Điều kiện để thành lập công ty làm dịch vụ bảo vệ?

Câu hỏi

Tôi là Ô.T.K vì sắp tới tôi muốn thành lập công ty làm dịch vụ bảo vệ vậy để thành lập công ty làm dịch vụ bảo vệ thì cần những điều kiện gì?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 1 tháng 7 năm 2016 do Chính phủ ban hành quy định về quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện;
  1. Nội dung

Điều kiện để thành lập công ty làm dịch vụ bảo vệ

“Kinh doanh dịch vụ bảo vệ, gồm: Dịch vụ bảo vệ con người, tài sản, mục tiêu và các hoạt động hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” (Điều 3 Khoản 7 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP về quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện).

Ở đây chúng ta cần làm rõ các điều kiện về an ninh trật tự chung được áp dụng cho các ngành nghề kinh doanh, các điều kiện về an ninh, trật tự được áp dụng đối với kinh doanh dịch vụ bảo vệ.

Điều kiện về an ninh, trật tự áp dụng chung cho các ngành, nghề

Căn cứ vào Điều 7 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP thì điều kiện chung cho các ngành nghề về an ninh, trật tự (Kinh doanh dịch vụ bảo vệ) như sau:

“1. Được đăng ký, cấp phép hoặc thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của cơ sở kinh doanh phải không thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đối với người Việt Nam:

Đã bị khởi tố hình sự mà các cơ quan tố tụng của Việt Nam hoặc của nước ngoài đang tiến hành điều tra, truy tố, xét xử.

Có tiền án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác do lỗi cố ý bị kết án từ trên 03 năm tù trở lên chưa được xóa án tích; đang trong thời gian được tạm hoãn chấp hành hình phạt tù; đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ; đang bị quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự theo quyết định của Tòa án.

Đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; có quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian chờ thi hành quyết định; đang nghiện ma túy; đang được tạm hoãn, tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đã bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa đủ thời hạn để được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

b) Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hộ chiếu nước ngoài và người nước ngoài:

Chưa được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp phép cư trú.

Đủ điều kiện về an toàn phòng cháy và chữa cháy theo quy định của pháp luật về phòng cháy và chữa cháy.”

Đồng thời cơ sơ kinh doanh phải có phương án bảo đảm an ninh trật tự như: Xác định khu vực, địa bàn, mục tiêu cụ thể cần phải tăng cường để bảo đảm an ninh, trật tự; biện pháp thực hiện; lực lượng phục vụ thường xuyên; phương tiện phục vụ; biện pháp tổ chức, chỉ đạo; biện pháp phối hợp với chính quyền, cơ quan chức năng có liên quan ở địa phương mà cơ sở kinh doanh hoạt động; tình huống giả định khi có vụ việc liên quan đến an ninh, trật tự xảy ra; công tác huy động lực lượng, phương tiện; biện pháp xử lý.

Điều kiện về an ninh, trật tự đối với kinh doanh dịch vụ bảo vệ

Căn cứ vào Điều 11 của Nghị định số 96/2016/NĐ-CP cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

“1. Là doanh nghiệp.

Người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải có bằng tốt nghiệp từ cao đẳng trở lên và không phải là người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ mà trong 24 tháng liền kề trước đó đã bị thu hồi không có thời hạn Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự (trừ quy định tại khoản 2 Điều 22 Nghị định này).

Cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ của Việt Nam liên doanh với cơ sở kinh doanh nước ngoài:

Cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ của Việt Nam chỉ được liên doanh với cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ nước ngoài trong trường hợp cần đầu tư máy móc, phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác bảo vệ và chỉ được thực hiện dưới hình thức cơ sở kinh doanh nước ngoài góp vốn mua máy móc, phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác bảo vệ.

Cơ sở kinh doanh nước ngoài đầu tư góp vốn với cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ của Việt Nam:

a) Là doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ liên tục ít nhất 05 năm;

b) Người đại diện cho phần vốn góp của cơ sở kinh doanh nước ngoài là người chưa bị cơ quan pháp luật của nước ngoài nơi họ hoạt động kinh doanh xử lý về hành vi vi phạm có liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ từ cảnh cáo trở lên;

c) Phần vốn góp của cơ sở kinh doanh nước ngoài chỉ được sử dụng để mua máy móc, thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác bảo vệ. Số vốn góp đầu tư của cơ sở kinh doanh nước ngoài ít nhất là 1.000.000 USD (một triệu đô la Mỹ). Việc định giá máy móc, thiết bị kỹ thuật do cơ quan quản lý nhà nước về giá có thẩm quyền từ cấp tỉnh trở lên thực hiện; chi phí định giá do cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ chi trả.”

Theo Điều 12 của Nghị định trên cũng nêu rõ đối với trường hợp đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ cũng phải có các điều kiện cở bản như:

“1. Chỉ các cơ sở sau đây mới được đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ:

a) Cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ quy định tại khoản 3 Điều này;

b) Trung tâm dạy nghề của các trường Công an nhân dân;

c) Trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ thuộc Công an từ cấp tỉnh trở lên;

d) Các cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ quy định tại khoản 3 Điều này nếu có nhu cầu hoạt động kinh doanh đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ cho cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ khác thì thực hiện theo quy định của pháp luật về giáo dục nghề nghiệp.

Cơ sở đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải cung cấp cho cơ quan Công an có thẩm quyền quy định tại Điều 24 Nghị định này tài liệu chứng minh về chức năng đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ do cơ quan có thẩm quyền cấp kèm theo giáo trình, chương trình đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ. Nội dung giáo trình theo quy định tại điểm đ khoản 3 Điều này.

Cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo vệ tự đào tạo nhân viên bảo vệ cho cơ sở của mình phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

a) Có phòng học và có địa điểm tập luyện cho nhân viên dịch vụ bảo vệ;

b) Có ít nhất 03 năm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo vệ; có ban quản lý, đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ;

c) Có số lượng nhân viên dịch vụ bảo vệ tối thiểu từ 300 nhân viên trở lên;

d) Có giáo viên hoặc hợp đồng thuê giáo viên giảng dạy. Giáo viên giảng dạy phải có trình độ chuyên môn phù hợp, có bằng tốt nghiệp từ cao đẳng trở lên (trừ môn võ thuật);

đ) Có giáo trình và chương trình đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ. Giáo trình đào tạo gồm các nội dung cơ bản về chính trị; pháp luật; nghiệp vụ bảo vệ; kỹ năng giao tiếp, ứng xử; công tác phòng cháy và chữa cháy; công tác sơ, cấp cứu người bị nạn; quản lý, sử dụng công cụ hỗ trợ; một số động tác võ thuật phục vụ tự vệ và khống chế đối tượng; một số nội dung khác theo yêu cầu thực tiễn của mục tiêu cần bảo vệ. Thời gian đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ ít nhất là 30 ngày.

Các cơ sở chỉ được đào tạo nhân viên dịch vụ bảo vệ sau khi Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Bộ Công an thẩm duyệt giáo trình, chương trình đào tạo. Sau khóa đào tạo phải có văn bản đề nghị cơ quan Công an có thẩm quyền sát hạch đánh giá kết quả và cấp Chứng chỉ nghiệp vụ bảo vệ.”

Như vậy trên đây là những điều kiện để có thể thành lập được công ty kinh doanh dịch vụ bảo vệ. Theo đó khi đáp ứng được các yêu cầu nêu trên thì Quý Khách có thể thành lập công ty kinh doanh dịch vụ bảo vệ.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Cha có được trực tiếp nuôi con dưới 36 tháng tuổi ?

  1. Nội dung

Quyền nuôi con là một trong những vấn đề được quan tâm nhất khi ly hôn, tùy vào sự thỏa thuận, điều kiện kinh tế, khả năng chăm sóc của mỗi bên, Tòa án sẽ quyết định quyền nuôi con theo hướng có lợi nhất cho trẻ. Theo Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Theo quy định của pháp luật, con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều như vậy, trong trường người chồng chứng minh được khả năng đảm bảo tốt hơn về điều kiện vật chất và tinh thần cho con thì vẫn có thể giành được quyền nuôi con sau ly hôn. Trong trường hợp của bạn, để giành quyền nuôi con, bạn nên áp dụng các phương án sau:

– Phương án 1: Thỏa thuận

Thỏa thuận được xem là phương pháp tối ưu hàng đầu, tránh tranh chấp xung đột quyền lợi, vừa đảm bảo điều kiện tốt hơn cho con, vừa để thủ tục ly hôn trở nên đơn giản, nhanh chóng.

– Phương án 2: Chứng minh khả năng nuôi con của người cha và chứng minh người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con.

Nếu phương án 1 thất bại, gia đình bạn vẫn cương quyết muốn nuôi con vì có cơ sở cho rằng nếu con ở với bạn sẽ nhận được sự quan tâm tốt nhất, sự đảm bảo về vật chất, tinh thần tốt nhất thì việc bạn cần làm lúc này là:

– Chứng minh được người vợ không đủ khả năng để đảm bảo đời sống tốt cho con.

– Chứng minh những lợi thế về mặt vật chất và tinh thần vượt trội hơn so với vợ:

+ Có công việc ổn định và mức lương tốt đảm bảo điều kiện tốt cho con;

+ Có chỗ ở ổn định, hợp pháp;

+ Có thể dành thời gian chơi với con, cho con sống trong một môi trường sống tốt về giáo dục, vui chơi, giải trí;

+ Bé có ông , bà trông nom, nhận được nhiều sự quan tâm, chăm sóc;

+ Bố có đạo đức tốt, lối sống lành mạnh đảm bảo một nền tảng giáo dục tốt cho con cái.

Để chứng minh được điều này, bạn phải có hợp đồng lao động, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và những tài sản khác,….

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các chế độ của bảo hiểm xã hội tự nguyện

Câu hỏi

Tôi hiện có nhu cầu để mua bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tôi xin hỏi, chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyên ra sao?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Luật Bảo hiểm Xã hội năm 2014
  1. Nội dung

Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.

Ở đây chúng ta cần làm rõ  các chế độ, điều kiện hưởng chế độ, nội dung từng chế độ.

Theo khoản 2 Điều 4 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, bảo hiểm xã hội tự nguyện có các chế độ hưu trí và tử tuất. Cụ thể:

Chế độ hưu trí

– Điều kiện được hưởng

Căn cứ Điều 73 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định điều kiện được hưởng chế độ hưu trí:

+ Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi;

+ Đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên.

Người lao động đã đủ điều kiện về tuổi theo quy định nêu trên nhưng thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm thì được đóng cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu.

– Mức hưởng lương hưu hàng tháng

+ Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 01/01/2018: Được tính bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội; sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.

+ Từ ngày 01/01/2018: Được tính bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội và tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:

Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;

Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.

Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định hưởng lương hưu theo quy định trên được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.

Chế độ tử tuất: Điều 80 và Điều 81 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 bao gồm:

–  Trợ cấp mai táng

+  Đối tượng:

Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 60 tháng trở lên;

Người đang hưởng lương hưu.

+ Mức trợ cấp: Trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà người thuộc đối tượng trợ cấp mai táng chết

– Trợ cấp tuất

+ Đối tượng hưởng trợ cấp tuất: Người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội, người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội, người đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần.

+ Mức trợ cấp tuất

– Đối với thân nhân của người lao động đang đóng BHXH hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH được tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH cho những năm đóng BHXH trước năm 2014; bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH cho các năm đóng từ năm 2014 trở đi.

– Trường hợp người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ một năm thì mức trợ cấp tuất một lần bằng số tiền đã đóng nhưng mức tối đa bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội; trường hợp người lao động có cả thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện thì mức hưởng trợ cấp tuất một lần tối thiểu bằng 03 tháng mức bình quân tiền lương và thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội.

– Đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết: Được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 02 tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; trường hợp chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 01 tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu.

Như vậy, theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất, và không được hưởng các chế độ: chế độ thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,… như bảo hiểm xã hội bắt buộc mà người sử dụng lao động đóng cho người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Những vụ án khiến ông Nguyễn Đức Chung bị tạm đình chỉ công tác

Thiếu tướng Tô Ân Xô, người phát ngôn Bộ Công an cho biết ông Nguyễn Đức Chung bị đình chỉ công tác để làm rõ trách nhiệm có liên quan đến ba vụ án.

Liên quan đến việc ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch UBND TP Hà Nội bị tạm đình chỉ công tác để xác minh, điều tra làm rõ trách nhiệm có liên quan trong một số vụ án, Chánh Văn phòng Bộ Công an, Thiếu tướng Tô Ân Xô cho biết, theo điều tra ban đầu, ông Nguyễn Đức Chung có liên quan đến ba vụ án.

Thứ nhất là vụ án “Buôn lậu”, “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, “Rửa tiền”, “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Kỹ thuật Nhật Cường (Công ty Nhật Cường), Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội và một số đơn vị liên quan.

Vụ án thứ hai ông Nguyễn Đức Chung có liên quan là “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại TP Hà Nội.

Thứ ba là vụ án “Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước” mà Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam một số người.

Những vụ án khiến ông Nguyễn Đức Chung bị tạm đình chỉ công tác
Ông Nguyễn Đức Chung

 

Ông Nguyễn Đức Chung sinh năm 1967, quê quán tỉnh Hải Dương.

Ông Chung từng nhiều năm làm công tác điều tra hình sự, lần lượt giữ các chức vụ Phó phòng, rồi Trưởng phòng Cảnh sát Hình sự, Phó giám đốc Công an TP, Thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Hà Nội…

Ông từng được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang khi 37 tuổi (năm 2004) và được phong hàm Thiếu tướng ngày 13/ 7/ 2013, khi mới 46 tuổi – Thiếu tướng trẻ nhất ngành Công an thời điểm được phong quân hàm.

Vào tháng 9/2012, ông được chính thức bổ nhiệm làm Giám đốc Công an TP Hà Nội khi đang mang quân hàm đại tá. Ông Chung ngồi ghế Giám đốc Công an TP Hà Nội từ 2012-2016.

Ông Nguyễn Đức Chung được bầu làm Phó bí thư Thành ủy Hà Nội tại Đại hội Đảng bộ TP khóa 16 nhiệm kỳ 2015 – 2020.

Tại kỳ họp HĐND TP Hà Nội tháng 12/2015, ông được bầu làm Chủ tịch UBND TP. Từ đây, ông chính thức chuyển khỏi ngành công an để đảm nhận chức vụ mới này.

Nguồn : vietnamnet.vn

Phúc thẩm vụ Gateway, bên liên quan bất ngờ rút kháng cáo

Tại phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ bé trai 6 tuổi tử vong trên ô tô đến trường Gateway, bên liên quan là Công ty Ngân Hà đột ngột rút toàn bộ kháng cáo.

Sáng nay (11/8), TAND TP Hà Nội đưa vụ bé trai 6 tuổi tử vong trên xe ô tô đến trường Gateway ra xét xử phúc thẩm.

Tại tòa, bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là Công ty Ngân Hà xin rút toàn bộ kháng cáo.

Phúc thẩm vụ Gateway, bên liên quan bất ngờ rút kháng cáo
Các bị cáo tại tòa

Trước đó, công ty này kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại mức bồi thường dân sự.

Theo Công ty Ngân Hà, tòa án cấp sơ thẩm buộc công ty phải chịu trách nhiệm bồi thường 249 triệu đồng cho gia đình bị hại thay cho cả bị cáo Nguyễn Bích Quy và Doãn Quý Phiến là không đúng quy định của pháp luật.

Phúc thẩm vụ Gateway, bên liên quan bất ngờ rút kháng cáo
Các luật sư tại tòa

Phiên tòa phúc thẩm vắng mặt nhiều người làm chứng. Luật sư của bà Nguyễn Bích Quy đề nghị triệu tập người làm chứng, đặc biệt là người phụ nữ tên T.

Luật sư cũng đề nghị đưa ra vật chứng của vụ án là áo sơ mi và ba lô của cháu L. Bên cạnh đó, luật sư xuất trình một số tài liệu mới là các đoạn băng ghi âm.

Đại diện VKS đưa ra ý kiến cho rằng, dù vắng mặt nhiều người làm chứng nhưng họ đều đã có đầy đủ lời khai ở quá trình điều tra.

Hơn nữa, tại phiên tòa sơ thẩm, những người này đã được triệu tập đến tòa để thẩm tra lại, nên việc vắng mặt của các nhân chứng này trong phiên tòa phúc thẩm không ảnh hưởng đến việc xét xử.

Phúc thẩm vụ Gateway, bên liên quan bất ngờ rút kháng cáo
Bị cáo Nguyễn Bích Quy và Doãn Qúy Phiến

Đối với việc các luật sư đưa ra tài liệu mới, đại diện VKS chưa nhận được những tài liệu này nên không có ý kiến.

Sau khi nghỉ hội ý, HĐXX cấp phúc thẩm cho rằng, dù một số người làm chứng vắng mặt, nhưng những người này đều có đơn xin xét xử vắng mặt, giữ nguyên lời khai.

Luật sư của bị cáo Nguyễn Bích Quy có nộp băng ghi âm. Sau khi nghiên cứu, HĐXX cấp phúc thẩm thấy, nội dung trong băng ghi âm không có gì mâu thuẫn với lời khai của của người làm chứng tên T., không mâu thuẫn với những tài liệu có trong hồ sơ.

Qúa trình xét xử, nếu thấy cần thiết, HĐXX sẽ cho triệu tập chị T. Đối với đề nghị của luật sư yêu cầu đưa đến tòa một số vật chứng của vụ án là ba lô và áo của cháu L., HĐXX cho rằng không cần thiết.

Nguồn : vietnamnet.vn

Bắt người mẹ sát hại con gái ba tuổi trong nhà nghỉ ở Sài Gòn

Hằng khai bị trầm cảm, giết con để giải thoát cho con khỏi bệnh hiểm nghèo, rồi sẽ tự vẫn chết theo.

Cơ quan CSĐT Công an quận Bình Tân đang tạm giữ hình sự Nguyễn Thị Thuý Hằng (SN 1988, quê Bến Tre) để điều tra hành vi “giết người”.

Đáng nói nạn nhân chỉ mới 3 tuổi, là con ruột của Hằng.

Trước đó, sáng 6/8 Hằng đến Công an địa phương đầu thú, khai báo hành vi giết con ruột. Tiếp nhận thông tin, Công an tìm đến một nhà nghỉ ở đường 6A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, phát hiện thi thể cháu bé 3 tuổi trong tủ quần áo.

Theo điều tra ban đầu, bé N.Q.A (SN 2017) là con ruột của Hằng, cháu đang bị bệnh hiểm nghèo.

Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tiền chữa bệnh cho con nên Hằng sinh ra trầm cảm.

Do nghĩ quẩn, trưa 5/8 Hằng ôm con đến thuê phòng tại nhà nghỉ ở đường 6A, phường Bình Trị Đông B. Tại đây, Hằng dùng dây sạc điện thoại siết cổ con, đến khi đứa bé nằm bất động.

Biết con đã chết, Hằng mang thi thể con giấu trong tủ quần áo trong phòng nhà nghỉ.

Sáng 6/8, Hằng ra kênh Tàu Hũ định tự vẫn nhưng không dám nhảy. Tiếp đó, Hằng đến khu vực cầu Sài Gòn và một chung cư cao tầng ở khu dân cư Trung Sơn, huyện Bình Chánh để tiếp tục ý định tự vẫn nhưng cũng không thành.

Ngay trong sáng đó, Hằng đến Công an đầu thú và khai báo hành vi giết chính con ruột của mình.

Nguồn : vietnamnet.vn

Vợ con cùng nhà xưởng bị thiêu rụi, giám đốc ở Hà Nội hầu tòa

Sau vụ hỏa hoạn tang thương ở Hà Nội làm 8 người thiệt mạng (trong đó có 2 cháu bé), giám đốc một công ty phải hầu tòa.

Hôm nay (10/8), TAND TP Hà Nội đưa bị cáo Vũ Khánh Sơn (SN 1979, ở Thanh Trì, cựu Giám đốc Công ty CP đầu tư xây dựng và thương mại công nghệ môi trường 79) ra xét xử Tội Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy.

Tháng 2/2011, ông Sơn thành lập Công ty CP đầu tư xây dựng và thương mại Công nghệ môi trường 79 (Công ty 79) và giữ chức Chủ tịch HĐQT.

Vợ con cùng nhà xưởng bị thiêu rụi, giám đốc ở Hà Nội hầu tòa
Khu nhà xưởng xảy ra vụ hỏa hoạn khiến 8 người tử vong sáng 12/4

Năm 2016, bị cáo mua khu xưởng đã được xây dựng sẵn bằng khung thép, mái tôn (diện tích khoảng 180m2) ở phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm để làm nơi sản xuất thùng nhựa đựng rác thải.

Sau khi mua khu xưởng, bị cáo sửa lại, thuê anh Bùi Văn Hạ (SN 1970, ở quận Thanh Xuân) lắp đặt hệ thống điện trong nhà xưởng.

Xưởng sản xuất thường xuyên có 2-6 công nhân làm việc và ăn ở tại chỗ.

Khoảng 2h ngày 12/4/2019, bên trong khu xưởng bị chập mạch điện trên đường dây dẫn điện tại cột chống gác xép số 2 (cột chống giữa nhà), khiến xảy ra đám cháy.

Hỏa hoạn còn lan sang 5 nhà xưởng sản xuất xung quanh.

Khi xảy ra vụ cháy, có các công nhân đang ở trong xưởng gồm: Trần Ngọc Hiến (SN 1992), Trần Thị Lan (SN 1990), Lương Quốc Việt (SN 1986), Nguyễn Anh Tuấn (SN 1985), Lương Quốc Dân (SN 1984), Trần Văn Hải (SN 1994), Lê Văn Hải (SN 2001), cùng 2 con của anh Việt và chị Lan là cháu Lương Công Minh (SN 2013) và Lương Mạnh Tuấn (SN 2018).

Trong số 9 người trên, có 8 người thiệt mạng do bị ngộ độc khí CO. Riêng anh Hiến bị bỏng nhẹ và chạy thoát.

Vụ hỏa hoạn còn gây thiệt hại hàng hóa, máy móc nhà xưởng của ông Sơn và các nhà xưởng xung quanh, với tổng thiệt hại hơn 1,4 tỷ đồng.

Cáo buộc cho rằng, ông Sơn làm giám đốc nhưng không thực hiện trách nhiệm về PCCC.

Bị cáo không tổ chức tuyên truyền phổ biến kiến thức về PCCC trong cơ sở, không ban hành nội quy và biện pháp về PCCC, cũng không tổ chức thực hiện việc chấp hành các quy định về PCCC.

Khi xảy ra cháy không có phương án chữa cháy, thoát nạn, cứu người, cứu tài sản và chống cháy lan.

Bị cáo cho công nhân ngủ tại kho xưởng sản xuất, nhưng phòng ngủ không được ngăn cách với gian phòng thuộc nhóm nguy cơ cháy nổ khác bằng các bộ phận ngăn cháy hay kết cấu ngăn cách với giới hạn chịu lửa theo quy định…

Vì vậy, Giám đốc Công ty 79 bị truy tố Tội Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy.

Tuy nhiên phiên tòa hôm nay đã phải hoãn, dời sang một ngày khác, do bị cáo và luật sư xin hoãn tòa.

Lý do vì bị cáo mới mời luật sư, người bào chữa chưa có đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ.

Nguồn : vietnamnet.vn

Hỗn chiến đông người, hai anh em bị chém trọng thương

Hỗn chiến xảy ra do mâu thuẫn lúc mua đồ ăn vặt khiến hai người bị thương tích nặng.

Công an quận Thủ Đức hiện đang truy bắt các đối tượng liên quan đến vụ ẩu đả đông người khiến hai người bị thương tích nặng vừa xảy ra trên địa bàn tối 8/8.

Hiện trường vụ việc là điểm bán bắp xào ở giao lộ đường Kha Vạn Cân – đường 36, phường Linh Đông, quận Thủ Đức.

Hai nạn nhân bị thương là anh em ruột Trần Đình Th (SN 1989) và Trần Đình T (SN 1993, cùng ngụ quận Thủ Đức).

Hỗn chiến đông người, hai anh em bị chém trọng thương
Hiện trường vụ hỗn chiến khiến hai anh em bị thương nặng

Cụ thể, khoảng 21h ngày 8/8, hai người đàn ông đi xe gắn máy đến mua bắp xào ở điểm nói trên. Cùng thời điểm, nạn nhân Trần Đình Th cũng đi xe đến mua.

Tại đây do hai bên xảy ra mâu thuẫn nên cự cãi lớn tiếng. Th chạy xe bỏ đi.

Một lúc sau, Th quay lại cùng với hung khí trên tay và đi cùng người em ruột, là T. Hai anh em xông vào hỗn chiến với hai người tại hiện trường.

Hai người bị đánh đã chụp lấy con dao trong điểm bán ốc xào để chống trả và tấn công, khiến anh em Th và T đều bị thương tích nặng. Sau khi gây án, hai người nhanh chóng tẩu thoát.

Hai anh em nạn nhân được dân xung quanh đưa vào bệnh viện cấp cứu.

Trong đó, cả hai anh em đều bị những vết đâm chém nhiều vị trí trên cơ thể. Đáng nói nạn nhân T bị vết thương ở phổi.

Công an địa phương nhận tin báo đã phong toả hiện trường, lấy lời khai những người liên quan, đồng thời trích xuất hình ảnh camera an ninh, phục vụ cho việc nhận dạng, truy bắt các đối tượng gây án.

Nguồn : vietnamnet.vn

Tình tiết “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” và “người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm”.

  1. Nội dung

Người thân của tôi vừa bị mất do tai nạn giao thông. Người gây tai nạn giao thông đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì người gây tai nạn là người thân của gia đình, sau khi gây tai nạn người này đã khẩn trương cấp cứu nạn nhân nhưng hậu quả nạn nhân chết vẫn xảy ra, sau vụ tai nạn người này đã bồi thường thiệt hại rất thỏa đáng cho gia đình. Do những nguyên nhân này, gia đình tôi đã nhiều lần gửi đơn bãi nại lên cơ quan có thẩm quyền nhưng người gây tai nạn vẫn tiếp tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tôi xin hỏi, cơ quan có thẩm quyền tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự người gây tai nạn giao thông trong trường hợp này có đúng không?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Hình sự năm 2015;
  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
  1. Nội dung

Việc cơ quan có thẩm quyền tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự người gây tai nạn giao thông sau khi có đơn bãi nại từ người thân nạn nhân là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Ở đây chúng ta cần làm rõ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự người vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ gây hậu quả chết người, các trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại, hậu quả pháp lý của việc rút đơn khởi tố theo yêu cầu bị hại, ý nghĩa pháp lý các hành vi của bị can/bị cáo sau hành vi vi phạm.

Cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự người vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ gây hậu quả chết người quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Các tội khởi tố theo yêu cầu bị hại là:

–  Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,

–  Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,

–  Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội,

–  Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,

–  Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính,

–  Điều 141. Tội hiếp dâm,

–  Điều 143. Tội cưỡng dâm,

–  Điều 155. Tội làm nhục người khác,

–  Điều 156. Tội vu khống

–  Điều 226.Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Như vậy, trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ.

Tội vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ không thuộc 10 tội nêu trên nên vụ án được khởi tố không theo yêu cầu bị hại. Việc bãi nại vụ án không làm ảnh hưởng đến tiến trình tố tụng của vụ án.

Sau khi xảy ra tai nạn, nếu người gây tai nạn đã tự giác khẩn trương cấp cứu nạn nhân để giảm thiểu thiệt hại của vụ tai nạn thì có thể được coi là thuộc tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm a khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Sau vụ tai nạn người gây tai nạn đã tự nguyện thực hiện đầy đủ trách nhiệm dân sự, bồi thường các thiệt hại về vật chất và tinh thần do hành vi vi phạm của mình gây ra cho gia đình nạn nhân có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Vậy, vì tội vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ không thuộc 10 tội màvụ án được khởi tố không theo yêu cầu bị hại nên việc bãi nại của bị hại không làm ảnh hưởng đến tiến trình tố tụng của vụ án. Các hành động của người gây tai nạn sau khi gây tai nạn chỉ có thể được xét đến là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Phụ lục hợp đồng

  1. Nội dung

1. Bên cạnh những hợp đồng có nội dung rõ ràng, ngắn gọn thì có nhiều hợp đồng có nội dung rất dài và phức tạp. Trong khi đó, các điều khoản hình thành: hợp đồng cần ngắn gọn, dễ hiểu, chứa đựng thông tin cấn thiết đề thực hiện hợp đồng đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, khi giao kết hợp đồng, các bên thường thỏa thuận phụ lục kèm theo để giải thích, quy định chi tiết các điều khoản của hợp đồng, Ví dụ như kèm theo hợp đồng thuê nhà là phụ lục miêu tả các loại, số lượng, chất lượng tài sản có trong ngôi nhà cho thuê.

Vì phụ lục của hợp đồng là một phần của hợp đồng nên nó có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của phụ lục của hợp đồng phù hợp với nội dung của hợp đồng và không được trái với nội dung của hợp đồng. Vì được xây dựng và xác lập kèm theo, hợp đồng nên nội dung của phụ lục cũng là nội dung của hợp đồng, bị ràng buộc và được thực hiện như các nội dung khác của hợp đồng không thể tách rời.

Phụ lục của hợp đồng không phải là hợp đồng phụ. Như được binh luận Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng phụ là một hợp đồng riêng biệt tách khỏi hợp đồng chính và có hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính. Còn phụ lục hợp đồng là một bộ phận của hợp đồng, hiệu lực của nó như hiêu lực của hợp đồng mà nó kèm theo. Các bên hợp đồng cũng phải thực hiện các nội dung trong phụ lục cùng với nội dung khác trong hợp đồng.

  1. Thông thường, các bên thỏa thuận nội dung trong phụ lục phù hợp với nội dung của hợp đồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, vì lý do nào đó các bên trong hợp đồng lại thỏa thuận các nội dung trong phụ lục trái với các điêu khoản của hợp đồng. Vì phụ lục của hợp đồng là một phần của hợp đồng nên trường hợp này điều luật quy định điều khoản trái với nội dung của hợp đồng sẽ không có hiệu lực trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được sửa đổi.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Hợp đồng vô hiệu

  1. Nội dung

Hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Vì hợp đồng là một loại giao dịch phổ biến nên các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng được áp dụng để giải quyết đối với hợp đồng vô hiệu.

Ngoài ra, căn cứ vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực mà hợp đồng được loại thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Chính vì vậy, điều luật có quy phân định thêm về sự ảnh hưởng về hiệu lực lẫn nhau giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ như sau:

Vì hợp đồng phụ là hợp đồng có hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính nên sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chẩm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính.

Tuy nhiên điều luật có quy định loại trừ việc áp dụng quy định này đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bởi lẽ, giao dịch bảo đảm là loại hợp đồng phụ có mục đích bảo đảm cho nghĩa vụ chính. Nghĩa vụ chính có thể phát sinh từ hợp đồng nhưng cũng có thê phát sinh ngoài hợp đồng như các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng vô hiệu, hợp đồng bị hủy bỏ hoặc từ trách nhiệm dân sự… Vì vậy, mối quan hệ về hiệu lực giữa hợp đồng bảo đảm với hợp đồng chính sẽ được pháp luật về biện pháp bảo đảm có quy định riêng.

Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính. Ảnh hưởng về hiệu lực của hợp đồng chính – hợp đồng phụ chỉ là sự ảnh hưởng một chiều tức là chỉ có hợp đồng phụ bị phụ thuộc vào hợp đồng chính còn hiệu lực của hợp đồng chính được xác định một cách độc lập, không bị ảnh hưởng bởi hợp đồng phụ. Chính vì vậy, khi hợp đồng phụ bị vô hiệu thì hợp đồng chính vẫn có hiệu lực một cách bình thường nếu nó tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Lỗi trong trách nhiệm dân sự

  1. Nội dung

Mặc dù, điều luật không dưa ra định nghĩa về lỗi nhưng trong khoa học pháp lý lỗi được hiểu là thái độ tâm lí chủ quan của người vi phạm nghĩa vụ dân sự, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Theo Luật La Mã, lỗi (Culpa) là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật yêu cầu. Pháp luật dân sự Việt Nam cũng giống với pháp luật dân sự của các nước Châu Âu lục địa khác như Đức, Pháp đều kế thừa Luật La Mã và coi lỗi trong dân sự là lỗi suy đoán tức là người vi phạm có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi còn người có quyền chỉ phải chứng minh người có nghĩa vụ không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ đã bao hàm cả yếu tố lỗi. Là một yếu tổ để xác định trách nhiệm bối thường. mức độ bổi thường trong một số trường hợp nên điều luật đã đưa ra khái niệm và hình thức lỗi làm cơ sở để xác định trong từng trường hợp nhất định. Theo nội dung điều luật. lỗi được phân thành hai loại là lỗi cổ ý và lỗi vô ý.

– Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệi hại cho người khác mà vần thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hai xảy ra.

– Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho răng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

– Trong dân sự, về nguyên tắc, việc phân biệt hình thức lỗi cố ý hay vô ý không có nhiều ý nghĩa. Nó chi có ý nghĩa trong những trường hợp ngoại lệ khi cần xác định trách nhiệm hoặc phạm vi bồi thường. Cụ thế, xác định được đúng hình thức và mức độ lỗi trong dân sự sẽ có ý nghĩa trong một số trường hợp sau:

(1) Xác định được căn cứ phát sinh trách nhiệm: Có những trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự nếu có lỗi cố ý ví dụ như khoản 4 Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch có ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đai diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Điều 143 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ” Hoặc khoản 2 Điều 231 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 232 Bộ luật Dân sự năm 2015 đều quy định bên chiếm hữu gia súc, gia cầm thất lạc phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm gia súc, gia cầm chết. Ngoài ra. Điều 577 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định khi người thực hiện công việc không có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì phải bồi thường thiệt hại cho người có công việc được thực hiện. Hoặc khoản 2 Điều 596 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường. Tương tự, khoản 4 thường thiệt hại trong trường hợp một người cố ý đưa người khác vào việc dùng chất kích thích gây thiệt hại cho người khác.

(2) Có ý nghĩa trong việc giảm mức bối thường: trong một số trường hợp người gây ra thiệt hại được giảm mức bồi thường nếu có lỗi vô ý. Ví dụ: khoàn 2 Điều 577 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vô ý mà gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận cóng việc, người đó có thể được giảm mức bôi thường”. Hoặc khoản 2 Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng ghi nhận “Người chịu trách nhiệm bôi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com