Câu hỏi :

Anh H.Đ.A ở Bắc Ninh có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Cha tôi là ông H.M.T chủ sở hữu quyền sử dụng đất của mảnh đất X là đất ở lâu dài và đã được cấp sổ đỏ. Mảnh đất X được ông định đoạt trong di chúc năm 2018 hợp lệ là trao toàn bộ cho tôi. Tháng 1 năm 2019, Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi tôi sinh sống ra Quyết định thu hổi toàn bộ quyền sử dụng mảnh đất trên vì lý do là thu hồi vì mục đích phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Năm 2020, cha tôi qua đời.

Tôi xin hỏi, di chúc của cha tôi đã định đoạt quyền sử dụng mảnh đất X nhưng khi ông chết thì quyền sử dụng mảnh đất trên đã bị thu hồi. Vậy phần di chúc định đoạt quyền sử dụng mảnh đất X có vô hiệu không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Đất đai năm 2013;
  • Bộ luật Dân sự năm 2015
  • Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2019;
  • Án lệ số 34/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05 tháng 02 năm 20 20 và được công bố theo Quyết định 50/QĐ-CA  ngày 25 tháng 02 năm 2020  của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

     II. Nội dung

Phần di chúc định đoạt phần diện tích mảnh đất X không vô hiệu.

  1. Khái niệm nhà nước công nhận quyền sử dụng đất

Theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

  1. Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định mà không có nguồn gốc được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đối với thửa đất xác định…”

Trong trường hợp này, do ông H.M.T đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất X nên có thể xác định ông H.M.T đã được Nhà nước công nhận ông H.M.T công nhận quyền sử dụng đất với thừa đất X.

  1. Điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2014 thì điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là:

“Điều 75. Điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

  1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp…”

Trong trường hợp này, mảnh đất X là đất ở, thuộc loại để ở lâu dài và đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đủ điều kiện  được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

 

 

  1. Nội dung cơ bản của Án lệ số 34/2020

Án lệ số 34/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05 tháng 02 năm 2016 và được công bố theo Quyết định 50/QĐ-CA ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nội dung cơ bản của Án lệ số 34/2020/AL:

 “[5]… di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1…”

Trường hợp này, phải xác định cụ D, cụ C có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.

Căn cứ vào Án lệ nêu trên, đối với những trường hợp đáp ứng đủ các tình tiết dưới đây thì xác định người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản trong di chúc là tài sản mà bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi:

  • Người lập di chúc là người có quyền sử dụng được cơ quan có thẩm quyền công nhận;
  • Tài sản được định đoạt trong di chúc là quyền sử dụng đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi;
  • Việc thu hồi của cơ quan có thẩm quyền là có đền bù;
  1. Việc áp dụng án lệ trong xét xử

Việc áp dụng án lệ trong xét xử phải tuân thủ theo những nguyên tắc quy định tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ:

“Điều 8. Áp dụng án lệ trong xét xử

Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.

Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.”

Như vậy, để Án lệ số 34 được áp dụng vào vụ án này thì nội dung vụ án được áp dụng và án lệ phải tương tự nhau.

Vậy trong câu hỏi anh gửi đến Công ty luật thì phần di chúc định đoạt phần diện tích mảnh đất X không vô hiệu mà được hiểu là giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên ông H.M.T có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho anh.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *