Nội dung đề nghị tư vấn: Chào Luật sư, em muốn hỏi trường hợp như sau: Mẹ e có làm ăn với ông A trong suốt thời gian dài, nhưng do buôn bán không được nên đã thiếu nợ ông A 20 triệu đồng, lúc đầu vẫn cho thiếu vì vẫn còn làm ăn nhưng khi mẹ e mua hơn thời điểm lúc đầu, thì ông A không chịu bán và đòi mẹ em trả hơn một nủa số tiền đã nợ nhưng do hoàn cảnh khó khăn mẹ em xin trả dần là mỗi tháng trả 400 nghìn mà ông A không chịu nói mẹ e là chiếm đoạt tài sản, vậy mẹ em có phải như ông A nói không, nếu không mẹ em có thể tố cáo lại ông A về tội vu khống được không??? em xin hết mong luật sư tư vấn giúp em. Chân thành cảm ơn.
Luật sư tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Luật Hiệp Thành, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Bộ luật hình sự quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
…”Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.
Về khách quan, phải có hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.
Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
Khách thể là quyền sở hữu tài sản của người khác.
Chủ thể là bất cứ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo thông tin bạn cung cấp thì hành vi của mẹ bạn không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ là quan hệ mua bán dân sự. Do vậy, ông A nói mẹ bạn chiếm đoạt tài sản là không có căn cứ.
Theo điều 122 Bộ luật hình sự quy định về tội vu khống, theo đó:
Hành vi vu khống là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi của ông A chỉ đơn thuần là nói mẹ bạn phạm tội, không tố cáo và không gây thiệt hại gì nên không thể cấu thành tội vu khống.
Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của bạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến bạn chưa hiểu hết vấn đề hoặc và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn. Vui lòng liên hệ để được giải đáp:
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email : luathiepthanh@gmail.com
Trân Trọng