Câu hỏi :

Anh V.A.M ở Sơn La có gửi câu hỏi cho Công ty luật như sau:

Cha tôi là ông V.T.A có quốc tịch Việt Nam, dân tộc Miêu. Dân tộc Miêu có tiếng nói riêng nhưng không có hệ thống chữ viết riêng. Trong những ngày cuối đời, ông V.T.A dùng chữ Hán giản thể để kí âm tiếng nói người Miêu (cùng cách làm của chữ Nôm của người Kinh). Di chúc của ông A không được công chứng.

Vậy có cơ sở để công nhận di chúc của ông A không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Nghị định 206-CP năm 1961 quy định việc dùng chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ Mèo ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo do Hội Đồng Chính Phủ ban hành ngày 27 tháng 11 năm 1961;

     II. Nội dung

Di chúc trên không được công nhận hiệu lực.

  1. Hình thức của di chúc

Theo quy định tại khoản 5 Điều 647 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 647. Công bố di chúc

  1. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.”

Do Việt Nam là đất nước đa dân tộc nên trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều tiếng nói khác nhau, vì vậy tiếng nói của các dân tộc thiểu số không được xác định là tiếng nước ngoài nên không yêu cầu phải được công chứng bản dịch sang tiếng Việt. Tuy nhiên, để di chúc được công nhận hiệu lực thì chữ viết dùng để thể hiện di chúc đó phải là chữ viết theo quy chuẩn và đã được công nhận.

  1. Chữ viết tiếng dân tộc Miêu được công nhận

Theo quy định tại điểm c Điều 2 Nghị định 206-CP năm 1961 quy định việc dùng chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ Mèo ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo do Hội Đồng Chính Phủ ban hành thì:

“Điều 2: – Ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày, Nùng, Thái và Mèo, chữ Tày- Nùng, chữ Thái và chữ Mèo đều coi là chữ chính thức và được dùng:

     c) Trong công văn, giấy tờ của các cơ quan Nhà nước và trong các hoạt động khác, tuỳ theo sự cần thiết của địa phương.”

Như vậy, việc dùng chữ Hán giản thể để kí âm tiếng nói người Miêu không phải là cách chính thức, và chữ viết theo cách viết này không được công nhận.

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 630. Di chúc hợp pháp

  1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

     a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

     b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

  1. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này…”

Vậy, do di chúc này không được lập bằng ngôn ngữ được công nhận và  di chúc này cũng không được công chứng, chứng thực nên di chúc này không đủ điều kiện để được coi là hợp pháp.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *