Toàn bộ số lượng đường cát trắng được vận chuyển từ kho của công ty TNHH Di Thạnh đến kho của công ty TNHH Một thành viên Kim Hưng Lợi (tại phường Thốt Nốt, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ) và các nơi khác để tiêu thụ.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại công ty TNHH Một thành viên Kim Hưng Lợi và Công ty TNHH Di Thạnh, thu giữ gần 1.000 tấn đường cát trắng, trị giá hàng tỷ đồng.

Ngày 3/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Buôn lậu” xảy ra tại tỉnh An Giang; ra các Quyết định khởi tố bị can, Lệnh tạm giam đối với 04 đối tượng về tội  “Buôn lậu” theo quy định tại khoản 4 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015, gồm:  Vi Hoàng Minh; Lê Chung Thành; Lê Vũ Phong; Đặng Bảo Huy.

An ninh - Hình sự - Triệt phá đường dây buôn lậu “khủng” từ Campuchia về Việt Nam, thu giữ gần 1.000 tấn đường (Hình 3).

Số đường tang vật bị thu giữ.

Sau khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn các Quyết định và Lệnh nêu trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã thi hành Lệnh tạm giam các bị can theo đúng quy định pháp luật.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an cho biết, đang tập trung điều tra mở rộng vụ án, áp dụng các biện pháp theo luật định để làm rõ tính chất, vai trò, hành vi phạm tội của các bị can và đối tượng có liên quan; thu hồi, kê biên triệt để tài sản cho Nhà nước.

  • Theo : Nguoiduatin.vn

10 nước tham dự diễn đàn Biển ASEAN lần thứ 9 tại Đà Nẵng

10 nước tham dự diễn đàn Biển ASEAN lần thứ 9 tại Đà Nẵng
(PLO)- Sáng 5-12, diễn đàn Biển ASEAN lần thứ 9 (AMF-9) đã chính thức khai mạc tại TP Đà Nẵng với sự tham dự của trên 50 đại biểu đến từ 10 nước ASEAN và Ban thư ký ASEAN.

Đoàn Việt Nam tham dự hội nghị do ông Vũ Hồ – Vụ trưởng Vụ ASEAN, Bộ ngoại giao dẫn đầu, bao gồm đại diện các Bộ Ngoại giao, Quốc phòng, Công an và GTVT.

10 nước tham dự diễn đàn Biển ASEAN lần thứ 9 tại Đà Nẵng - ảnh 1
Đại biểu chụp ảnh lưu niệm trước khi bước vào phiên họp. Ảnh: TA

Phát biểu khai mạc diễn đàn, ông Vũ Hồ khẳng định hợp tác và an ninh biển luôn là một lĩnh vực ưu tiên cao trong hợp tác ASEAN và giữa ASEAN với đối tác.

Hiện có trên 12 cơ quan của ASEAN đang tham gia triển khai các hoạt động hợp tác biển, với nhiều nội dung phong phú từ bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải, tìm kiếm cứu nạn, chống cướp biển, tới chống nạn đánh bắt cá trái phép, bảo vệ môi trường và xử lý nạn rác thải nhựa.

“Mặt khác, trước tình hình thách thức trên biển tiếp tục diễn biến phức tạp, diễn đàn lần này có nhiệm vụ rà soát toàn diện hoạt động hợp tác, xác định những khó khăn, trở ngại và bàn các biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác trong lĩnh vực quan trọng này” – ông nói.

Ông Vũ Hồ cũng đề nghị các nước tích cực trao đổi, đề xuất những giải pháp nhằm củng cố và phát huy hơn nữa vai trò của diễn đàn Biển ASEAN và diễn đàn Biển ASEAN mở rộng trong thúc đẩy đối thoại, phối hợp và hợp tác về những vấn đề trên biển ở khu vực.

10 nước tham dự diễn đàn Biển ASEAN lần thứ 9 tại Đà Nẵng - ảnh 2
Ngày mai (6-9), diễn đàn ASEAN mở rộng (EAMF) lần 7 sẽ chính thức diễn ra sự tham dự của 10 nước ASEAN và tám nước đối tác. Ảnh: TA

Diễn đàn Biển ASEAN thành lập từ năm 2010 với mục đích tạo diễn đàn để các cơ quan liên quan đối thoại, phối hợp các hoạt động hợp tác biển, nhất là trong những vấn đề mang tính liên ngành, liên trụ cột.

Nhiều chủ đề đã được trao đổi tại diễn đàn Biển ASEAN , trong đó bao gồm bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải, thực hiện Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, tìm kiếm cứu nạn, tăng cường kết nối, bảo vệ môi trường biển và thúc đẩy du lịch biển.

Tiếp theo diễn đàn Biển ASEAN, ngày 6-12, diễn đàn Biển ASEAN mở rộng (EAMF) lần thứ 7 sẽ diễn ra sự tham dự của quan chức chính phủ đến từ 10 nước ASEAN và tám nước đối tác là Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc, Nga và Mỹ.

 

Nguồn : PLO

Ban Dân nguyện Quốc hội sẽ giám sát Thủ Thiêm

TP HCMĐoàn công tác của Ban Dân nguyện Quốc hội đã báo cáo Thường vụ Quốc hội, vào giám sát các khiếu nại của người dân về dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm.

Ông Phan Nguyễn Như Khuê. Ảnh: Quỳnh Trần

Ông Phan Nguyễn Như Khuê trả lời cử tri. Ảnh: Quỳnh Trần

Thông tin được ông Phan Nguyễn Như Khuê (Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy TP HCM) nói tại buổi tiếp xúc cử tri quận 2 ngày 4/12, sau khi ghi nhận 24 lượt ý kiến của người dân về các khiếu nại ranh quy hoạch, chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng, khu 160 ha tái định cư…

Thay mặt tổ đại biểu, ông Khuê một lần nữa khẳng định, sau các lần tiếp xúc trước đây đoàn đại biểu Quốc hội thành phố đều có văn bản chuyển tải các nội dung cử tri có ý kiến đến Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Ban Dân nguyên Quốc hội, Ủy ban MTTQ Việt Nam.

Trong đó có các nội dung: 2 kết luận của Thanh tra Chính phủ (TTCP) chưa giải quyết đầy đủ khiếu nại của người dân; nhiều người cho rằng cả 5 khu phố thuộc 3 phường Bình An, Anh Khánh, Bình Khánh nằm ngoài ranh quy hoạch chứ không chỉ riêng 4,3 ha khu phố 1 phường Bình An; đề nghị TTCP sắp xếp đối thoại, lập đoàn liên ngành thanh tra toàn diện về Thủ Thiêm…

Cử tri đưa ra các vấn đề khiếu nại ở Thủ Thiêm. Ảnh: Quỳnh Trần.

Cử tri đưa ra các vấn đề khiếu nại ở Thủ Thiêm. Ảnh: Quỳnh Trần.

Theo ông Khuê, tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội vừa qua, dự kiến có phần chất vấn TTCP về các vấn đề này nhưng sau đó được “xếp lại”. “Tổ đại biểu Quốc hội thành phố không thể quyết định chương trình làm việc mà do Ban thường vụ xem xét chung”, ông Khuê nói và cho biết trong báo cáo của Ủy ban MTTQ có đề nghị các bộ ngành cùng UBND thành phố quan tâm giải quyết vụ việc ở Thủ Thiêm mà cử tri vẫn đang nôn nóng gửi thư, hoặc ra Hà Nội khiếu nại.

Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy thành phố cho biết, thành phố đang trao đổi với các bộ ngành trung ương để giải quyết các vấn đề trên tinh thần “thận trọng và không được tái diễn sai sót”. “Gần Tết rồi, một năm lại trôi qua và các khiếu nại của bà con vẫn còn dang dở. Từ các gửi gắm cử tri hôm nay, chúng tôi sẽ có phương án khẩn trương hơn nữa, nỗ lực hơn nữa để sớm giải quyết vấn đề bà con quan tâm”, ông Khuê nói.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Quyết Tâm (phải) nghe cử tri phản ánh sau buổi làm việc. Ảnh: Quỳnh Trần.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Quyết Tâm (phải) nghe cử tri phản ánh sau buổi làm việc. Ảnh: Quỳnh Trần.

Về việc một số cử tri đề nghị Quốc hội xem xét lại tỷ lệ điều tiết ngân sách cho thành phố, ông Khuê cho biết đang làm các nội dung để báo cáo Ban Kinh tế Trung ương và các bộ ngành liên quan để chuẩn bị cho năm tài khóa mới.

“Hiện thành phố chỉ được giữ lại 18%. Thành phố sẽ kiến nghị Trung ương xem xét tạo điều kiện cho thành phố có đủ tiềm lực chi đầu tư phát triển, chăm lo cho đời sống người dân”, ông Khuê nói và cho biết năm nay thành phố thu ngân sách hơn 400.000 tỷ đồng – gần bằng tổng thu của 2/3 các tỉnh thành trên cả nước.

  • Theo VNexpress

Giá trị của hợp đồng khi được công chứng

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về giá trị của hợp đồng khi được công chứng.

Câu hỏi:

Chào luật sư, em có một câu hỏi mong luật sư trả lời giúp. Vừa qua nhà em có lập một hợp đồng mua bán với khách hàng. Vị khách hàng này yêu cầu hai bên sau khi soạn xong bản dự thảo hợp đồng thì mang đi công chứng và sẽ tiến hành ký kết trước mặt công chứng viên. Vậy luật sư cho em hỏi sau khi được công chứng thì hợp đồng giữa gia đình em và vị khách hàng đó có khác gì so với khi hai bên ký kết mà không công chứng hay không? Em xin cảm ơn.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Luật Công chứng số 53/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2014.

  1. Luật sư tư vấn:

Theo quy định tại khoản 4 điều 2 Luật công chứng năm 2014 thì:

“Văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của Luật này.”

Từ khái niệm mà Luật công chứng đưa ra có thể nhận thấy văn bản công chứng có hai đặc điểm sau đây:

– Là hợp đồng, giao dịch, bản dịch;

– Phải được công chứng viên chứng nhận theo quy định của Luật;

Hợp đồng mà gia đình bạn và vị khách hàng đó đã ký kết khi được công chứng viên chứng nhận theo quy định của luật thì sẽ được xác định là văn bản công chứng. Cũng theo quy định tại Điều 5 Luật Công chứng 2014 thì Giá trị pháp lý của văn bản công chứng cụ thể như sau:

– Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.

– Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thoả thuận khác.

– Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu.

– Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch.

Như vậy, khi tiến hành thủ tục công chứng thì hợp đồng giữa gia đình bạn và vị khách hàng đó sẽ  có các giá trị pháp lý gồm:

Giá trị thi hành

Văn bản công chứng có hiệu lực ngay lập tức sau khi được ký và đóng dấu mà không cần qua sự kiểm định của bất cứ cơ quan nhà nước nào khác. Bởi thực chất khi thực hiện công chứng, bản thân văn bản công chứng đã được kiếm tra, thẩm định dưới một quy trình nghiêm ngặt của tổ chức hành nghề công chứng – tổ chức được nhà nước trao quyền trong hoạt động công chứng. Hợp đồng của gia đình bạn và khách hàng sẽ có hiệu lực ngay lập tức sau khi được ký và đóng dấu. Công chứng viên đã thực hiện kiểm tra, thẩm định dưới một quá trình nghiêm ngặt và không cần phải qua thêm sự kiểm định của bất cứ cơ quan nhà nước nào khác mới có hiệu lực.

Giá trị chứng cứ

Pháp luật Việt Nam thừa nhận chức năng của công chứng viên về xác nhận tính xác thực của các văn bản đã công chứng. Về bản chất khi hợp đồng, giao dịch được công chứng nó sẽ có giá trị chứng cứ không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Có nghĩa là khi bị Tòa án tuyên bố vô hiệu, văn bản công chứng sẽ không có giá trị thực hiện, không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên.Tuy nhiên một người muốn yêu cầu Tòa án tuyên bố một văn bản công chứng là vô hiệu thì phải chứng minh được văn bản công chứng đó được lập một cách trái pháp luật. Nếu không chứng minh được  thì văn bản công chứng sẽ được công nhận là chứng cứ hiển nhiên trước Tòa án. Như vậy, vai trò phòng ngừa của Công chứng viên thể hiện ở chỗ: ngay khi lập hợp đồng, các bên giao kết hợp đồng đã củng cố chứng cứ về việc ký kết hợp đồng đó để đề phòng các tranh chấp về sau.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Quy định chung về chuyển nhượng quyền tác giả

Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan được pháp luật quy định rất cụ thể đảm bảo quyền của các chủ thể. Theo khoản 1 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ quy định việc chuyển nhượng quyền tác giả là việc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định pháp luật liên quan đối với các quyền sau:

– Công bố tác phấm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm (khoản 3, Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ)

– Các quyền liên quan đến quyền tài sản (Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ).

  1. Quyền nhân thân không được phép chuyển nhượng:

– Quyền đặt tên cho tác phẩm;

– Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

– Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

– Riêng quyền nhân thân công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm thì vẫn được chuyển nhượng.

  1. Đặc điểm hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả

Ngoài các đặc điểm chung của Hợp đồng theo Bộ luật dân sự thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả có những đặc điểm sau:

+ Là hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu. Sau khi chuyển nhượng, bên chuyển nhượng sẽ không còn quyền sử dụng, định đoạt các quyền năng đó.

+ Trong trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển nhượng phải có sự thoả thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu.

+ Trong trường hợp có đồng chủ sở hữu nhưng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có quyền chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác.

3. Nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả

Khi tiến hành ký kết một hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả thì nội dung của hợp đồng phải đảm bảo các điều khoản quy định tại Điều 46 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 như sau:

“1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan phải được lập thành văn bản gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

  1. a) Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng;
  2. b) Căn cứ chuyển nhượng;
  3. c) Giá, phương thức thanh toán;
  4. d) Quyền và nghĩa vụ của các bên;

đ) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

  1. Việc thực hiện, sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự.”

Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả cần đẩy đủ các nội dung theo Điều 46 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005. Việc sửa đổi, bổ sung, chấm dứt, hủy bỏ Hợp đồng này áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Có được đặt tên cho tác phẩm dịch không?

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều sách, báo, truyện,… do các tác giả người nước ngoài sáng tác và được dịch ra tiếng Việt. Vậy có được đặt lại tên cho tác phẩm dịch không?

Căn cứ Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về quyền nhân thân của tác giả như sau:

1. Đặt tên cho tác phẩm.

  1. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.
  2. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố 
  3. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.”

Theo quy định trên, đặt tên cho tác phẩm là quyền nhân thân của tác giả. Quyền nhân thân được hiểu là quyền gắn liền với bản thân tác giả mà không thể chuyển giao cho người khác. Do vậy, quyền đặt tên cho tác phẩm là quyền của tác giả và được bảo hộ vô thời hạn. Tác giả có quyền không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào.

Mặt khác, căn cứ khoản 1 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP thì quyền nhân thân được quy định như sau: “Quyền đặt tên cho tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ. Quyền này không áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác”.

Việc đặt tên tác phẩm bằng tiếng Việt không thuộc quyền nhân thân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc dịch lại tác phẩm, đặt tên bằng tiếng Việt vẫn phải xin phép tác giả, vì tác phẩm dịch thuộc tác phẩm phái sinh theo quy định của pháp luật. Khoản 8 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tác phẩm phái sinh như sau: “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn”.

Một trong các hành vi xâm phạm quyền tác giả là làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Như vậy, tác giả có quyền đặt tên cho tác phẩm của mình, tuy nhiên quyền này không được áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Điều này nhằm mục đích bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm gốc.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Các trường hợp bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ

Văn bằng bảo hộ là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân nhằm xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý; quyền đối với giống cây trồng. Trong một số trường hợp, Cục sở hữu trí tuệ từ chối cấp văn bằng bảo hộ, cụ thể khoản 1,2 Điều 117 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định như sau:

“1. Đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Có cơ sở để khẳng định rằng đối tượng nêu trong đơn không đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo hộ;
  2. b) Đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ nhưng không phải là đơn có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 90 của Luật này;
  3. c) Đơn thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 90 của Luật này mà không được sự thống nhất của tất cả những người nộp đơn.
  4. Đơn đăng ký thiết kế bố trí bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ trong trường hợp không đáp ứng yêu cầu về hình thức theo quy định tại Điều 109 của Luật này.”

Như vậy, đối tượng sở hữu công nghiệp bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ do các nguyên nhân sau đây:

– Có cơ sở để khẳng định rằng đối tượng nêu trong đơn không đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo hộ: Nhãn hiệu đã trùng hoặc gây tượng tự, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu khác đã đăng ký; sáng chế không có tính mới hoặc không có khả năng áp dụng công nghiệp; chỉ dẫn địa lý gây nhầm lẫn về nguồn gốc sản phẩm,… sẽ bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ. Nguyên nhân chính dẫn đến việc này là do thiếu sót trong quá trình tra cứu, thẩm định, đánh giá đối tượng sở hữu công nghiệp.

– Người nộp đơn không phản hồi, phản hồi muộn hoặc trả lời chwua thảo đáng công văn dự định từ chối đơn đăng ký của Cục sở hữu trí tuệ.

– Có bên thứ ba phản đối đơn đăng ký: Thông thường, Cục sở hữu trí tuệ sẽ đồng tình với ý kiến phản đối của bên thứ ba nếu bên thứ ba chứng minh được người nộp đơn không có quyền nộp đơn.

– Người nộp đơn không nộp đầy đủ các khoản phí theo quy định: Có 03 trường hợp xảy ra:

+ Do chủ sở hữu không có nhu cầu bảo hộ nữa;

+ Không biết việc nộp phí đăng ký mới được cấp bằng;

+ Do quá bận rộn mà quên đi nộp phí.

– Đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ nhưng không phải là đơn có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 90 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, cụ thể:

“1. Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký cùng một sáng chế hoặc đăng ký các kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc không khác biệt đáng kể với nhau hoặc đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau hoặc tương tự với nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.”

Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp thuộc các trường hợp các thủ tục bị từ chối cấp văn bằng bảo hội thì Cục sở hữu trí tuệ thực hiện các công việc sau đây:

– Thông báo dự định từ chối cấp văn bằng bảo hộ, trong đó phải nêu rõ lý do và ấn định thời hạn để người nộp đơn có ý kiến phản đối dự định từ chối;

– Thông báo từ chối cấp văn bằng bảo hộ nếu người nộp đơn không có ý kiến phản đối hoặc ý kiến phản đối không xác đáng dự định từ chối;

– Cấp văn bằng bảo hộ và ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nếu người nộp đơn có ý kiến xác đáng phản đối dự định từ chối.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Thủ tục đăng ký mã số mã vạch cho sản phẩm

Đăng ký mã số mã vạch là thủ tục cần thiết để các doanh nghiệp có đủ điều kiện phân phối hàng hóa vào các hệ thống siêu thị hay xuất khẩu. Hoặc đơn giản chỉ là giúp doanh nghiệp tự quản lý sản phẩm của mình thông qua mã số, hay là tăng niềm tin của khách hàng vào sản phẩm.

Khoản 1, 2 Điều 3 Quyết định 15/2006/QĐ-BKHCN định nghĩa về mã số, mã vạch như sau:

1. Mã số là một dãy các chữ số dùng để phân định vật phẩm, địa điểm, tổ chức.

  1. Mã vạch là một dãy các vạch thẫm song song và các khoảng trống xen kẽ để thể hiện mã số sao cho máy quét có thể đọc được.

Đăng ký mã vạch cho sản phẩm là việc tổ chức, cá nhân đăng ký với cơ quan nhà nước Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (GS1 Việt Nam) để được cấp giấy chứng nhận đăng ký mã số mã vạch. Từ đó, tổ chức, cá nhân tiến hành đưa mã số mã vạch vào in trên từng sản phẩm để sử dụng.

Muốn có mã số mã vạch trên hàng hoá để xuất khẩu hay bán tại các siêu thị, để quản lý hàng hóa thì trước tiên doanh nghiệp phải gia nhập EAN Việt Nam.

EAN Việt Nam sẽ cấp mã M cho doanh nghiệp và hướng dẫn doanh nghiệp lập mã mặt hàng (mã I) cho từng sản phẩm.

Để được là thành viên của EAN Việt Nam, doanh nghiệp (hộ kinh doanh, công ty…) sẽ phải đóng phí gia nhập và phí hàng năm. Hai loại phí này do đại hội các thành viên quyết định, được ghi trong điều lệ của EAN Việt Nam và có thể thay đổi sau một thời gian áp dụng.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của doanh nghiệp khi áp dụng mã số mã vạch là quản lý mã mặt hàng (mã I) của mình theo nguyên tắc mỗi mã số tương ứng với một loại sản phẩm duy nhất, không được nhầm lẫn. Những sản phẩm khác nhau về tính chất (ví dụ như bia và nước ngọt), về khối lượng, về bao gói… đều phải được cho những mã số mặt hàng khác nhau. Những mã số này sẽ sử dụng lâu dài cùng với sự tồn tại của mặt hàng đó. Những mặt hàng này khi được cải tiến (thay đổi trọng lượng, cách bao gói…) đều phải được cấp mã vạch mặt hàng mới.

Thủ tục đăng ký mã số mã vạch                                                                                            

  1. Hồ sơ đăng ký mã số mã vạch bao gồm:

– Bản sao giấy phép đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp (Có công chứng): 2 bản

– Bản đăng ký Mã số mã vạch (theo mẫu): 2 bản

– Bản danh mục sản phẩm cần đăng ký mã số mã vạch (theo mẫu): 2 bản

  1. Lưu ý khi đăng ký mã số mã vạch phù hợp với giấy phép kinh doanh:

– Đối với các Doanh nghiệp chỉ có chức năng thương mại: Bổ sung thêm 1 biên bản thỏa thuận giữa Doanh nghiệp và chủ cơ sở sản xuất phù hợp với ngành nghề trong giấy phép kinh doanh.

– Đối với các doanh nghiệp trong giấy phép kinh doanh không có chức năng sản xuất mà nhờ đơn vị khác gia công, đóng gói: Ngoài bộ hồ sơ đăng ký thông thường cần phải bổ sung thêm Hợp đồng gia công (sao y công chứng) và Giấy đăng ký nhãn hiệu độc quyền hoặc tối thiểu đã có công văn chấp nhận đơn đăng ký nhãn hiệu hợp lệ, nhãn hiệu trên sản phẩm phải thuộc sở hữu của chính doanh nghiệp đó.

– Khi đăng ký mã số mã vạch cho mặt hàng sách, báo, tạp chí: Thủ tục tương tư như mục trên và kèm theo hợp đồng liên kết xuất bản của từng đầu sách, báo hoặc tạp chí.

  1. Lưu ý với các doanh nghiệp phân phối sản phẩm của công ty mẹ tại nước ngoài, muốn được cấp phép cho mã số của sản phẩm đó tại Việt Nam (Sử dụng mã số nước ngoài tại Việt Nam):

– Doanh nghiệp phải nộp bản ủy quyền của công ty mẹ (có công chứng) cho phép công ty chi nhánh trong nước sử dụng mã doanh nghiệp của công ty mẹ và sử dụng từ số nào đến số nào.

– Công văn đề nghị sử dụng mã nước ngoài.

– Bản đăng ký sử dụng mã số của Doanh Nghiêp nước ngoài trên sản phẩm.

Lưu ý khi lựa chọn loại mã doanh nghiệp phù hợp và kê khai danh mục sản phẩm:

Mã doanh nghiệp: là mã số Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng cấp cho doanh nghiệp để từ đó doanh nghiệp tự phân bổ cho các sản phẩm của mình.

+ Loại mã DN 8 chữ số: khi đăng ký trên 1000 đến dưới 10.000 loại sản phẩm;

+ Loại mã 9 chữ số: khi đăng ký  trên 100 đến dưới 1000 loại sản phẩm;

+ Loại mã 10 chữ số: khi đăng ký tổng chủng loại sản phẩm dưới 100 loại sản phẩm;

Bảng kê danh mục sản phẩm: Liệt kê các sản phẩm hiện tại và sắp tới sẽ sản xuất. Cột Tên sản phẩm: ghi tên và nhãn hiệu sản phẩm. Cột mô tả sản phẩm: ghi đặc điểm của sản phẩm như mầu sắc, mùi vị, loai bao gói (túi nilông, chai nhựa, hộp sắt, hộp giấy), đo lường (trọng lượng, dung tích). Lưu ý: Mỗi loại sản phẩm có đặc điểm khác nhau như dung tích, quy cách đóng gói, trọng lượng hoặc chủng loại sản phẩm… khác nhau thì kê thành từng dòng riêng.

Những lưu ý sau khi đăng ký sử dụng mã số mã vạch:

– Khi đăng kí sử dụng số mã vạch doanh nghiệp phải đóng lệ phí và phí duy trì cho năm đầu tiên. Nếu doanh nghiệp đăng ký sử dụng mã số mã vạch sau ngày 30/6 thì mức phí duy trì chỉ phải nộp trong năm đăng ký bằng 50% mức phí duy trì tương ứng với từng loại mã số mã vạch.

– Sau khi quá trình đăng ký mã số mã vạch thành công từ năm thứ 2 trở đi phí duy trì hàng năm doanh nghiệp phải nộp trước ngày 30/6 hàng năm.

– Khi công ty thay đổi tên công ty, địa chỉ hoặc thất lạc giấy chứng nhận mã số mã vạch đề nghị doanh nghiệp làm thủ tục để thay đổi.

– Khi doanh nghiệp không còn nhu cầu sử dung mã số mã vạch nữa, đề nghị doanh nghiệp làm thủ tục ngừng sử dụng mã số mã vạch.

– Doanh nghiêp phải thường xuyên cập nhật sự thay đổi về các mã sản phẩm trên trang quản lý của GS1 Việt Nam khi có sự thay đổi các sản phẩm kinh doanh.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu

Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Không phải bất cứ dấu hiệu nào cũng đủ điều kiện để được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu. Điều 72 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định về điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ như sau:

“1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;

  1. Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.”

Các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu được quy định cụ thể tại Điều 73 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 như sau:

– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước;

– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép;

– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài;

– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận;

– Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ.”

Yếu tố gây nhầm lẫn ở đây được xác định thông qua các tiêu chí:

-Nhầm lẫn về mặt cấu trúc;

-Nhầm lẫn về mặt phát âm;

-Nhầm lẫn về mặt nội dung và ý nghĩa.

Sau khi xem xét nhãn hiệu không thuộc các trường hợp trên thì nhãn hiệu có yêu cầu được bảo hộ sẽ tuân theo quy trình, thủ tục pháp luật quy định để được công nhận bảo hộ.

Như vậy những dấu hiệu được liệt kê trên đây là những dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu. Nếu Quý khách hàng muốn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thì phải tránh những dấu hiệu không được bảo hộ để tránh mất thời gian.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh

Bí mật kinh doanh là những thông tin bất kỳ có được từ quá trình hoạt động kinh doanh, đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Những thông tin này được giữ kín, không tiết lộ trong cộng đồng, giúp cho chủ sở hữu tạo ra lợi ích kinh tế khi thông tin được giữ bí mật.

Ví dụ: Công thức pha chế Coca-cola là “bí mật kinh doanh” được giữ gìn cẩn trọng. Tài liệu dạng giấy mô tả công thức bí mật được giữ trong kho bảo đảm tại Ngân hàng Tín thác ở Atlanta, và kho này chỉ có thể được mở khi có một Nghị quyết của Ban Giám đốc Công ty.

Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 84 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005:

”1. Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;

  1. Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó;
  2. Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.”

Như vậy, theo quy định trên thì bí mật kinh doanh cần đáp ứng các điều kiện sau:

– Không phải là hiểu biết thông thường hoặc không dễ dàng có được: 

Đây là điều kiện về tính sáng tạo của bí mật kinh doanh. Tri thức, thông tin chỉ được bảo hộ là bí mật kinh doanh nếu nó là thành quả của một quá trình đầu tư tài chính và trí tuệ của chủ sở hữu. Khi bị lộ bí mật kinh doanh thì chủ sở hữu có thể bị thiệt hại về tài sản, nguồn khách hàng,…

Bí mật kinh doanh thường liên quan đến các thông tin như:

+ Bí quyết kỹ thuật và khoa học: công thức sản xuất sản phẩm, bản vẽ thiết kế, cấu tạo kỹ thuật của sản phẩm,…

+ Thông tin thương mại: danh sách khách hàng, hệ thống nhà phân phối, kế hoạch kinh doanh, chiến lược quảng cáo…

+ Thông tin về tài chính.

?????????????????????????????

– Có giá trị thương mại:

Tri thức, thông tin được bảo hộ là bí mật kinh doanh nếu nó tạo ra cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó. Để có được bí mật kinh doanh doanh, doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều tiền của, công sức để thu thập, phát triển, bảo mật bí mật kinh doanh và đổi lại, bí mật kinh doanh tạo ra những giá trị kinh tế độc lập cho người nắm giữ nó.

Thông tin có thể biểu hiện ở khoản tiền, số vốn mà người có được thông tin đã đầu tư để tạo ra hoặc có được thông tin đó. Nó cũng có thể biểu hiện ở mức độ đầu tư thời gian, công sức để tạo ra hoặc thu thập thông tin đó.

– Tính bảo mật: 

Bí mật kinh doanh phải được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được. Một thông tin cũng được coi là có tính bí mật nếu như chỉ có một phạm vi hạn chế những người trực tiếp sử dụng thông tin đó trong doanh nghiệp biết được thông tin và có trách nhiệm giữ bí mật.

Để bảo đảm tính bảo mật của bí mật kinh doanh, chủ sở hữu phải thực hiện các biện pháp cần thiết và phù hợp để giữ bí mật thông tin như: các biện pháp hạn chế việc biết được hoặc tiếp cận thông tin đối với các nhân viên trong doanh nghiệp cũng như các chủ thể khác, các biện pháp chống việc bộc lộ thông tin…

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng