Chồng yêu cầu ly hôn đơn phương khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng

Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Ly hôn khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Câu hỏi khách hàng:

Chào luật sư, tôi kết hôn với vợ được 12 tháng vì bác sĩ bảo cưới. Tuy nhiên, khi con đẻ ra được 3 tháng thì tôi phạt hiện thằng bé không phải là con ruột của tôi, hiện nay bé được 4 tháng. Hai bên đã có sự to tiếng qua lại với nhau. Hiện nay, cuộc sống trong gia đình luôn căng thẳng mà tôi cũng không muốn tiếp tục kéo dài khoảng thời gian này nữa nên đã đề nghị với vợ để có thể tiến hành ly hôn nhưng cô ấy không đồng ý. Vậy tôi có quyền được yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương cho tôi được không và khi ly hôn tôi có phải cấp dưỡng cho đứa bé không, mong luật sư giải đáp giùm tôi!

Xin cảm ơn luật sư!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Ly hôn là việc chấm dứt mối quan hệ vợ chồng, loại bỏ các trách nhiệm trong hôn nhân giữa vợ và chồng căn cứ theo bản án, quyết định của Tóa án. Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:

1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

  1. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
  2. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”

Theo đó, vợ và chồng đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tuy nhiên, pháp luật có hạn chế quyền ly hôn của người chồng khi người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng để bảo vệ quyền, lợi ích của người mẹ và đứa trẻ. Bên cạnh đó, luật không quy định người vợ có thai, sinh con và đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi phải là con ruột của người cha. Do đó, hiện nay bé mới được 4 tháng và bạn không có quyền yêu cầu ly hôn đơn phương với vợ.

Điều 88 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về xác định cha, mẹ:

“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.

Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.

Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

  1. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.”

Như vậy, theo nguyên tắc, hiện nay đứa trẻ đang được xác định là con chung của vợ chồng, khi bạn không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định. Quy định của pháp luật chỉ hạn chế quyền ly hôn của người chồng nhưng không hạn chế quyền ly hôn của người vợ, vậy nên bạn có thể thỏa thuận với người vợ về việc ly hôn, nếu không, bạn sẽ phải đợi đến khi đứa bé đủ 12 tháng trở lên thì bạn mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn đơn phương. Việc ly hôn sẽ phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi vợ chồng ly hôn theo quy định tại Điều 110 Luật hôn nhân gia đình năm 2014:

“Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sông chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.”

Mà mối quan hệ cha – con ở đây là con ruột hoặc con nuôi, cho nên, khi bạn không muốn thực hiện nghĩa vụ này, bạn cần có những chứng cứ để yêu cầu Tòa án xác nhận không có quan hệ cha con giữa bạn và đứa trẻ:

Hồ sơ khởi kiện bao gồm:

+ Đơn yêu cầu xác nhận không có quan hệ cha con;

+ Bản sao Giấy khai sinh của trẻ;

+ Bản sao CMND/CCCD/hộ chiếu của bạn;

+ Bản sao Sổ hộ khẩu;

+ Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;

+ Các tài liệu, chứng cứ chứng minh không có quan hệ cha, con (Giấy xét nhiệm ADN,…)

Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người mẹ.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Vợ chồng được cấp bao nhiêu bản giấy chứng nhận đăng ký kết hôn khi đăng ký?

Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Vợ chồng được cấp bao nhiêu bản giấy chứng nhận đăng ký kết hôn khi đăng ký?

Câu hỏi khách hàng:

Hiện tại em rất bối rối về vấn đề đăng kí kết hôn. Ngày 25/09 em cùng người yêu đi đăng kí kết hôn tại xã anh ấy. Do người quen nên bên đó không yêu cầu giấy tờ tùy thân CMTND. Tuy nhiên, xã lại chỉ cấp 1 bản chính giấy đăng kí kết hôn sau khi hai bên ký.

Em muốn hỏi: Theo quy định là mỗi bên vợ chồng sẽ được cấp 1 bản chính, xã làm thế có vi phạm thủ tục không và liệu em có thể hủy giấy đăng kí này không (em đang muốn hủy đăng ký) và có cơ sở nào khác để giấy đăng kí này mất hiệu lực ?

Mong luật sư có thể giúp em. Cảm ơn.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Hộ tịch số 60/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Khoản 2 Điều 18 Luật hộ tịch 2014 quy định:

Điều 18. Thủ tục đăng ký kết hôn

  1. Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, công chức tư pháp – hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp – hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ.

…”

Như vậy, căn cứ theo quy định pháp luật trên thì khi bạn đăng ký kết hôn thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã sẽ cấp cho vợ chồng bạn mỗi bên 1 bản chính Giấy chứng nhận kết hôn.

Trong trường hợp này, bạn có thể làm đơn gửi lên Ủy ban nhân dân huyện (Điều 70 Luật hộ tịch 2014) để Ủy ban nhân dân huyện thu hồi lại Giấy chứng nhận kết hôn, cụ thể tại Điều 12 Luật hộ tịch 2014:

“Điều 12. Các hành vi bị nghiêm cấm

  1. Nghiêm cấm cá nhân thực hiện các hành vi sau đây:
  2. a) Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; làm hoặc sử dụng giấy tờ giả, giấy tờ của người khác để đăng ký hộ tịch;
  3. b) Đe dọa, cưỡng ép, cản trở việc thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch;
  4. c) Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đăng ký hộ tịch;
  5. d) Cam đoan, làm chứng sai sự thật để đăng ký hộ tịch;

đ) Làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ hộ tịch hoặc thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch;

  1. e) Đưa hối lộ, mua chuộc, hứa hẹn lợi ích vật chất, tinh thần để được đăng ký hộ tịch;
  2. g) Lợi dụng việc đăng ký hộ tịch hoặc trốn tránh nghĩa vụ đăng ký hộ tịch nhằm động cơ vụ lợi, hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước hoặc trục lợi dưới bất kỳ hình thức nào;
  3. h) Người có thẩm quyền quyết định đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch cho bản thân hoặc người thân thích theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình;
  4. i) Truy cập trái phép, trộm cắp, phá hoại thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch.
  5. Giấy tờ hộ tịch được cấp cho trường hợp đăng ký hộ tịch vi phạm quy định tại các điểm a, d, đ, g và h khoản 1 Điều này đều không có giá trị và phải thu hồi, hủy bỏ.

…”

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Thừa kế quyền sử dụng đất khi chưa được cấp Giấy chứng nhận

Thừa kế quyền sử dụng đất khi chưa được cấp Giấy chứng nhận. Mẹ tôi có mua một mảnh đất từ năm 1989, chưa được cấp sổ đỏ, nay chồng tôi muốn thừa kế phần đất đó.

Sau đây, Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Thừa kế quyền sử dụng đất khi chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Câu hỏi khách hàng:

Xin chào luật sư! Tôi có một vấn đề mong luật sư tư vấn giúp tôi. Hiện nay gia đình tôi đang ở trên mảnh đất mẹ chồng tôi mua của chính quyền xã tôi từ năm 1989, mảnh đất đó đến nay vẫn chưa được cấp sổ đỏ, hàng năm gia đình tôi vẫn đóng thuế đất ở đầy đủ. Năm 2018 mẹ chồng tôi không may mắc bệnh và qua đời, mọi giấy tờ liên quan đến đất ở cũng như các giấy tờ khác đều bị thất lạc. Hiện tại gia đình tôi có chồng tôi con tôi và tôi. Bố mẹ đẻ, bố mẹ chồng, chồng của mẹ tôi đều đã qua đời. Mẹ chồng tôi sinh được chồng tôi và em chồng tôi, em chồng tôi đã lấy chồng. Vậy tôi xin được hỏi: Bây giờ gia đình tôi muốn làm sổ đỏ cho mảnh đất ấy mang tên chồng tôi thì có được không và thủ tục như thế nào, và người vợ là tôi có quyền lợi gì trong mảnh đất đó sau khi mảnh đất đứng tên chồng tôi hay không? Mong luật sư tư vấn giúp tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Luật Đất đai số 45/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013;

– Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Căn cứ theo Điều 188 Luật đất đai 2013 quy định:

“Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất

  1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
  2. a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
  3. b) Đất không có tranh chấp;
  4. c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
  5. d) Trong thời hạn sử dụng đất…”.

Bên cạnh đó, Điều 168 Luật đất đai 2013 quy định về thời điểm thực hiện các quyền của người sử dụng đất, thì đối với trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận. Như vậy, mặc dù đất cuả mẹ chồng bạn chưa được cấp Giấy chứng nhận nhưng đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận theo quy định của Luật Đất đai 2013 thì trong trường hợp này vẫn được thừa kế.

Do đó,chồng bạn hoàn toàn được thực hiện quyền thừa kế đối với quyền sử dụng đất nêu trên và khi không có giấy tờ liên quan đến không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ có liên quan thì chồng bạn muốn được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ xác định theo điểm 1, mục II, Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao như sau:

“1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

  1. a) Trong trường hợp đương sự có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
  2. b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
  3. c) Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.

1.4. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.”

Như vậy, trong trường hợp mặc dù mẹ chồng bạn chết mà có phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận thì vẫn có thể giải quyết việc phân chia di sản thừa kế. Nếu mẹ bạn khi mất mà không để lại di chúc thì trong trường hợp này, đất đai do mẹ bạn để lại sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế theo quy định:

– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Và Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Bạn có nêu, bố mẹ đẻ, bố mẹ chồng, chồng của mẹ bạn đều qua đời, nhà chồng bạn có 2 anh em, vì vậy, chồng bạn và em chồng bạn sẽ được hưởng phần di sản thừa kế bằng nhau, nếu em chồng bạn có thỏa thuận để lại toàn bộ phần di sản cho chồng bạn thì chồng bạn sẽ được quyền đứng tên riêng trên phần đất đó.

– Nếu mẹ chồng bạn để lại di chúc và bản di chúc hoàn toàn hợp pháp thì vấn đề chia dia sản sẽ phụ thuộc vào nội dung của di chúc, nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc và chồng bạn sẽ được quyền tương ứng đối với phần được chia trong nội dung di chúc. Đồng nghĩa với việc chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với phần đất được chia.

Trong trường hợp này, chồng bạn muốn đăng ký đất đứng tên mình thì phải thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế và thủ tục cấp giấy chứng nhận theo quy định.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Có được ly hôn khi vợ đang mang thai ?

Ly hôn là một vấn đề khá phổ biến hiện nay. Việc quyết định đi đến ly hôn ở các cặp vợ chồng do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể được giải quyết ly hôn theo yêu cầu. Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Ly hôn khi vợ đang mang thai

Câu hỏi khách hàng:

Chào Luật sư, em tên là Lê, xin được tư vấn về thủ tục ly hôn. Vợ chồng em kết hôn được 2 tháng nhưng em co bầu được 5 tháng. Hiện tại em không co công việc làm chỉ ở nhà ba mẹ ruột nuôi. Trong thời gian quen nhau và đi đến hôn nhân em đã bị chồng đánh rất nhiều kể cả lúc em đang mang thai. Bây giờ em không thể sống với chồng em được nữa, em muốn ly hôn. Về phần tài sản thì khi cưới em bên chồng cho em là đôi bông tai 2 chỉ vàng tay, sợi dây chuyền 5 chỉ vàng Ý . Nhưng vợ chồng em đã sử dụng hết 3 chỉ vàng Ý. Hiện tại em đang giữ sợi dây chuyền và đôi bông tai.

Mục đích em muốn được ly hôn và hiện tại vẫn đang mang thai.  Vậy cho em hỏi về việc ly hôn trường hợp của em. Mong luật sư tư vấn giúp em. Em xin cảm ơn.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014;

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định tại điều 61 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 về Quyền yêu cầu giải quyết việc ly hôn cụ thể như sau

“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

  1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
  2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
  3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”

Như vậy, theo quy định tại khoản 3 trên đây thì người chồng của bạn không được quyền yêu cầu ly hôn khi bạn đang mang thai. Tuy nhiên, theo quy định của điều luật trên, người vợ vẫn có quyền xin ly hôn trong khi đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi (kể cả trường hợp hai người thuận tình ly hôn). Cho nên nếu việc tiếp tục chung sống với chồng bạn mà làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn và/hoặc bào thai trong bụng bạn, thì bạn có quyền nộp đơn xin ly hôn và tòa án sẽ thụ lý và giải quyết.

  Căn cứ để Tòa chấp nhận yêu cầu ly hôn của bạn:

Theo quy định thì căn cứ cho ly hôn trường hợp của bạn quy định như sau:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

  1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
  2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
  3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”

Về tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được được hướng dẫn cụ thể như sau:

  1. a) Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

+   Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

+   Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

+   Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

  1. b) Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này.

Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.

  1. c) Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.

Theo như bạn trình bày, trong thời gian quen nhau, sau khi kết hôn, ngay cả khi mang thai chồng bạn cũng thường xuyên đánh đập bạn. Như vậy, mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững đã không đạt; Quan hệ hôn nhân đã ở vào tình trạng trầm trọng, giữa hai người đã tồn tại những mâu thuẫn gay gắt, không thể điều hoà được, tình cảm đã lạnh nhạt, không còn yêu thương, quý trọng nhau nữa; Đời sống chung của vợ chồng bạn không thể kéo dài hơn nữa. Những mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết bằng quyết định cuối cùng của Toà án cho chấm dứt quan hệ hôn nhân. Bạn yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn nên cần cung cấp các chứng cứ thỏa mãn các điều kiện như trên để Tòa có thể chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bạn.

Về việc chia tài sản chung khi ly hôn:

Theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 về Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì:

  1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

  1. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
  2. a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
  3. b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
  4. c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
  5. d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
  6. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
  7. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

….”

Như vậy, vợ chồng bạn có thể tự thỏa thuận chia tài sản chung, nếu không tự thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản là sợi dây chuyền và đôi bông tai bố mẹ chồng cho bạn và bạn đang giữ,bạn không nên ghi trong đơn ly hôn là tài sản chung. Nếu chồng bạn muốn chia tài sản đó thì phải yêu cầu tòa giải quyết.

Về quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau ly hôn:

Căn cứ Điều 88 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 thì.

“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.

Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.

Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

  1. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.”

Như vậy, bạn đang có thai 5 tháng trong thời kỳ hôn nhân nên khi con bạn sinh ra vẫn xác định là con chung của vợ chồng bạn.

Về quyền trực tiếp nuôi con khi ly hôn:

Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn như sau:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

  1. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
  2. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Như vậy, về nguyên tắc, khi con bạn sinh ra bạn có quyền trực tiếp nuôi con nếu bạn và chồng bạn không có thỏa thuận khác.

Trong trường hợp bạn trực tiếp nuôi con thì chồng bạn vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con.

“Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.”

Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.

Hồ sơ yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn bao gồm:

+   Đơn xin ly hôn;

+   Bản chính giấy đăng ký kết hôn;

+   Bản sao hộ khẩu;

+   Bản sao chứng minh nhân dân của vợ và chồng ;

+   Các giấy tờ chứng minh về tài sản ;

*   Đối với giấy tờ, tài liệu là bản sao thì cần phải công chứng, chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền.

Thẩm quyền giải quyết việc ly hôn

+   Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Toà án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hôn nhân gia đình, gồm: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; ranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Tranh chấp về cấp dưỡng; Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân…

+   Cụ thể, Toà án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm việc ly hôn là Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi một trong các bên ly hôn cư trú, làm việc.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Diện tích đất tối thiểu để làm sổ đỏ là bao nhiêu ?

Hiện nay, vào đầu năm UBND tỉnh/thành phố sẽ ban hành khung giá đất của địa phương – Căn cứ vào văn bản pháp lý này để xác định diện tích tối thiểu để được cấp sổ đỏ, làm sổ đỏ. Như vậy, mỗi tỉnh thành phố ở Việt Nam sẽ có quy định riêng về diện tích được cấp sổ đỏ:

Câu hỏi khách hàng:

Thưa Luật sư, tôi là con thứ 2 trong gia đình, bố tôi sinh năm 1948, mẹ tôi sinh năm 1952. Xin hỏi:

  1. Nếu bố, mẹ tôi bán đất mà tôi không được biết (không được tham gia) thì tôi có quyền gì không? (miếng đất đấy khi mua tôi cũng có một ít tiền trong đấy nhưng không có giấy tờ và sau khi mua xong tôi đã để bố, mẹ tôi đứng tên)
  2. Ông ngoại tôi mất năm 1987, nay bà ngoại tôi bệnh nặng cuộc sống được tính theo ngày giờ. Trưa nay tôi vô tình được biết, bác, các dì và các cậu gọi mẹ tôi vào nói là bàn về việc làm giỗ cho ông ngoại nhưng thực ra là bàn về việc chia đất để làm sổ đỏ cho mọi người (mẹ tôi là con thứ 2 trong gia đình và tôi được biết khi mẹ tôi là người luôn phải gánh vác mọi chuyện, ai cũng nói mẹ tôi vất vả thậm chí còn nghỉ học để cho bác và các dì, các cậu được đi học, đến bây giờ thì mọi người không còn nhớ đến những chuyện đấy nữa, mẹ tôi bị tai biến 2 năm nay nên nhiều lúc không được tỉnh táo). Nội dung như sau: 3 cậu con trai được 2/3 diện tích đất mặt tiền hướng ra đường chính, còn 6 chị e gái được 1 phần nhưng mặt tiền nằm ở trong ngõ. Quý luật cho tôi hỏi như vậy có đúng với luật pháp không?
  3. Tối thiểu có bao nhiêu mét vuông đất thì mới làm được sổ đỏ?

Xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Đất đai số 45/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013;

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Vấn đề 1:

Căn cứ Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau:

“Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất

  1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
  2. a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
  3. b) Đất không có tranh chấp;
  4. c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
  5. d) Trong thời hạn sử dụng đất.
  6. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất còn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192, 193 và 194 của Luật này.
  7. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.”.

Như vậy để thực hiện các quyền của người sử dụng đất cần phải đáp ứng các các điều kiện quy định tại Điều 188, trong đó có điều kiện là phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Có nghĩa là người thực hiện các quyền đó phải là người đứng tên trong Giấy chứng nhận. Nếu mảnh đất đó bố, mẹ bạn là người đứng tên trên sổ đỏ thì về mặt pháp lý, bạn không có quyền gì đối với mảnh đất đó.

Vấn đề 2:

Trong trường hợp bà bạn chết, di sản thừa kế sẽ được chia theo di chúc mà bà bạn để lại. Nếu bà bạn không để lại di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực pháp luật thì di sản sẽ chia theo pháp luật.

Căn cứ Điều 651 Bộ luật dân Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
  2. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
  3. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
  4. c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
  5. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
  6. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

Theo đó, các cô, cậu, bác và mẹ bạn (con ruột của người để lại di sản) sẽ là người thừa kế theo pháp luật và mỗi người sẽ được hưởng phân di sản bằng nhau. Tuy nhiên, những người thừa kế có thể phân chia di sản theo các khác bằng cách thỏa thuận với nhau và có sự đồng ý của tất cả người thừa kế. Tuy nhiên, theo như bạn trình bày, mẹ bạn do bệnh tật mà nhiều lúc không được tỉnh táo. Điều 117 Bộ luật dân Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

  1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
  2. a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
  3. b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
  4. c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
  5. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Điều 128. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Do đó, nếu trong trường hợp thỏa thuận trên được xác lập khi mẹ bạn không tỉnh táo, mẹ bạn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự này vô hiệu và mẹ bạn phải đưa ra những chứng cứ chứng minh được khi thực hiện thỏa thuận đó, mẹ bạn không còn tỉnh táo.

Vấn đề 3:

Diện tích tối thiểu để tách thửa được quy định trong quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố.

Theo quy định tại Điều 29 Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013, điều kiện để thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sổ đỏ) đối với trường hợp thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được quy định như sau:

– Thứ nhất, thửa đất đang sử dụng có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được hình thành từ trước ngày văn bản quy định của UBND cấp tỉnh về diện tích tối thiểu được tách thửa có hiệu lực thi hành.

– Thứ hai, thửa đất đang sử dụng có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu có đủ điện kiện cấp sổ đỏ.

“Điều 100 Luật Đất đai 2013 quy định về điều kiện cấp sổ đỏ cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau:

  1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
  2. a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
  3. b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15/10/1993;
  4. c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;
  5. d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993;

đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

  1. e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;
  2. g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định của Chính phủ.
  3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
  4. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
  5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15/10/1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.”.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới :

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Công dân Việt Nam thôi quốc tịch Việt Nam và nhập quốc tịch nước ngoài thì có được hưởng thừa kế không?

Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Công dân Việt Nam thôi quốc tịch Việt Nam và nhập quốc tịch nước ngoài thì có được hưởng thừa kế không?

Câu hỏi khách hàng:

Chào luật sư, Luật sư cho tôi hỏi:Tôi là người Việt Nam, đang mang quốc tịch Việt Nam, nay tôi có ý định xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài. Nhưng tôi không biết khi tôi mang quốc tịch nước ngoài thì sau này tôi có được hưởng thừa kế tại Việt Nam không?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định của Bộ luật Dân sự, thừa kế có hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.

“Điều 609. Quyền thừa kế

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”

“Điều 613. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”

Thời điểm mở thừa kế theo quy định pháp luật là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật Dân sự.

Trường hợp thừa kế theo di chúc, Điều 624 quy định về khái niệm của di chúc như sau:

“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.”

Đối với trường hợp thừa kế theo di chúc, từ các quy định trên có thể thấy, pháp luật về thừa kế ghi nhận quyền để lại di sản thừa kế và quyền được hưởng di sản thừa kế của cá nhân, tổ chức không phân biệt cá nhân, tổ chức đó có quốc tịch Việt Nam hay quốc tịch nước ngoài. Người thừa kế chỉ cần đảm bảo điều kiện là còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết( đối với người thừa kế là cá nhân), nếu người thừa kế không phải là cá nhân( có thể pháp nhân, tổ chức khác…) thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Người thừa kế trong trường hợp thừa kế theo di chúc là người được chỉ định cụ thể trong di chúc và hoàn toàn theo ý chí chủ quan của người để lại di chúc. Do đó người thừa kế hoàn toàn có thể là người có quốc tịch Việt Nam hoặc người đang mang quốc tịch nước ngoài.

Trường hợp thừa kế theo pháp luật.

“Điều 649. Thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
  2. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
  3. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
  4. c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”

Theo quy định trên, trường hợp thừa kế theo pháp luật thì người thừa kế bắt buộc phải thuộc một trong các hàng thừa kế theo quy định tại Điều 651 như trên, hay nói cách khác, người thừa kế phải có mối quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng với người chết. Như vậy, trường hợp thừa kế theo pháp luật cũng không hạn chế việc người thừa kế là người hiện đang mang quốc tịch Việt Nam hay đang mang quốc tịch nước ngoài mà chỉ cần người đó là một trong những người thuộc hàng thừa kế theo quy định trên thì sẽ có quyền hưởng di sản thừa kế do người chết để lại. Việc chứng minh quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng thì người thừa kế phải cung cấp được các giấy tờ, văn bản có giá trị pháp lý,… ghi nhận mối quan hệ đó giữa người thừa kế và người chết để lại.

Như vậy, từ các quy định trên có thể thấy, bạn là công dân Việt Nam nay thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài thì sau khi bạn đã nhập quốc tịch nước ngoài bạn vẫn có quyền được hưởng di sản thừa kế theo các quy định về thừa kế như trên. Tuy nhiên, đối với mỗi loại tài sản cụ thể do người chết để lại, thì sẽ có các quy định của pháp luật chuyên ngành điều chỉnh, việc hưởng di sản thừa kế trong những trường hợp đó phải tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành tương ứng.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942941668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Loạt chính sách mới có hiệu lực từ tháng 12/2019

Sửa đổi quy định về xử phạt mua bán ngoại tệ trái phép, hành vi bán hàng dưới mệnh giá, cấp đổi giấy chứng minh nhân dân, đào tạo sát hạch lái xe…là những chính sách mới sẽ có hiệu lực từ tháng 12/2019.

Mua bán, trao đổi dưới 100 USD không bị phạt tiền

Nghị định 88/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng sẽ có hiệu lực từ 31/12.

Theo đó, sẽ giảm mạnh mức phạt đối với hành vi mua, bán ngoại tệ tại các tổ chức không được phép, nhằm tránh bất cập như sự việc “đổi 100 USD bị phạt 90 triệu đồng” gây bức xúc trong dư luận mới đây.

Cụ thể, thay vì một mức phạt chung là từ 80 đến 100 triệu đồng, Nghị định quy định mức phạt đối với hành vi này phụ thuộc vào lượng ngoại tệ mua, bán. Trong đó phạt cảnh cáo nếu ngoại tệ mua, bán có giá trị dưới 1.000 USD; Phạt tiền 10-20 triệu đồng nếu ngoại tệ mua, bán có giá trị 1.000-10.000 USD hoặc ngoại tệ mua, bán có giá trị dưới 1.000 USD mà tái phạm, vi phạm nhiều lần.

Nếu ngoại tệ mua, bán có giá trị từ 10.000 đến 100.000 USD sẽ bị phạt tiền 20 – 30 triệu đồng; ngoại tệ mua, bán có giá trị từ 100.000 USD trở lên sẽ bị phạt từ 80 đến 100 triệu đồng.

Phạt 1 tỷ đồng nếu bán hàng dưới giá thành toàn bộ

Nghị định 75/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh có hiệu lực từ 1/12 sẽ tăng mức phạt đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh gấp 10 lần.

Cụ thể, Phạt tiền từ 800 triệu đến 1 tỷ đồng với hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó.

Nếu hành vi vi phạm trên được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên thì sẽ bị phạt từ 1,6 tỷ đồng đến 2 tỷ đồng.

Đáng chú ý, theo quy định cũ, mức tiền phạt tối đa đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là 100 triệu đồng với cá nhân và 200 triệu đồng với tổ chức, thì từ 1/12, mức phạt được tăng lên 1 tỷ đồng với cá nhân và 2 tỷ đồng với tổ chức.

Trong đó, mức phạt đối với một số vi phạm điển hình như tiết lộ bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bị phạt 200-300 triệu đồng; Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác bị phạt 100-200 triệu đồng…

Ngoài bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức vi phạm còn bị áp dụng một số biện pháp xử phạt bổ sung khác như tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm; Tịch thu khoản lợi nhuận có được do vi phạm…

Sẽ cấp mẫu mới giấy phép lái xe từ 1/6/2020

Chính thức có hiệu lực từ 1/12, Thông tư 38 của Bộ Giao thông Vận tải sửa đổi quy trình đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe sẽ có thêm nhiều quy định nhằm siết chặt việc đào tạo, sát hạch cấp Giấy phép lái xe.

Ngoài việc sẽ cấp Giấy phép lái xe theo mẫu mới từ 1/6/2020, Thông tư còn quy định từ 1/1/2020, chương trình học giấy phép lái xe hạng B1, B2, C có thêm nội dung phòng, chống tác hại của rượu, bia khi tham gia giao thông.

Cũng từ thời điểm này, trung tâm sát hạch lái xe phải lắp camera giám sát phòng sát hạch lý thuyết, sân sát hạch lái xe trong hình và truyền dữ liệu về Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Sở Giao thông Vận tải.

Từ 1/5/2020, các cơ sở đào tạo lái xe ứng dụng công nghệ để nhận dạng và theo dõi thời gian học lý thuyết môn học pháp luật giao thông đường bộ đối với học viên học lái ôtô (trừ hạng B1).

Từ 1/6/2020, cấp Giấy phép lái xe mới có mã QR. Giấy phép lái xe đã được cấp trước ngày 1/12/2019 vẫn sẽ có giá trị sử dụng theo thời gian ghi trên giấy phép.

Học sinh, sinh viên có thể vay tối đa 2,5 triệu/tháng

Có hiệu lực từ 1/12, Quyết định 1656 của Thủ tướng đã chốt mức cho vay tối đa đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn lên 2,5 triệu đồng/tháng thay vì 1,5 triệu đồng/tháng như trước.

Lãi suất cho vay ưu đãi là 0,55%/tháng và lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất khi cho vay.

Để được vay tiền, học sinh, sinh viên năm nhất phải có giấy báo trúng tuyển hoặc giấy xác nhận được vào học của nhà trường; học sinh, sinh viên từ năm hai trở đi phải có xác nhận của nhà trường về việc đang theo học…

Được kê khai trực tuyến khi đề nghị cấp căn cước công dân

Nội dung này được quy định tại Thông tư 48/2019/TT-BCA của Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số quy định về trình tự thực hiện cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân. Theo đó:

Khi tiếp công dân đến làm thủ tục đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ căn cước công dân, cán bộ tiếp công dân yêu cầu người đến làm thủ tục viết Tờ khai theo mẫu (nếu không kê khai trực tuyến).

Nếu đã kê khai trên trang thông tin điện tử dịch vụ công trực tuyến thì in Tờ khai căn cước công dân để công dân kiểm tra lại thông tin, ký, ghi rõ họ, chữ đệm và tên.

Hiện luật không quy định đến việc công dân có thể kê khai trực tuyến; tuy nhiên, trên thực tế việc này đã được triển khai tại Tp.HCM.

Ngoài ra, thông tư quy định khi làm thủ tục cấp Căn cước công dân, cán bộ phụ trách sẽ thu Chứng minh nhân dân, cắt góc và trả lại trong công dân trong trường hợp công dân đăng ký nhận thẻ Căn cước công dân qua chuyển phát nhanh.

Với những Chứng minh nhân dân bị hỏng, bong tróc, không rõ nét thì thu, hủy và hoàn thiện hồ sơ theo quy định. Việc thu, hủy chứng minh nhân dân bị hỏng, bong tróc là điểm mới so với quy định trước đây.

Chính sách ưu đãi cho người công tác ở vùng khó khăn

Nghị định 76 của Chính phủ quy định về chính sách đối với người công tác ở vùng đặc biệt khó khăn cũng có hiệu lực từ ngày 1/12.

Theo Nghị định, một loạt các khoản phụ cấp, trợ cấp sẽ được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang đến công tác tại vùng đặc biệt khó khăn.

Cụ thể, trợ cấp một lần khi đến công tác lần đầu sẽ nhận ngay 10 lần mức lương cơ sở (trước đây phải công tác ít nhất 5 năm).

Khi có gia đình đi theo, hưởng thêm một khoản trợ cấp bằng 12 lần mức lương cơ sở.

Phụ cấp thu hút được quy định rõ, khi công tác không quá 5 năm tại vùng đặc biệt khó khăn, được hưởng phụ cấp thu hút bằng 70% mức lương hiện hưởng + phụ cấp chức vụ lãnh đạo + phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

Nếu công tác từ đủ 5 năm tại vùng đặc biệt khó khăn sẽ được hưởng phụ cấp công tác lâu năm tính theo lương cơ sở x hệ số (hệ số từ 0,5 đến 1,0).

Nếu công tác từ đủ 10 năm tại vùng đặc biệt khó khăn, khi chuyển công tác hoặc nghỉ hưu sẽ được hưởng trợ cấp một lần. Đồng thời, mỗi năm công tác sẽ bằng 1/2 mức lương hiện hưởng + phụ cấp lãnh đạo + phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có)…

Ngoài ra, một số quy định, chính sách về bảo hiểm, phí và lệ phí, xuất nhập khẩu, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước…có sửa đổi cũng sẽ có hiệu lực từ tháng 12/2019.

Loạt chính sách mới có hiệu lực từ tháng 12/2019

Sửa đổi quy định về xử phạt mua bán ngoại tệ trái phép, hành vi bán hàng dưới mệnh giá, cấp đổi giấy chứng minh nhân dân, đào tạo sát hạch lái xe…là những chính sách mới sẽ có hiệu lực từ tháng 12/2019.

Mua bán, trao đổi dưới 100 USD không bị phạt tiền

Nghị định 88/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng sẽ có hiệu lực từ 31/12.

Theo đó, sẽ giảm mạnh mức phạt đối với hành vi mua, bán ngoại tệ tại các tổ chức không được phép, nhằm tránh bất cập như sự việc “đổi 100 USD bị phạt 90 triệu đồng” gây bức xúc trong dư luận mới đây.

Cụ thể, thay vì một mức phạt chung là từ 80 đến 100 triệu đồng, Nghị định quy định mức phạt đối với hành vi này phụ thuộc vào lượng ngoại tệ mua, bán. Trong đó phạt cảnh cáo nếu ngoại tệ mua, bán có giá trị dưới 1.000 USD; Phạt tiền 10-20 triệu đồng nếu ngoại tệ mua, bán có giá trị 1.000-10.000 USD hoặc ngoại tệ mua, bán có giá trị dưới 1.000 USD mà tái phạm, vi phạm nhiều lần.

Nếu ngoại tệ mua, bán có giá trị từ 10.000 đến 100.000 USD sẽ bị phạt tiền 20 – 30 triệu đồng; ngoại tệ mua, bán có giá trị từ 100.000 USD trở lên sẽ bị phạt từ 80 đến 100 triệu đồng.

Phạt 1 tỷ đồng nếu bán hàng dưới giá thành toàn bộ

Nghị định 75/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh có hiệu lực từ 1/12 sẽ tăng mức phạt đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh gấp 10 lần.

Cụ thể, Phạt tiền từ 800 triệu đến 1 tỷ đồng với hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó.

Nếu hành vi vi phạm trên được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên thì sẽ bị phạt từ 1,6 tỷ đồng đến 2 tỷ đồng.

Đáng chú ý, theo quy định cũ, mức tiền phạt tối đa đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là 100 triệu đồng với cá nhân và 200 triệu đồng với tổ chức, thì từ 1/12, mức phạt được tăng lên 1 tỷ đồng với cá nhân và 2 tỷ đồng với tổ chức.

Trong đó, mức phạt đối với một số vi phạm điển hình như tiết lộ bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bị phạt 200-300 triệu đồng; Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác bị phạt 100-200 triệu đồng…

Ngoài bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức vi phạm còn bị áp dụng một số biện pháp xử phạt bổ sung khác như tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm; Tịch thu khoản lợi nhuận có được do vi phạm…

Sẽ cấp mẫu mới giấy phép lái xe từ 1/6/2020

Chính thức có hiệu lực từ 1/12, Thông tư 38 của Bộ Giao thông Vận tải sửa đổi quy trình đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe sẽ có thêm nhiều quy định nhằm siết chặt việc đào tạo, sát hạch cấp Giấy phép lái xe.

Ngoài việc sẽ cấp Giấy phép lái xe theo mẫu mới từ 1/6/2020, Thông tư còn quy định từ 1/1/2020, chương trình học giấy phép lái xe hạng B1, B2, C có thêm nội dung phòng, chống tác hại của rượu, bia khi tham gia giao thông.

Cũng từ thời điểm này, trung tâm sát hạch lái xe phải lắp camera giám sát phòng sát hạch lý thuyết, sân sát hạch lái xe trong hình và truyền dữ liệu về Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Sở Giao thông Vận tải.

Từ 1/5/2020, các cơ sở đào tạo lái xe ứng dụng công nghệ để nhận dạng và theo dõi thời gian học lý thuyết môn học pháp luật giao thông đường bộ đối với học viên học lái ôtô (trừ hạng B1).

Từ 1/6/2020, cấp Giấy phép lái xe mới có mã QR. Giấy phép lái xe đã được cấp trước ngày 1/12/2019 vẫn sẽ có giá trị sử dụng theo thời gian ghi trên giấy phép.

Học sinh, sinh viên có thể vay tối đa 2,5 triệu/tháng

Có hiệu lực từ 1/12, Quyết định 1656 của Thủ tướng đã chốt mức cho vay tối đa đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn lên 2,5 triệu đồng/tháng thay vì 1,5 triệu đồng/tháng như trước.

Lãi suất cho vay ưu đãi là 0,55%/tháng và lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất khi cho vay.

Để được vay tiền, học sinh, sinh viên năm nhất phải có giấy báo trúng tuyển hoặc giấy xác nhận được vào học của nhà trường; học sinh, sinh viên từ năm hai trở đi phải có xác nhận của nhà trường về việc đang theo học…

Được kê khai trực tuyến khi đề nghị cấp căn cước công dân

Nội dung này được quy định tại Thông tư 48/2019/TT-BCA của Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số quy định về trình tự thực hiện cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân. Theo đó:

Khi tiếp công dân đến làm thủ tục đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ căn cước công dân, cán bộ tiếp công dân yêu cầu người đến làm thủ tục viết Tờ khai theo mẫu (nếu không kê khai trực tuyến).

Nếu đã kê khai trên trang thông tin điện tử dịch vụ công trực tuyến thì in Tờ khai căn cước công dân để công dân kiểm tra lại thông tin, ký, ghi rõ họ, chữ đệm và tên.

Hiện luật không quy định đến việc công dân có thể kê khai trực tuyến; tuy nhiên, trên thực tế việc này đã được triển khai tại Tp.HCM.

Ngoài ra, thông tư quy định khi làm thủ tục cấp Căn cước công dân, cán bộ phụ trách sẽ thu Chứng minh nhân dân, cắt góc và trả lại trong công dân trong trường hợp công dân đăng ký nhận thẻ Căn cước công dân qua chuyển phát nhanh.

Với những Chứng minh nhân dân bị hỏng, bong tróc, không rõ nét thì thu, hủy và hoàn thiện hồ sơ theo quy định. Việc thu, hủy chứng minh nhân dân bị hỏng, bong tróc là điểm mới so với quy định trước đây.

Chính sách ưu đãi cho người công tác ở vùng khó khăn

Nghị định 76 của Chính phủ quy định về chính sách đối với người công tác ở vùng đặc biệt khó khăn cũng có hiệu lực từ ngày 1/12.

Theo Nghị định, một loạt các khoản phụ cấp, trợ cấp sẽ được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang đến công tác tại vùng đặc biệt khó khăn.

Cụ thể, trợ cấp một lần khi đến công tác lần đầu sẽ nhận ngay 10 lần mức lương cơ sở (trước đây phải công tác ít nhất 5 năm).

Khi có gia đình đi theo, hưởng thêm một khoản trợ cấp bằng 12 lần mức lương cơ sở.

Phụ cấp thu hút được quy định rõ, khi công tác không quá 5 năm tại vùng đặc biệt khó khăn, được hưởng phụ cấp thu hút bằng 70% mức lương hiện hưởng + phụ cấp chức vụ lãnh đạo + phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

Nếu công tác từ đủ 5 năm tại vùng đặc biệt khó khăn sẽ được hưởng phụ cấp công tác lâu năm tính theo lương cơ sở x hệ số (hệ số từ 0,5 đến 1,0).

Nếu công tác từ đủ 10 năm tại vùng đặc biệt khó khăn, khi chuyển công tác hoặc nghỉ hưu sẽ được hưởng trợ cấp một lần. Đồng thời, mỗi năm công tác sẽ bằng 1/2 mức lương hiện hưởng + phụ cấp lãnh đạo + phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có)…

Ngoài ra, một số quy định, chính sách về bảo hiểm, phí và lệ phí, xuất nhập khẩu, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước…có sửa đổi cũng sẽ có hiệu lực từ tháng 12/2019.