Cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

 

Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2017 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
  2. a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
  3. b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
  4. c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
  5. d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
  6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
  7. a) Có tổ chức;
  8. b) Có tính chất chuyên nghiệp;
  9. c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
  10. d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

  1. e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
  3. a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
  4. c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
  5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
  6. a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
  7. c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
  8. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Theo đó, cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xác định như sau:

Về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm vật, tiền. Việc xâm phạm quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác sau khi lừa lấy được tài sản.

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Về chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

Về hành vi khách quan:

(1) Hành vi của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc đó, người bị hại không biết được có hành vi gian dối;

(2) Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả, không đúng với sự thật nhưng làm cho người bị lừa dối tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động, bằng hình ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách thức khác nhau.

Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, không có thủ đoạn thuộc về tư tưởng, suy nghĩ của người phạm tội lại không được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi, cũng chính vì thế mà khi phân tích các dấu hiệu khách quan cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản một số quan điểm cho rằng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hành vi khách quan là hành vi “gian dối” và hành vi “chiếm đoạt”, nói như thế cũng không phải là không có căn cứ. Tuy nhiên, điều luật quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác…” nên không thể coi thủ đoạn phạm tội là một hành vi khách quan được vì thủ đoạn chính là phương thức để đạt mục đích mà biểu hiện của thủ đoạn gian dối lại bao gồm nhiều hành vi khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể khác mà người phạm tội thực hiện hành vi đó nhằm đánh lừa người khác

Mặt chủ quan:

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể, mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp, ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác như tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sảnThực tế việc chứng minh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội thường căn cứ vào tài sản thực có, tình trạng tài chính, nhu cầu tài sản của người phạm tội kết hợp với lời khai nhận của người phạm tội như thế nào. Thông thường trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội bị rơi vào hoàn cảnh nợ nần do thua cờ, bạc, lô đề, kinh doanh…, không có khả năng trả nợ cho chủ nợ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Cấu thành tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ

Điều 124 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ:

Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ

  1. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
  2. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”

Theo đó, cấu thành tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được xác định như sau:

Về khách thể của tội phạm

Tội phạm trực tiếp xâm phạm quyền sống của con người (trẻ mới được đẻ trong 07 ngày tuổi). Ngoài ra, tội phạm còn xâm phạm nghiêm trọng đạo đức xã hội, đó là tình “mẫu tử”, xâm phạm Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã phê chuẩn tham gia.

Lưu ý: trường hợp người mẹ giết hoặc vứt bỏ con trên 07 ngày tuổi thì tùy thuộc hành vi khách quan mà có thể bị truy cứu về tội giết người hoặc tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Về chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là người mẹ để ra đứa con, từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự.

Người xúi giục người mẹ giết con mới đẻ bị xử lý là đồng phạm tội này. Người không phải là mẹ của đứa trẻ mới đẻ mà giết đứa trẻ đó thì bị xử lý về tội giết người với tình tiết định khung hình phạt tăng nặng là “giết người dưới 16 tuổi“.

Về hành vi khách quan:

Hành vi khách quan của tội phạm này gồm có giết con hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Hay nói cách khác, tội này là tổng hợp của hai tội với hai hành vi khách quan độc lập. Cụ thể:

Tội giết con mới đẻ thực hiện bằng hành động như: bóp cổ, thắt cổ, đâm, chém, chôn đứa trẻ… Hành vi nói trên cũng có thể được thực hiện bằng hành động như người mẹ của đứa trẻ không cho con mình bú sữa  vì một nguyên nhân nào đó; không cho con đang ốm uống thuốc dẫn đến đứa trẻ chết.

Hành vi vứt bỏ con mới đẻ thể hiện sau khi đẻ ra người mẹ đã bỏ con mình ở một nơi nào đó như ngoài chợ, bệnh viện, chùa… Đây là trường hợp người mẹ có thái độ tuy không mong muốn đứa trẻ chết nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.

Người phụ nữa giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ do ảnh hưởng từ tư tưởng lạc hậu như tin vào bói toán, thần thánh cho là phải giết con thì mới không bị con ma quấy phá, sợ dư luận xã hội ở địa phương… Hoàn cảnh khách quan đặc biệt như người phụ nữ đẻ con ra bị dị tật quá nặng hoặc do tình trạng một thân một mình, quá nghèo đói không đủ để nuôi sống chính mình, đang bị bênh tật…

Ngoài ra, hậu quả xảy ra đứa trẻ chết là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này cần xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của người mẹ và hậu quả đứa trẻ chết. Nếu người mẹ vứt bỏ đứa trẻ nhưng dược người khác phát hiện kịp thời nên đứa trẻ không chết thì người mẹ không phạm tội này.

Mặt chủ quan:

Tôi này được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp (giết con mới đẻ) hoặc lỗi cố ý gián tiếp (bỏ mặc con mới đẻ).

Về hậu quả pháp lý: người phạm tội giết hoặc bỏ mặc con mới đẻ phải chịu hình phạt như sau:

  • Khung 1 quy định hình phạt đối với trường hợp giết con mới đẻ thì phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
  • Khung 2 quy định hình phạt đối với trường hợp vứt con mới đẻ thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác qua mạng

Luật Hiệp Thành đưa ra một số tư vấn liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác qua mạng Internet

Hỏi: Xin chào Luật sư. Mình có vấn đề như sau cần sự tư vấn của các Luật sư:

Mình có quen 1 cô bé qua mạng facebook. Vì lần ấy, mình có lên group để tìm nhân viên tín dụng để làm hồ sơ vay. Em ấy rất nhiệt tình hướng dẫn. Mình đã vay được. Gần đây mình tiếp tục nhờ em ấy giúp. Em ấy có giới thiệu 1 người khác. Người ấy yêu cầu phải chuyển phí trước là 5 triệu ngay hôm đấy. Mình cũng sợ bị lừa khi đưa phí trước. Nhưng em ấy bảo người đó uy tín và là cấp trên. Mình đã phải vay mượn để có 5 triệu chuyển cho họ. Và qua ngày hôm sau, họ đòi tiếp 3 triệu vì hồ sơ khó. Hẹn thứ 7 hoặc thứ 2 sẽ giải ngân.

Nhưng đến thứ 2, bảo chiều 2h có, sau đó hẹn 7h tối và khi 7h ko có. Mình gọi hỏi thì cô bé ấy bảo để gọi kiểm tra xem. Thế là mình đợi tiếp. Qua thứ 3 và sau đó 2 SĐT của 2 người đó đều khóa máy. Ngay cả số tài khoản ngân hàng, người đó cũng đọc chứ không nhắn tin. Mọi chuyện như bảo chuyển tiền , hay chờ đều thông qua cô bé kia. Mà cô bé đó 2 hôm nay cứ mình hỏi han, nhắn tin đc 1 lúc thì chặn facebook mình

Trong khi em ấy là người giới thiệu tên kia cho mình, đảm bảo uy tín và kêu mình chuyển phí đi. Em ấy chặn facebook, còn sđt tên kia thì gọi lúc nào cũng thuê bao. Mấy ngày đầu chưa chuyển tiền phí cho thì gọi lúc nào cũng đc.

Vậy xin hỏi, có phải là mình đã bị 2 người đó lừa ko? Vì tính đến nay đã gần 9 ngày rồi. Tên kia nói chỉ 3,4 ngày được giải ngân. Từ thứ 7 đến giờ, điện thoại gọi toàn thuê bao. Còn cô bé kia, khi mình nhắn tin kêu chờ để em ý đòi cho rồi chặn facebook tiếp. Vậy mình có nên tố cáo được không ạ? Liệu mình có cơ sở để tố cáo không? Mình chỉ còn giữ biên lai chuyển tiền, tin nhắn chat với cô bé kia thôi. Mình có thể tố cáo với công an ko ạ? Xin cảm ơn các Luật sư!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.

  1. Luật sư tư vấn

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
  2. a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm,
  3. b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong tội quy định tại các điều 168, 169, 170,171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c)Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d)Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

  1. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
  2. a) Có tổ chức;
  3. b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c)Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d)Tái phạm nguy hiểm

đ) Lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

  1. e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
  2. g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c và d Khoản 1 Điều này.
  3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
  4. a) Chiếm đoạt tài sản giá trị từ 200.000.000 đồng đến trên dưới 500.000.000 đồng;
  5. b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c và d Khoản 1 Điều này;
  6. c) Lợi dụng thiên tai dịch bệnh.
  7. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
  8. a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
  9. b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c và d Khoản 1 Điều này;

c)Lợi dụng thiên tai dịch bệnh

  1. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi vi phạm phải đáp ứng các yếu tố: “dùng thủ đoạn gian dối” và ” chiếm đoạt tài sản của người khác”. Mặt khác phải có đủ 4 yếu tố để cấu thành tội phạm bao gồm: khách thể của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm:

– Thứ nhất về khách thể của tội phạm: Khách thể của tội lừa đảo lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

– Thứ hai về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự.

– Thứ ba về mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo  cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách gian dối.Đó là hành vi dùng thủ đoạn giao dối làm cho người có tài sản tin là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối để họ chiếm đoạt. Hai dấu hiệu đặc trưng cuả tội phạm này là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt.

+ Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản: Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả ( không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết, bằng hành động và bằng nhiều hình thức khác nhau như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản. Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lý kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản

Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ đoạn gian dối để làm cho người sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị mắc lừa giao tài sả cho kẻ phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ ra phải nhận.

+ Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự.

+ Về giá trị tài sản chiếm đoạt: Gía trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên. Nếu dưới hai triệu đồng thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiệm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì người thực hiện hành vi nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

– Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác do mình thực hiện là hành vi gian dối, trái pháp luật. Đồng thời thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái pháp luật và mong muốn xảy ra hậu quả đó.

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lối cố ý. Về mặt ý chí của người phạm tội lừa đảo bao giờ cũng nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa đảo.Ý thức chiếm đoạt phải có trước thủ đoạn gia dối và hành vi chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối bao giờ cũng phải có trước khi tiến hành giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội. Nếu sau khi có được tài sản hợp pháp mới phát sinh thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì không coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng.

Như vậy, dựa vào những phân tích trên nếu như cô gái này có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bạn thì bạn hoàn toàn có quyền làm đơn trình báo lên cơ quan công an. Bạn cần phải cung cấp đầy đủ thông tin người này, kèm theo bằng chứng chứng cứ để cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho bạn.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Như thế nào mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

Nội dung đề nghị tư vấn: Chào Luật sư, em muốn hỏi trường hợp như sau: Mẹ e có làm ăn với ông A trong suốt thời gian dài, nhưng do buôn bán không được nên đã thiếu nợ ông A 20 triệu đồng, lúc đầu vẫn cho thiếu vì vẫn còn làm ăn nhưng khi mẹ e mua hơn thời điểm lúc đầu, thì ông A không chịu bán và đòi mẹ em trả hơn một nủa số tiền đã nợ nhưng do hoàn cảnh khó khăn mẹ em xin trả dần là mỗi tháng trả 400 nghìn mà ông A không chịu nói mẹ e là chiếm đoạt tài sản, vậy mẹ em có phải như ông A nói không, nếu không mẹ em có thể tố cáo lại ông A về tội vu khống được không??? em xin hết mong luật sư tư vấn giúp em. Chân thành cảm ơn.

Luật sư tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Luật Hiệp Thành, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Bộ luật hình sự quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

…”Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.

Về khách quan, phải có hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.

Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.

Khách thể là quyền sở hữu tài sản của người khác.

Chủ thể là bất cứ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

Theo thông tin bạn cung cấp thì hành vi của mẹ bạn không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ là quan hệ mua bán dân sự. Do vậy, ông A nói mẹ bạn chiếm đoạt tài sản là không có căn cứ.

Theo điều 122 Bộ luật hình sự quy định về tội vu khống, theo đó:
Hành vi vu khống là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi của ông A chỉ đơn thuần là nói mẹ bạn phạm tội, không tố cáo và không gây thiệt hại gì nên không thể cấu thành tội vu khống.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của bạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến bạn chưa hiểu hết vấn đề hoặc và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn. Vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Đánh đập buộc viết giấy nhận nợ có cấu thành tội cướp tài sản ?

Hỏi: Thưa Luật sư, công ty do tôi làm giám đốc trong quá trình làm ăn do thiếu vốn có vay lãi ở ngoài số tiền 2,4 tỷ đồng (có hợp đồng) và đã trả lãi được 2,8 tỷ đồng (lãi suất 5000/1000,000/ngày). Sau đó, tôi có trả được số tiền gốc là 600 triệu đồng và còn nợ lại 1,8 tỷ đồng.

Nay do khó khăn về tài chính nên tôi chưa trả được thì người cho vay cho người đến bắt tôi đánh đập và bắt viết giấy nhận nợ 1,8 tỷ đồng. Tôi xin hỏi hành vi của người cho vay có phạm tội cướp tài sản hay không và tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình ? Xin cảm ơn luật sư.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý : Bộ Luật hình sự 2015
  2. Ý kiến tư vấn.

Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ Luật hình sự 2015 như sau :

“Điều 168. Tội cướp tài sản

  1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
  3. a) Có tổ chức;
  4. b) Có tính chất chuyên nghiệp;
  5. c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
  6. d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

  1. e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
  2. g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
  3. h) Tái phạm nguy hiểm.
  4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
  5. a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
  6. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
  7. c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
  8. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
  9. a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
  10. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
  11. c) Làm chết người;
  12. d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
  13. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
  14. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Trong đó, các yếu tố cấu thành tội phạm được hiểu là:

Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội cướp tài sản phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và kh thực hiện hành vi phạm tội không bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm khả năng nhận thức, điều hiển hành vi của mình.

Thứ hai, về khách thể của tội phạm: Khách thể của tội cướp tài sản bao gồm hai quan hệ đó là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản được pháp luật bảo vệ. Trong đó, quan hệ nhân thân là khách thể bị xâm phạm trước, rồi thông qua đó để xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản. Hành vi phạm tội phải xâm phạm đến cả hai quan hệ trên thì mới đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản.

Thứ ba, về mặt khách quan của tội phạm:

– Hành vi dùng vũ lực là hành động mà người phạm tội thực hiện để tác động lên cơ thể của nạn nhân. Người thực hiện tội phạm có thể sử dụng các hung khí như dao, kiếm, súng, gậy… hoặc cũng có thể sử dụng tay không để đấm, đá… Hành vi sử dụng vũ lực đó có thể gây ra thương tích cho nạn nhân hoặc không.

– Hành vi đe dọa sử dụng vũ lực phải xảy ra ngay tức khắc và có thể bằng lời nói hoặc các hành động như dí dao, dí súng vào người nạn nhân buộc nạn nhân giao tài sản ngay tức khắc nếu không sẽ sử dụng vũ lực ngay. Cần phân biệt hành vi đe dọa sử dụng vũ lực ở tội cướp tài sản với hành vi đe dọa vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Vì nếu hành vi đe dọa sử dụng vũ lực không có tính chất ngay tức khắc thì đấy là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản.

– Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là các hành vi không phải sử dụng vũ lực, cũng không đe dọa sử dụng vũ lực nhưng làm cho nạn nhân không thể chống cự được như đánh thuốc mê …

– Hậu quả tội phạm : đối với tội cướp, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm:

– Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý

– Mục đích của người phạm tội là nhằm chiếm đoạt tài sản.

Đối với trường hợp của bạn, có thể xác định rằng chủ nợ đã có hành vi đánh đập (tức là sử dụng vũ lực) để buộc bạn phải viết giấy nhận nợ với mục đích chiếm đoạt tài sản của bạn. Do đó, nếu thỏa mãn các điều kiện khác nữa thì đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự 2015. Với số tiền chiếm đoạt là 1,8 tỷ đồng, người đó có thể phải chịu mức án từ 18 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân.

Để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn nên viết đơn tố cáo gửi lên cơ quan công an có thẩm quyền để yêu cầu xử lý hành vi phạm tội của chủ nợ theo đúng quy định của pháp luật.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của bạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến bạn chưa hiểu hết vấn đề hoặc và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn. Vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng