Xác định quyền nuôi con thế nào khi không đăng ký kết hôn

Câu hỏi: Tôi ở cùng bạn gái nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn. Sau khi có con, chúng tôi thường xuyên có những bất đồng và không muốn tiếp tục duy trì mối quan hệ. Vậy, quyền nuôi con sẽ được xác định như thế nào? Nguyễn Văn Bình, quận Hà Đông, Hà Nội
Luật sư xin tư vấn như sau:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã quy định rõ hơn về quan hệ giữa vợ và chồng khi kết hôn và ly hôn. Tại Điều 14 nêu cách giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.Theo đó, nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con (Điều 15).
Việc giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn quy định tại Điều 16 như sau: Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.Như vậy, theo quy định của luật, việc kết hôn không được đăng ký thì không có giá trị pháp lý. Các bạn có thể không phải làm thủ tục ly hôn nhưng để không gặp phải những hệ lụy, có lẽ cần làm thủ tục để có quyết định của tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật cũng như xác định rõ về quyền và nghĩa vụ đối với con chung.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc xác định quyền nuôi con thế nào khi không đăng ký kết hôn.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Quản lý di sản thừa kế

Câu hỏi: Ai là người được quản lý di sản thừa kế? Người quản lý di sản có quyền và nghĩa vụ gì? Anh Lộc – Nam Định
Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo quy định tại Điều 616 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thoả thuận cử ra.

Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.

Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định trên đây thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của BLDS có nghĩa vụ sau đây: a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản; c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế; d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại; đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của BLDS có nghĩa vụ sau đây: a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác; b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế; c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại; d) Giao lại di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của BLDS có quyền sau đây: a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế; b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế; c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của BLDS có quyền sau đây: a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế; b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế; c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc quản lý di sản thừa kế.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thủ tục nhập hộ khẩu cho vợ theo chồng

Câu hỏi: Tôi làm thủ tục nhập khẩu cho vợ, nhưng theo hướng dẫn của cán bộ cơ sở, điều kiện đủ là phải có sự đồng ý của tất cả những người có tên trong sổ hộ khẩu và “sổ đỏ”. Nếu người có tên trong các giấy tờ trên đã mất thì phải có sự đồng ý của những người thuộc diện thừa kế. Xin hỏi, quy định cụ thể về việc nhập khẩu như thế nào? Với trường hợp của tôi sẽ tiến hành ra sao? Có cần xác nhận của những người thuộc diện thừa kế không? Nguyễn Quang (Hà Nội)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Như vậy, vợ nhập hộ khẩu về với chồng cần đáp ứng đồng thời các điều kiện là chủ hộ nơi vợ định nhập khẩu về đồng ý cho nhập hộ khẩu và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đồng ý cho nhập hộ khẩu.Theo khoản 2, Điều 20 – Luật Cư trú năm 2020, công dân được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình khi được chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó đồng ý trong trường hợp vợ về ở với chồng và một số trường hợp khác.

Chỗ ở hợp pháp theo khoản 1, Điều 2 – Luật Cư trú 2020 được hiểu là nơi được sử dụng để sinh sống, thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của công dân, bao gồm nhà ở, tàu, thuyền, phương tiện khác có khả năng di chuyển hoặc chỗ ở khác theo quy định của pháp luật. Điều 5, Nghị định số 62/2021/NĐ-CP ngày 29-6-2021 hướng dẫn Luật Cư trú liệt kê các loại giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp như: Giấy tờ, tài liệu chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà hoặc tài sản gắn liền với đất do cơ quan có thẩm quyền cấp (trong đó có thông tin về nhà ở); Giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng (đối với trường hợp công trình phải cấp giấy phép xây dựng và đã xây dựng xong); Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước hoặc giấy tờ về hóa giá thanh lý nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; Giấy tờ chứng minh về đăng ký, đăng kiểm phương tiện thuộc quyền sở hữu. Trường hợp phương tiện không phải đăng ký, đăng kiểm thì cần có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã về việc phương tiện được sử dụng để ở; Giấy xác nhận đăng ký nơi thường xuyên đậu, đỗ của phương tiện nếu nơi đăng ký cư trú không phải nơi đăng ký phương tiện hoặc phương tiện đó không phải đăng ký, đăng kiểm…

Nếu một trong các chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó đã chết thì phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế, bởi lẽ khi đó người thừa kế sẽ trở thành chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp vì theo quy định tại Điều 614 – Bộ luật dân sự 2015 kể từ thời điểm mở thừa kế (Là thời điểm chủ sở hữu hợp pháp chết), những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Theo đó, việc hướng dẫn của cán bộ cơ sở đối với trường hợp của bạn là chính xác.

Có thể nhiều người cho rằng tại sao lại “loằng ngoằng” như vậy. Tuy nhiên, pháp luật quy định như thế để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người thừa kế vì ngay khi chủ sở hữu nhà đất, tàu, thuyền chết thì người thừa kế đã mặc nhiên có quyền sở hữu, sử dụng đối với nhà đất, tàu, thuyền của người chết để lại.

Ví dụ: Ông A đứng tên trong “sổ đỏ” căn nhà, còn bà B đứng tên chủ hộ khẩu địa chỉ căn nhà đó. Bạn định nhập hộ khẩu cho vợ bạn về đây thì phải có sự đồng ý của cả ông A lẫn bà B. Giả sử ông A chết mà ông A có con là C, D thì bạn phải có sự đồng ý của C và D.

Về thủ tục đăng ký thường trú khi vợ nhập khẩu về ở với chồng, theo quy định tại khoản 2 Điều 21, Điều 22 – Luật Cư trú 2020, hồ sơ cần chuẩn bị gồm có: Tờ khai thay đổi thông tin cư trú, trong đó ghi rõ ý kiến đồng ý cho đăng ký thường trú của chủ hộ, chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp hoặc người được ủy quyền, trừ trường hợp đã có ý kiến đồng ý bằng văn bản; Giấy chứng nhận kết hôn trừ trường hợp đã có thông tin thể hiện quan hệ này trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú.

Khi có đủ hồ sơ nêu trên, bạn đến cơ quan đăng ký cư trú nơi mình cư trú. Khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký thường trú của bạn, cơ quan đăng ký cư trú kiểm tra và cấp phiếu tiếp nhận hồ sơ cho người đăng ký; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì hướng dẫn người đăng ký bổ sung hồ sơ.

Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thẩm định, cập nhật thông tin về nơi thường trú mới của người đăng ký vào Cơ sở dữ liệu về cư trú và thông báo cho người đăng ký về việc đã cập nhật thông tin đăng ký thường trú; trường hợp từ chối đăng ký thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Cơ quan đăng ký cư trú là cơ quan quản lý cư trú trực tiếp thực hiện việc đăng ký cư trú của công dân, bao gồm Công an xã, phường, thị trấn; Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương ở nơi không có đơn vị hành chính cấp xã.

Lưu ý: nếu vợ chồng bạn chuyển đến chỗ ở hợp pháp khác và đủ điều kiện đăng ký thường trú thì có trách nhiệm đăng ký thường trú tại nơi ở mới theo quy định của Luật này trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày đủ điều kiện đăng ký.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến thủ tục nhập hộ khẩu cho vợ theo chồng. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Đảng viên kết hôn giả bị xử lý thế nào?

Với hy vọng đến được miền đất hứa, nhiều người đã tìm cách kết hôn giả để đạt được mục đích. Hành vi này sẽ bị xử lý như thế nào?

Tháng 5/2019, cộng đồng người Việt ở Mỹ rúng động khi cảnh sát thông báo triệt phá đường dây kết hôn giả do một phụ nữ Việt cầm đầu với gần 100 người bị bắt tại thành phố Houston, tiểu bang Texas. Đây là vấn nạn đã diễn ra khá lâu với nhiều người Việt, nay lần đầu tiên bị phát hiện và xử lý ở quy mô lớn.

Mới đây, dư luận lại đang xôn xao trước thông tin một ca sỹ khá nổi tiếng trong nước vừa bị người vợ ở nước ngoài hơn mình tới hàng chục tuổi nộp đơn ly hôn. Chưa biết thực hư câu chuyện này ra sao, nhưng nhiều người đặt câu hỏi: Liệu đây có phải là một cuộc hôn nhân giả với mục đích để nhập quốc tịch?

Vậy kết hôn giả là gì? Pháp luật xử lý hành vi này như thế nào?

Khoản 2 Điều 11 – Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định: kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình. Như vậy, có thể thấy việc kết hôn giả tạo có một số đặc điểm, biểu hiện như:

– Về mặt ý chí, các bên đều tư nguyện và đồng thuận khi kết hôn;

– Về mặt thủ tục, các bên thực hiện đầy đủ việc đăng ký kết hôn theo quy định;

– Tuy nhiên, về mục đích của kết hôn thì các bên hoàn toàn không hướng đến việc xây dựng gia đình mà để che giấu, lợi dụng cho việc xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch, hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác.

Luật sư Nguyễn Hào Hiệp, Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiệp Thành cho biết: Pháp luật xử lý hành vi kết hôn giả tạo theo hướng xử lý vi phạm hành chính tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP. Theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 59 Nghị định này, kết hôn giả để nhập quốc tịch nước ngoài bị xử phạt tiền từ 10.000.000 VND đến 20.000.000 VND và người vi phạm còn phải khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp do thực hiện hành vi vi phạm..

Trường hợp đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức vi phạm thì căn cứ xử lý trước hết vẫn áp dụng Luật điều chỉnh trực tiếp về vấn đề kết hôn giả, đó là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng sẽ áp dụng Nghị định 112/2020/NĐ-CP ngày 18/09/2020 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức. Cụ thể, đối với Cán bộ, công chức hoặc viên chức vi phạm, tùy mức độ vi phạm có thể bị kỷ luật nhẹ nhất là khiển trách, cảnh cáo đến mức độ nghiêm trọng nhất là buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm.

Đối với việc xử lý kỷ luật đảng viên thì sẽ áp dụng quy định tại Điều 24 Quyết định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị quy định về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Theo đó, đảng viên có thể bị khai trừ trong trường hợp vi phạm quy định về cấm kết hôn.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc Đảng viên kết hôn giả bị xử lý thế nào.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Nên có sự thay đổi trong quy trình hòa giải

Cuối cùng sau 1 năm đi về bởi các thủ tục trong quy trình ly hôn đơn phương, chị Hoa (tên nhân vật đã thay đổi) cũng đã tới tòa án để được xét xử ly hôn. Con đường giải phóng cho mình khỏi một cuộc hôn nhân bất hạnh đối với chị quả là gian nan.

Cần có giải pháp cho từng vụ việc cụ thể

Không muốn nhưng vẫn phải hòa giải

Chị Hoa kể lại cuộc hôn nhân của mình trong nước mắt. 20 năm kết hôn, vợ chồng chị có với nhau 1 con gái 15 tuổi. Khi kết hôn hai vợ chồng chị không có nhà nên phải sống nhờ gia đình vợ nhiều năm. Hiện đang là công nhân của một công ty nhà nước, công việc vất vả, đồng lương thấp, tuy nhiên với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ của nhà ngoại, chị Hoa đã nuôi con gái ăn học nên người mà không có sự trợ giúp từ chồng. Có những thời gian dài anh ta bỏ nhà đi và không hề nghĩ tới trách nhiệm đối với vợ con. Chỉ đến khi vợ chồng chị Hoa được người anh trai cho mượn căn hộ tập thể thì họ mới có cuộc sống chung riêng tư thật sự. Thế nhưng chồng chị ngày càng bộc lộ một lối sống ích kỉ và vô trách nhiệm, ra ngoài thì cặp bồ, về nhà anh lại “đá thúng đụng nia” đánh đập, chửi mắng vợ con. Không còn tình cảm vợ chồng, hơn nữa sợ những hành vi xấu của chồng sẽ tác động tiêu cực tới con gái đang ở tuổi mới lớn, chị Hoa đã quyết định làm thủ tục ly hôn đơn phương. Thế nhưng chỉ để xin xác nhận vào đơn ly hôn mà chị Hoa đã phải gặp từ tổ trưởng dân phố cho tới công an phường tới 4 lần. “Tôi biết làm sao khi vẫn sống chung trong một nhà, chồng tôi lại là người khá thủ đoạn, cứ rình lúc mẹ con tôi ngủ, lấy chìa khóa rồi mở tủ lấy toàn bộ hồ sơ. Ra tòa, tôi lại khổ sở với việc không có giấy tờ xác minh nhân thân của chồng vì anh ta không cung cấp…”, chị Hoa cho biết. Điều mà chị Hoa bức xúc là khi nộp đơn, tòa án lại nói về dự các cuộc hòa giải ở tổ dân phố mới được tiếp nhận đơn. 3 lần hòa giải ở tổ dân phố đã kéo dài thêm thời gian ly hôn của chị khi chồng chị cố tình lần lữa, chây ì. Lại thêm thời điểm dịch bệnh nên thời gian kéo dài thụ lý vụ án ly hôn của vợ chồng chị đến tận 1 năm.

Chị Thanh, một nạn nhân khác cũng bị bạo lực gia đình chia sẻ: “Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ở điều 207 có quy định không tiến hành hòa giải nếu một trong các đương sự đề nghị không hòa giải, ấy vậy mà khi nộp hồ sơ ly hôn, cán bộ tiếp nhận hồ sơ không nói rõ cứ bảo tôi phải về địa phương để dự các cuộc hòa giải. Chồng tôi là một kẻ vũ phu và rất ghê gớm, anh ta cứ thơn thớt nói yêu tôi và không muốn ly dị vợ. Khi tôi đã quyết làm đơn đề nghị đơn phương tôi đã phải ôm con trốn khỏi nhà. Nghĩ tới những năm tháng bị chồng đánh đập, bị chửi bới thóa mạ… tôi đã không đủ can đảm để gặp anh ta, nói gì tới hòa giải. Tôi mong rằng các cơ quan pháp luật cũng như thực thi pháp luật ngay từ ở phường xã cho tới tòa án cũng không nên khuyến khích những người phụ nữ như tôi cứ phải qua công tác hòa giải. Để đi tới quyết định ra tòa ly hôn đơn phương, những người như tôi đã phải cố gắng vượt qua mọi nỗi sợ rồi. Xin hãy giải quyết nhanh gọn, dứt điểm để chúng tôi không còn khổ nữa”.

Làm tăng thêm bức xúc?

Với một người công nhân, trình độ hiểu biết có hạn, nên khi đến tòa án chị Hoa không khỏi thiếu tự tin. Trước ngày xét xử chính thức, chị Hoa vẫn tiếp tục nhận được điện thoại của thư kí tòa án với mục đích hòa giải, nào là nghe tổ dân phố nói vợ chồng chị vẫn chung sống hạnh phúc, rồi đề nghị chị Hoa suy nghĩ lại xem có cho anh ấy cơ hội không… Những ai có mặt ở phòng xét xử cuộc ly hôn của chị Hoa cũng cảm thấy thương cho chị. Trước mỗi câu hỏi đóng mang tính kết luận khiến chị Hoa như co rúm lại và chỉ có thể trả lời có và không. Người anh trai tới dự xét xử chia sẻ: “Tôi nghĩ rằng với những vụ việc xét xử ly hôn cụ thể thì tòa án cần có sự thay đổi, chứ không nhất thiết phải rập khuôn. Với những người lao động và thiếu kiến thức như em gái tôi rất cần sự trợ giúp pháp lý như hướng dẫn cách kê khai tài sản theo hướng nào, xử lý tài sản thừa kế ra sao… Việc kéo dài quy trình hòa giải cũng khiến sự việc vừa kéo dài mà càng làm tăng thêm sự bức xúc, căng thẳng”.

Tại Hội thảo tham vấn Dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi) do Bộ VHTTDL vừa tổ chức, đại diện của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ LĐ,TB&XH, Tòa án nhân dân tối cao, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), một số chuyên gia về lĩnh vực gia đình… đã cho rằng cần phải có sự sửa đổi trong quy trình hòa giải. Khẳng định rõ hòa giải không phải là biện pháp xử lý và không thể giải quyết được bản chất cốt lõi vấn đề nhất là khi vợ chồng hoặc một trong hai người đã nhất quyết ly hôn. Đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc UNFPA, bà Hà Quỳnh Anh đề nghị không nên sử dụng biện pháp hòa giải để giải quyết BLGĐ. Bà cho biết, hiện nay đa phần với các vụ việc BLGĐ các cơ quan có trách nhiệm đều thiên về xử lý mang tính hòa giải. Nhưng thực tế có những trường hợp đã tiến hành hòa giải 20 năm nhưng người phụ nữ vẫn cứ chịu BLGĐ từ năm này sang năm khác.

Vấn đề đặt ra ở đây là các cơ quan có trách nhiệm giải quyết thủ tục ly hôn ngay từ tổ dân phố, đoàn thể địa phương hay tòa án cần phải nghiên cứu kĩ từng hồ sơ, từng trường hợp cụ thể. Với những cuộc hôn nhân bất hạnh thì việc giải phóng cho người phụ nữ lại là lối thoát thay vì cứ ép họ hòa giải, tiếp tục chung sống.

The Baomoi.com

Con trong bụng mẹ có được hưởng thừa kế của cha?

Câu hỏi: Chồng tôi đột ngột qua đời vào hai tháng trước trong khi tôi đang mang thai con đầu lòng được sáu tháng. Gia đình chồng tôi hiện còn cha mẹ chồng, em gái. Chồng tôi mất đột ngột nên không để lại di chúc. Xin hỏi, đứa con trong bụng tôi cũng là con của chồng tôi có được phần hưởng thừa kế từ chồng tôi hay không? – Chị Vy – Chiêm Hóa, Tuyên Quang

Luật sư xin tư vấn như sau:

Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.

Còn theo Điều 660 Bộ luật Dân sự, khi phân chia di sản thừa kế, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải để lại một phần di sản bằng phần của những người thừa kế khác. Cụ thể;

– Nếu thai nhi đó còn sống sau khi sinh ra thì sẽ được hưởng phần di sản thừa kế này.

– Nếu thai nhi chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng phần di sản thừa kế này.

Với các quy định trên, nếu quả thật đứa con chị đang mang thai là con chung của chị và chồng vừa qua đời thì vẫn sẽ được hưởng thừa kế.

Về phân chia tài sản thừa kế, do chồng chị mất mà không để lại di chúc nên phần tài sản riêng của chồng chị sẽ được chia thừa kế theo pháp luật cho các cá nhân thuộc hàng thừa kế thứ nhất của chồng gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Như vậy, phần di sản của chồng chị sẽ được chia thành bốn phần bằng nhau cho cha, mẹ chồng của chị, chị và đứa con nếu còn sống sau khi sinh ra.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc con trong bụng mẹ có được hưởng thừa kế của cha.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Bố đi lấy vợ, mẹ có được giành lại quyền nuôi con?

Theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình, sau khi ly hôn, người được giao nuôi con không được cản trở người còn lại được thăm nom con.

Câu hỏi: Tôi ly hôn đã được khoảng 2 năm nay. Khi ly hôn, do tôi chỉ ở nhà, không có thu nhập ổn định nên con được giao cho chồng cũ của tôi nuôi dưỡng. Nhưng anh ta lại giao cho bố mẹ nuôi do bận đi làm và đi chơi với người yêu mới. Anh ta còn thường xuyên cản trở, không cho tôi được gặp con. Mới đây, tôi mới biết, anh ta sắp lấy vợ. Tôi sợ khi có mẹ kế thì mẹ kế sẽ đối xử không tốt với con tôi. Xin hỏi, giờ tôi muốn giành lại quyền nuôi con được không? Sau khi ly hôn, tôi đã xin việc làm mới. Hiện công việc của tôi có thu nhập cao, ổn định. Tôi cũng có điều kiện, thời gian để nuôi dạy, chăm sóc con. Xin cảm ơn! Hà Thị Thủy (Yên Bái)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc giành quyền nuôi con sau khi ly hôn do hai vợ, chồng thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì sẽ do Tòa án quyết định. Căn cứ để Tòa án xem xét quyết định giao con cho ai nuôi dưỡng là:

– Quyền lợi về mọi mặt của con.

– Con từ đủ 07 tuổi trở lên thì xem xét nguyện vọng của con.

– Con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện.

Đồng thời, theo khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, sau khi đã được Tòa án giao quyền nuôi con cho một bên, bên còn lại vẫn có quyền yêu cầu được thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có các căn cứ sau đây:

– Cha, mẹ có thỏa thuận vì lợi ích của con.

– Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện.

– Xem xét nguyện vọng của con từ 07 tuổi trở lên.

Theo như thông tin chị trình bày, trong thời gian con mới được giao cho bố cháu thì chồng cũ của chị không thường xuyên chăm sóc con mà giao cho ông, bà nội nuôi dưỡng, chăm sóc. Ngoài ra, chồng cũ của chị còn sắp lấy vợ mới. Và hiện tại, về phía mình, chị đã có đủ điều kiện về vật chất cũng như tinh thần để nuôi dưỡng, chăm sóc con tốt nhất.

Căn cứ trường hợp cụ thể của chị cũng như đối chiếu với các quy định của pháp luật, có thể thấy, chị hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có đủ các lý do sau đây:

Một là, chị phải chứng minh chồng cũ không còn đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thông qua:

– Chồng cũ không trực tiếp nuôi con mà giao con cho cha mẹ nuôi.

– Chị phải có bằng chứng chồng cũ của chị bỏ bê, không quan tâm đến con cái khi có người yêu mới hoặc khi sắp cưới người khác.

Hai là, chị phải có bằng chứng để chứng minh việc chồng cũ ngăn cấm, không cho chị được gặp con sau khi ly hôn. Bởi theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình, sau khi ly hôn, người được giao nuôi con không được cản trở người còn lại được thăm nom con.

Ba là, chị có thể chứng minh thêm bản thân hiện có đủ điều kiện về vật chất cũng như tinh thần để tạo môi trường tốt nhất cho sự phát triển của con:

– Chị có thu nhập ổn định để đảm bảo cuộc sống của con.

– Chị có thời gian ở bên con, chăm sóc, yêu thương, quan tâm đến con vì công việc của chị được nghỉ thứ Bảy và Chủ nhật cũng như những buổi tối của các ngày trong tuần, chị có đủ thời gian bên con…

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc bố đi lấy vợ, mẹ có được giành lại quyền nuôi con hay không.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Chặn ‘sốt đất’ bằng giải pháp chuyển đổi số minh bạch quy hoạch

Làn sóng Covid-19 lần thứ 4 đang khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh ngày càng khó khăn. Vì vậy, dòng tiền tìm đến các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán, vàng… Điều này cũng đặt nhiều thị trường như bất động sản… trước nguy cơ tăng trưởng nóng, dẫn đến hiện tượng sốt đất.

Để tránh rơi vào vòng xoáy của những cơn “sốt đất” ảo, nhà đầu tư rất cần các thông tin quy hoạch chính xác từ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp đã tìm ra các giải pháp để cung cấp thông tin quy hoạch, các thông tin thị trường minh bạch… đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Meey Map của Công ty Cổ phần Tập đoàn Meey Land ra đời cũng để giải quyết bài toán này.

Khi môi giới “bơm” sốt đất bằng thông tin quy hoạch

Những năm gần đây, tình trạng sốt đất ăn theo thông tin quy hoạch khiến thị trường bất động sản biến động liên tục.

Tại TP Hồ Chí Minh, trong những tháng đầu năm 2021, tình trạng “sốt đất” diễn ra đáng báo động. Nguyên nhân khiến giá bất động sản tại TP Hồ Chí Minh tăng nóng là do triển vọng của hệ thống cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố đã và đang triển khai từ nhiều năm nay, dù chưa hoàn thành (tuyến metro số 1, đường vành đai 2, cầu Thủ Thiêm 2…), cũng như triển vọng của các quy hoạch từ nhiều năm nay dù chưa thực hiện và chưa có thay đổi nhiều đáng kể gần đây.

Người dùng trải nghiệm sản phẩm Meey Map tại VNITO 2021

Khu vực TP Thủ Đức trước thời điểm lên thành phố đã liên tục có nhiều đợt tăng giá. Giá đất tại các con đường: Nguyễn Xiển, Nguyễn Phước Thiện, Hoàng Hữu Nam, Nguyễn Văn Tăng… vị trí đất mặt đường đã lên tới hơn 100 triệu đồng/m2, thậm chí gần 200 triệu đồng/m2. Tại phường Trường Thọ, giá đất trước đây chỉ khoảng 40-50 triệu đồng/m2 đã tăng lên 70-100 triệu đồng/m2.

Ngay khi TP Thủ Đức được thành lập, giá bất động sản tại khu vực này nhanh chóng được đẩy lên cao, một số khu vực tăng trưởng nóng và có dấu hiệu đầu cơ đẩy giá, như: phường Trường Thọ (nơi sẽ hình thành khu đô thị trung tâm của TP Thủ Đức), có mức tăng giá 20-30%. Một số phường giáp ranh như Bình Thọ, Linh Đông… cũng tăng giá mạnh khi mặt bằng giá mới ghi nhận từ 70-90 triệu đồng/m2 đối với nhà phố và đất nền trong hẻm so với mặt bằng giá cũ trước đây chỉ 50-70 triệu đồng/m2.

Theo các chuyên gia nhận định, khi chưa có Luật Quy hoạch, thị trường vận hành dựa trên các quy hoạch ngành, quy hoạch địa phương với các kỳ khác nhau. Nhưng khi có Luật Quy hoạch, các địa phương và trung ương đồng bộ thống kê hiện trạng để hoạch định ra các kịch bản cho tương lai. Do đó, khi các thông tin về việc dự kiến xây dựng công trình, quy hoạch khu đất mới được đưa ra bàn thảo, người dân sẽ phát sinh tâm lý đất ở khu vực nào đó có giá, trong khi các nhà đầu tư nhận ra tiềm năng về đất ở khu vực quy hoạch.

Có thể thấy, việc xuất hiện một thông tin quy hoạch mới sẽ khiến thị trường bất động sản nhộn nhịp, thậm chí dẫn đến tình trạng “sốt đất”. Những người có ý định đẩy giá nhằm thao túng thị trường có cơ hội thực hiện ý đồ của mình. Những nhà đầu tư mới dễ sa vào chiếc bẫy “mật ngọt chết ruồi” này.

Minh bạch hóa thông tin

Sở hữu thông tin quy hoạch chính xác là “quân át chủ bài” quyết định sự thành bại trong hoạt động đầu tư bất động sản. Đây vẫn là bài toán khó mà mỗi nhà đầu tư phải tự tìm câu trả lời cho mình. Nhưng trong thời đại số, áp dụng khoa học công nghệ 4.0 vào mọi mặt trong đời sống, bài toán đó đã có lời giải.

Công ty Cổ phần Tập đoàn Meey Land đã cho ra mắt một sản phẩm chiến lược – Meey Map – đây là một dạng bản đồ số, nhưng được sử dụng chuyên biệt cho người dùng quan tâm tới lĩnh vực Bất động sản. Meey Map hứa hẹn là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nhà kinh doanh, đầu tư bất động sản, và những người đang giao dịch bất động sản.

Đối với thị trường phía Nam, cụ thể là TP Hồ Chí Minh là thị trường trọng điểm của Meey Land trong thời gian tới. Chia sẻ bên lề Chuỗi Hội thảo Công nghệ số (VNITO Tech Series) 2021: “Công nghệ cho bất động sản thời kinh tế số”, ông Hoàng Mai Chung, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Meey Land cho biết: “meeymap.com là sản phẩm trọng điểm mà trong thời gian này Meey Land rất muốn đưa tới thị trường TP Hồ Chí Minh. Cụ thể là đến ngày hôm nay, chúng tôi đã cập nhật thêm thông tin quy hoạch phân khu, quy hoạch chung cho một số tỉnh thành phố tại thị trường miền Trung và miền Nam như Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương, Khánh Hòa, Phú Yên, Gia Lai, Kiên Giang…”.

Ông Hoàng Mai Chung – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Meey Land cho biết, doanh nghiệp bất động sản cần tăng cường chuyển đổi số để đánh giá hết tiềm năng thị trường

Tại bản đồ số Meey Map khách hàng có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin bất động sản và tra cứu quy hoạch trực tuyến. Meey Map là một nền tảng thuộc “Hệ sinh thái Công nghệ Bất động sản Meey Land”. Hỗ trợ người dùng tìm kiếm các thông tin về vị trí, thông tin giao dịch, thông tin quy hoạch của Bất động sản đang được mua bán, sang nhượng, cho thuê. Với tầm nhìn, trở thành một nền tảng bản đồ chuyên cho lĩnh vực bất động sản hàng đầu tại Việt Nam, và tiến tới trong tương lai sẽ chinh phục thị trường quốc tế. Đồng thời, sẽ tiến tới đáp ứng cung cấp thông tin cho các lĩnh vực kinh tế thiết yếu khác ngoài bất động sản.

Ông Hoàng Mai Chung cho biết thêm:“Khách hàng khi có thông tin từ meeymap.com sẽ dễ dàng trong chuyện chốt các giao dịch bất động sản dễ hơn, đặc biệt trong vấn đề pháp lý của bất động sản thì tra cứu quy hoạch là một nhu cầu rất cần thiết”.

Meey Map được hiển thị dưới các dạng giao diện bản đồ giao thông, bản đồ vệ tinh, đồng thời kết hợp với lớp bản đồ quy hoạch, cung cấp cho người dùng chi tiết, đầy đủ thông tin và trực quan nhất.

Người dùng Meey Map có thể tra cứu quy hoạch sử dụng đất mọi lúc mọi nơi ngay cả khi ở nhà với chỉ 1 chiếc điện thoại. Đồng thời có thể tiếp cận các thông tin từ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chỉ trong vài phút.

Sứ mệnh của Meey Map là kiến tạo một trải nghiệm tìm kiếm tất cả các thông tin liên quan đến bất động sản thông qua nền tảng bản đồ. Từ đó góp phần minh bạch hóa thông tin bất động sản, giảm thiểu tranh chấp, đồng thời hỗ trợ đưa ra quyết định mua bán, đầu tư bất động sản.

Theo Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Meey Land, doanh nghiệp bất động sản nếu không chuyển đổi số thì sẽ không đánh giá được tiềm năng của thị trường. “Chuyển đổi số chính là công cụ rất tốt để đảm bảo cho cái việc sản phẩm làm ra phải đến được đúng phân khúc khách hàng và chưa làm ra sản phẩm thì họ chưa xác định được ai sẽ là người mua, gia bao nhiêu, nhu cầu ra sao và đấy chính là cơ sở để cho bất động sản trở nên minh bạch và lưu thông. Khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản sẽ được hạn chế rất nhiều”, ông Chung nói.

Theo Baomoi.com

Con bao nhiêu tuổi thì chồng được yêu cầu ly hôn?

Theo tôi được biết, có những cặp vợ chồng sau khi lấy nhau về, mới sinh con ra đã xảy ra mâu thuẫn trong cuộc sống hằng ngày và sớm đi đến việc ly hôn. Việc ly hôn sớm như vậy sẽ rất ảnh hưởng đến người phụ nữ khi mới sinh con.

Xin hỏi, pháp luật có quy định nào để bảo vệ người phụ nữ mới sinh con mà người chồng lại có yêu cầu ly hôn? Bạn đọc Ngoc Anh (TP.Hải Phòng)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định những người sau có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn.

Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn (thuận tình ly hôn hoặc ly hôn theo yêu cầu của một bên).

Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do vợ, chồng của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Căn cứ vào quy định trên, có thể thấy pháp luật cho phép vợ, chồng đều có quyền ly hôn.

Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ nhỏ và của người phụ nữ thì tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình đã nêu rõ chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc con bao nhiêu tuổi thì chồng được yêu cầu ly hôn.Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Có được kết hôn lại với chồng cũ?

Bạn đọc Nguyễn Thị Thủy (TP Hải Phòng) hỏi: Sau khi kết hôn khoảng 2 năm, tôi đã ly hôn với chồng. Nay muốn quay lại với chồng cũ, tôi có được đăng ký kết hôn?

Luật sư xin tư vấn như sau:
Căn cứ khoản 2, điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về đăng ký kết hôn như sau:
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý. Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.

Như vậy, theo quy định trên và trường hợp mà bạn đề cập, mặc dù đã ly hôn nhưng muốn quay lại thì hoàn toàn có thể đăng ký kết hôn lại từ đầu. Tuy nhiên, nếu không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền mà chỉ chung sống với nhau trên thực tế thì quan hệ hôn nhân sẽ không được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc có được kết hôn lại với chồng cũ không. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Kết hôn giả để xuất, nhập cảnh, nhập quốc tịch sẽ bị xử lý ra sao?

 Dư luận đang xôn xao trước thông tin một ca sỹ khá nổi tiếng trong nước vừa bị người vợ ở nước ngoài hơn mình tới hàng chục tuổi nộp đơn ly hôn. Chưa biết thực hư câu chuyện này ra sao, nhưng nhiều người đặt câu hỏi: Thực tế có không ít trường hợp kết hôn giả để xuất, nhập cảnh, nhập quốc tịch…Theo quy định hiện hành, hành vi này sẽ bị xử lý thế nào?

Kết hôn là sự kiện pháp lý gắn kết người nam và người nữ, theo đó mỗi bên có quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định cụ thể. Theo Luật hôn nhân và gia đình (HNGĐ) 2014, kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.

Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật HNGĐ được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Ngược lại, những hành vi vi phạm pháp luật làm tổn hại đến chế độ hôn nhân gia đình cũng bị nghiêm cấm, trong đó có hành vi kết hôn giả tạo – Luật sư Nguyễn Hào Hiệp – Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiệp Thành cho biết.

Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2015 cấm kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo.

Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật.

Về kết hôn giả tạo, Khoản 11 Điều 3 Luật HNGĐ nêu rõ, đó là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.

Có thể hiểu, kết hôn giả là cuộc hôn nhân theo những hợp đồng, thỏa thuận ngầm hoặc trái quy định với pháp luật vì những lý do khác vì lợi ích (về kinh tế, chính trị, tài sản, địa vị xã hội, cư trú, nhập cảnh…) chứ không trên cơ sở tình yêu.

“Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật HNGĐ.

Do vậy, việc kết hôn giả tạo là một trong những căn cứ để hủy việc kết hôn trái pháp luật” – Luật sư Nguyễn Hào Hiệp nhận định.

Về xử lý kết hôn giả tạo, Điều 11, Điều 13 Luật HNGĐ nêu rõ, xử lý việc kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện theo quy định tại Luật này và pháp luật về tố tụng dân sự.

Trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó.

Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định.

Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.

Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật này.

Ngoài ra, theo Luật sư Nguyễn Hào Hiệp, cá nhân kết hôn giả tạo có thể bị xử phạt hành chính theo khoản 2 Điều 59 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.

Theo đó, phạt tiền từ 10-20 triệu đồng đối với một trong các hành vi lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến việc kết hôn giả để xuất, nhập cảnh, nhập quốc tịch sẽ bị xử lý ra sao. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Bị chồng đánh, người vợ cần thực hiện những biện pháp pháp lý gì?

Để chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, trước hết người vợ cần chia sẻ và yêu cầu sự trợ giúp của người thân, người có tiếng nói trong gia tộc hỗ trợ ngăn chặn hành vi bạo lực tái diễn.

“Tôi đọc báo thấy trường hợp cho biết, 1 ngày người phụ nữ này bị chồng đánh tới 4 lần. Xin hỏi luật sư, khi người chồng bạo hành vợ thì người vợ cần thực hiện các biện pháp pháp lý như thế nào để bảo vệ bản thân?”. Ngọc Nhung (Tây Hồ, Hà Nội)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Nhiều phụ nữ hiện vẫn còn tư tưởng sợ không muốn “vạch áo cho người xem lưng”, sợ “xấu chàng hổ ai” và xem mình là thế yếu trong gia đình nên phải âm thầm chịu đựng. Bạo lực gia đình có thể để lại hệ lụy rất lớn vì nó gây ra nhiều nỗi đau về thể chất lẫn tinh thần cho nạn nhân, tạo nên chất lượng đời sống hôn nhân không như ý nguyện. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng ngày nay được đề cao và được pháp điển hoá thành luật như: Luật bình đẳng giới; Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật hôn nhân & gia đình…

Khi là nạn nhân của bạo lực gia đình, chị em phụ nữ cần mạnh mẽ lên tiếng, cần hiểu quyền và nghĩa vụ cá nhân được pháp luật bảo hộ. Theo khoản 1 Điều 5 Luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định về quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình thì người bị bạo hành trong trường hợp này có các quyền sau đây:

a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;

b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;

c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;

d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật này;

đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Để chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, trước hết người vợ cần chia sẻ và yêu cầu sự trợ giúp của người thân, người có tiếng nói trong gia tộc hỗ trợ ngăn chặn hành vi bạo lực tái diễn. Thứ đến, người vợ hoàn toàn có thể thực hiện các quyền nêu trên, đề nghị các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình. Các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ cho người vợ trong trường hợp này được quy định cụ thể tại Điều 18 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình như sau:

1. Người phát hiện bạo lực gia đình phải kịp thời báo tin cho cơ quan công an nơi gần nhất hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra bạo lực, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 23 và khoản 4 Điều 29 của Luật này.

2. Cơ quan công an, Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư khi phát hiện hoặc nhận được tin báo về bạo lực gia đình có trách nhiệm kịp thời xử lý hoặc kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xử lý; giữ bí mật về nhân thân và trong trường hợp cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ người phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình.

Trong trường hợp bạo lực ở mức độ nghiêm trọng, gây hậu quả nghiêm trọng tới sức khỏe và tinh thần của người vợ thì nạn nhân có thể nộp đơn tố cáo đến Cơ quan công an về tội cố ý gây thương tích hoặc tội hành hạ người khác theo Bộ luật hình sự hiện hành. Ngoài ra, người vợ có thể thực hiện quyền ly hôn để chấm dứt hành vi bạo lực. Căn cứ theo quy định tại điều 51 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 thì ly hôn là quyền của một trong hai bên vợ chồng. Nếu cả hai vợ chồng đều tự nguyện muốn ly hôn thì thực hiện ly hôn theo hình thức thuận tình. Còn trường hợp người vợ có căn cứ bị bạo lực gia đình hoặc mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được thì người vợ có quyền đơn phương xin ly hôn để chấm dứt đời sống hôn nhân.

Trên đây là nội dung tư vấn liên quan đến những hành động pháp lý cần làm khi bị chồng đánh. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com