Thủ tục thi hành án tử hình

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Án tử hình thực hiện như thế nào?

Câu hỏi khách hàng:

Chào luật sư, vừa qua tôi có đọc báo và thấy được nhiều trường hợp phạn tội bị phạt mức án tử hình. Vậy tôi có thắc mắc quá trình thực hiện án tử hình như thế nào? Mong luật sư sớm giải đáp giúp tôi vấn đề này, tôi xin cảm ơn

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Thi hành án hình sự số 53/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010;

– Công văn số 245/TANDTC-TK ngày 16 tháng 08 năm 2011 V/v thi hành án tử hình.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Hiện nay pháp luật có quy định về thi hành án hình sự tại luật thi hành án dân sự 2010, cùng một số văn bản pháp luật khác. Trình tự thi hành án tử hình được quy định tại khoản 4 điều 59 Luật thi hành án hình sự 2010, được hướng dẫn bởi công văn 245/TANDTC-TK năm 2011, thì bao gồm:

Thứ 1:

Căn cứ quyết định thi hành án tử hình và yêu cầu của Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình, Cảnh sát hỗ trợ tư pháp hoặc Cảnh vệ tư pháp thực hiện áp giải người chấp hành án đến nơi làm việc của Hội đồng thi hành án tử hình.

Thứ 2:

Thực hiện yêu cầu của Hội đồng thi hành án tử hình, cán bộ chuyên môn thuộc Công an nhân dân hoặc Quân đội nhân dân tiến hành lăn tay, kiểm tra danh bản, chỉ bản, đối chiếu với hồ sơ, tài liệu có liên quan; chụp ảnh, ghi hình quá trình làm thủ tục lăn tay, kiểm tra và lập biên bản; báo cáo Hội đồng thi hành án tử hình về kết quả kiểm tra.

Thứ 3:

Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình công bố quyết định thi hành án, quyết định không kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và quyết định không kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình.

Ngay sau khi Chủ tịch Hội đồng thi hành án công bố các quyết định, Cảnh sát hỗ trợ tư pháp hoặc Cảnh vệ tư pháp có nhiệm vụ giao các quyết định trên cho người chấp hành án để người đó tự đọc. Trường hợp người chấp hành án không biết chữ, không biết tiếng Việt hoặc không tự mình đọc được thì Hội đồng thi hành án tử hình chỉ định người đọc hoặc phiên dịch các quyết định trên cho người đó nghe. Quá trình công bố và đọc các quyết định phải được chụp ảnh, ghi hình, ghi âm và lưu vào hồ sơ.

Thứ 4:

Theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình, cán bộ chuyên môn do cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu chỉ định thực hiện việc thi hành án và báo cáo kết quả cho Chủ tịch Hội đồng.

Thứ 5:

Theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình, bác sỹ pháp y xác định tình trạng của người đã bị thi hành án tử hình và báo cáo kết quả cho Hội đồng.

Thứ 6:

Hội đồng thi hành án tử hình lập biên bản thi hành án; báo cáo về quá trình, kết quả thi hành án cho Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan quản lý thi hành án hình sự. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu làm thủ tục khai tử tại Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thi hành án.

Thứ 7:

Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm bảo quản tử thi, tổ chức mai táng, vẽ sơ đồ mộ người đã bị thi hành án. Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thi hành án có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu trong việc mai táng và quản lý mộ của người đã bị thi hành án.

Thứ 8:

Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu thông báo cho thân nhân của người đã bị thi hành án biết, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 60 của Luật Thi hành án hình sự 2010.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại Bộ luật hình sự như thế nào

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại Bộ luật Hình sự như thế nào

Câu hỏi khách hàng:

Người đàn ông có hành vi dâm ô với bé gái trong thang máy có thể phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào trong trường hợp gây rối loạn tâm thần cho bé gái dẫn tới tự sát. Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong trường hợp này?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

  1. Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau:

“Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:

  1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

– Dâm ô đối với trẻ em là hành vi thể hiện sự ham muốn thú dục quá độ, xấu xa, nhơ nhuốc, không chính đáng của của người thành niên đối với trẻ em chưa đủ 16 tuổi.

– Tội phạm được thể hiện ở hành vi sờ soạng, hôn, hít,… bộ phận sinh dục trẻ em. Hành vi phạm tội còn thể hiện ở hành động bắt trẻ em làm những việc đồi bại đối với mình,… để thoả mãn nhu cầu của người phạm tội.

– Tội phạm này không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác.

– Người phạm tội là người từ đủ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Người phạm tội phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

  1. a) Phạm tội có tổ chức;
  2. b) Phạm tội 02 lần trở lên;
  3. c) Đối với 02 người trở lên;
  4. d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

  1. e) Tái phạm nguy hiểm.”

– Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh là trường hợp mà người phạm tội có mối quan hệ nhất định, có trách nhiệm đối với nạn nhân như chú, bác, cô , dì đối với cháu; giáo viên đối với học sinh; người quản lý, phụ trách đối với các cháu thiếu niên; thầy thuốc đối với bệnh nhân,…

– Tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội dâm ô với người dưới 16 tuổi hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tôi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

“Trường hợp người phạm tội phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

  1. a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên
  2. b) Làm nạn nhân tự sát.”

– Hậu quả do tội phạm để lại là hậu quả rất nghiêm trọng như làm cho nạn nhân bị tâm thần, ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sự phát triển tâm sinh lý của đứa trẻ, đến hạnh phúc gia đình và tương lai của đứa trẻ hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như làm cho nạn nhân xấu hổ, mặc cảm mà dẫn đến tự sát,…

Như vậy, trường hợp người đàn ông có hành vi dâm ô với bé gái trong thang máy dẫn tới hậu quả làm nạn nhân tự sát thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 146 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, khung hình phạt cho khoản này là phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

Ngoài ra, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

  1. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong trường hợp này:

Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

– Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm:

  1. a) Cơ quan điều tra;
  2. b) Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
  3. c) Viện kiểm sát các cấp;
  4. d) Các cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm như: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.

– Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

– Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

– Các cơ quan, tổ chức khác sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thì chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp thì có thể báo tin trực tiếp qua điện thoại hoặc hình thức khác cho Cơ quan điều tra nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Di chúc lập trong thời gian đang thực hiện thủ tục nhận di sản có hiệu lực không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Hiệu lực của di chúc trong trường hợp người lập di chúc chết khi đang được thực hiện thủ tục nhận di sản thừa kế

Câu hỏi khách hàng:

Tôi muốn hỏi về trường hợp thừa kế di sản. Vợ chồng em rể tôi có mua 1 căn chung cư nhưng lúc mua 2 vợ chồng chưa đăng ký kết hôn nên chỉ một mình em rể tôi đứng tên trên hợp đồng mua nhà, sau đó 2 đứa đăng ký kết hôn nhưng chung cư chưa ra sổ, đến quý 4/2019 mới có sổ. Mới đây em rể tôi bị tai nạn qua đời đột ngột nên ko để lại di chúc. Hiện nay Căn nhà đang được phòng công chứng làm thủ tục thừa kế cho em gái và ba mẹ chồng. Nhưng vì thương nhớ em rể tôi nên em gái tôi cũng mất, trước khi mất có để lại di chúc chuyển phần thừa kế của em gái tôi cho ba mẹ ruột. Trong khi thủ tục thừa kế vẫn đang được phòng công chứng thực hiện chưa ra tên cho em gái tôi và ba mẹ chồng.Vậy tôi muốn hỏi di chúc em gái tôi để phần thừa kế của nó cho ba mẹ ruột có hiệu lực không? Rất mong luật sư tư vấn.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định của bộ luật dân sự về vấn đề hiệu lực của di chúc, di chúc có hiệu  lực khi đáp ứng các điều kiện về giao dịch dân sự có hiệu lực theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

  1. a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
  2. b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
  3. c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”

Theo tại khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di chúc hợp pháp có quy định:

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

  1. a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
  2. b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.”

Theo thông tin mà anh cung cấp, trong trường hợp của anh di chúc của em gái anh có đủ điều kiện để có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Vấn đề em gái anh lập di chúc và mất trong khoản thời gian đang làm thủ tục thừa kế tài sản của người chồng không ảnh hưởng đến xác định giá trị pháp lý của di chúc.

Về phần căn nhà, theo anh nói thì đây là tài sản chung của vợ chồng , chỉ là em rể của anh đại diện đứng tên trên hợp đồng mua nhà. Nếu xác định được đây là tài sản chung của vợ chồng thì căn nhà này sẽ được chia đôi cho hai vợ chồng, em gái anh được chia một nửa căn nhà và được hưởng một phần căn nhà là di sản của chồng để lại. Sau khi em gái anh mất, vì em gái có để lại di chúc nên số tài sản của em gái anh và và số tài sản được thừa kế từ di sản của chồng sẽ được chia theo di chúc.

Như vậy, di chúc của em gái anh (nếu đáp ứng các yêu cầu về hình thức theo quy định của pháp luật) có giá trị pháp lý và bố mẹ ruột sẽ được hưởng toàn bộ tài sản theo di chúc gồm có toàn bộ tài sản của em gái anh và phần tài sản mà em gái anh được chia từ phần di sản của người chồng trước đó.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Giữ hộ ma túy có phạm tội không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về việc giữ hộ ma túy có phạm tội không?

Chào Luật sư xin hỏi: Tuần trước bạn của em trai tôi có đưa cho em trai tôi một túi đồ gồm rất nhiều đồ đạc bên trong nhờ em tôi giữ hộ 15 phút khi bạn của em trai tôi đi thì công an ập đến và thấy trong túi đồ có 01 hộp đựng ma túy. Vậy em tôi có phạm tội gì không và mức xử phạt như thế nào? Cảm ơn luật sư!

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2015;

– Luật sửa đổi Bộ luật hình sự số 12/2017/QH14 Được Quốc hội khoá 14 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017. Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.

  1. Nội dung tư vấn:

Qua sự điều tra cụ thể của cơ quan Công an với những lời khai, bằng chức xác đáng thì mới có thể xác định được em bạn có phạm tội gì không, tuy nhiên, với những gì bạn trình bày thì có thể có 02 trường hợp xảy ra:

– Trường hợp thứ nhất: nếu em bạn không biết, và không thể biết rằng trong túi đó có ma túy thì em bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hoặc em bạn bị người đó lừa gạt, tin vào những thông tin giả và nghe theo sự chỉ dẫn của họ thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

– Trường hợp thứ hai: đó là em bạn dù biết người đó là kẻ buôn bán ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi cất ma túy giúp người đó, biết trong túi đó có ma túy, biết trước hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra những vẫn thực hiện, khi đó, em bạn đã có lỗi cố ý trong việc cất giữ ma túy. Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tùy vào khối lượng ma túy cất giữ em bạn có thể bị xử phạt theo những mức nhất định. Cụ thể, em bạn sẽ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1, Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

“Tàng trữ trái phép chất ma túy” là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này. Theo đó thì em bạn đã có hành vi tàng trữ chất ma túy, là một chất nguy hiểm, gây hậu quả cho xã hội, bị cấm kinh doanh và cấm lưu thông, những người buôn bán, vận chuyển, tàng trữ chất ma túy sẽ phải chịu những hình phạt rất nghiêm khắc vì hành vi của họ gây hậu quả rất lớn. Em bạn đã cất giữ chất ma túy cho người buôn bán ma túy, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển chất ma túy nên sẽ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Em bạn còn có thể phạm tội không tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:

Điều 390. Tội không tố giác tội phạm

1, Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2, Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.”

———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Nhận dạng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề nhận dạng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015.

  1. Luật sư tư vấn:

Theo quy định tại Điều 190 BLTTHS năm 2015 thì chủ thể có thẩm quyền tiến hành việc nhận dạng là Điều tra viên thuộc Cơ quan điều tra. Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không trực tiếp tiến hành nhận dạng.

Những người phải tham gia việc nhận dạng được quy định tại khoản 2 Điều 190 BLTTHS năm 2015, gồm:

– Người nhận dạng: Có thể là người làm chứng, bị hại hoặc bị can. Nếu lựa chọn những người tham gia tố tụng khác như người bị bắt, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… làm người nhận dạng thì kết quả nhận dạng sẽ không có giá trị pháp lý và không được dùng làm chứng cứ giải quyết vụ án. Tuy Điều 190 BLTTHS năm 2015 không quy định rõ nhưng theo tác giả, người nhận dạng phải đáp ứng các điều kiện, đó là: Họ phải là người đã tri giác và còn lưu giữ được những tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng cần nhận dạng; họ phải là người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; là người có khả năng tri giác; là người được Điều tra viên chọn làm người nhận dạng.

– Người chứng kiến: Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả nhận dạng và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Những người sau đây không được làm người chứng kiến việc nhận dạng: Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc; người dưới 18 tuổi…

Về đối tượng nhận dạng: Đối tượng nhận dạng là người, ảnh hoặc vật được đưa ra để nhận dạng. Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi. Đối tượng nhận dạng gồm:

– Đối tượng nhận dạng chính: Là đối tượng cần xác định có liên quan đến vụ án hình sự.

– Đối tượng nhận dạng tương tự: là đối tượng không liên quan đến vụ án, tự nguyện tham gia việc nhận dạng, có bề ngoài tương tự đối tượng nhận dạng chính, được đưa ra nhận dạng cùng đối tượng nhận dạng chính để bảo đảm sự khách quan của việc nhận dạng. Đối tượng tương tự là người thì phải cùng giới, gần giống đối tượng nhận dạng chính về chiều cao, màu da, độ tuổi. Đối tượng tương tự là vật thì vật đó phải cùng loại, gần giống đối tượng nhận dạng chính về kích thước, màu sắc…

Về điều kiện tiến hành nhận dạng: Khoản 1 Điều 190 BLTTHS 2015 quy định Điều tra viên tiến hành nhận dạng “khi cần thiết”. Về trường hợp nào là cần thiết để tiến hành nhận dạng thì hiện nay chưa có hướng dẫn. Vậy nên, Điều tra viên cần xem xét đến các yếu tố cấu thành tội phạm, các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự và các tình tiết khác (khả năng tri giác của người nhận dạng, đặc điểm riêng biệt của đối tượng…) để quyết định có tiến hành biện pháp điều tra này hay không?

Về trình tự, thủ tục tiến hành nhận dạng:

– Điều tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được (khoản 4 Điều 190).

Việc hỏi trước giúp cho người nhận dạng có thời gian, điều kiện để nhớ lại các tình tiết, vết tích và đặc điểm của đối tượng mà họ đã tri giác trước đây; là cơ sở để kiểm tra, đánh giá lời khai của họ sau khi việc nhận dạng kết thúc và cũng để xác định lại việc có cần thiết tiến hành nhận dạng hay không. Tuy vậy, quy định trên dẫn đến hai cách hiểu khác nhau khi áp dụng. Cách hiểu thứ nhất: Trong buổi nhận dạng, Điều tra viên phải hỏi người nhận dạng, rồi sau đó mới cho họ bắt đầu nhận dạng. Cách hiểu thứ hai: Điều tra viên phải hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng (chẳng hạn như Điều tra viên hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng 10 ngày). Theo tác giả, Điều tra viên nên hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng một thời gian hợp lý. Nếu thời gian từ khi hỏi đến khi tiến hành nhận dạng quá lâu thì họ có thể quên đi các tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng nhận dạng.

Khi hỏi người nhận dạng, Điều tra viên cần hỏi thật kỹ họ về các tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng nhận dạng; các yếu tố khách quan trong khi họ tri giác đối tượng như ánh sáng, khoảng cách; các yếu tố chủ quan trong khi họ tri giác đối tượng…

 

– Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo việc tiến hành nhận dạng cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc nhận dạng (khoản 1 Điều 190).

So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát để cử Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc nhận dạng. Việc bổ sung quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên, đồng thời bảo đảm hoạt động này thực hiện đúng quy định của pháp luật.

– Nếu người nhận dạng là người dưới 18 tuổi thì trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên còn phải thông báo cho người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự (Điều 420, 421).

– Nếu có người làm chứng hoặc bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản nhận dạng (khoản 3 Điều 190). Có nhiều nguyên nhân làm cho người làm chứng hoặc bị hại từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối: sợ bị trả thù, có mối quan hệ gia đình, bạn bè…, làm ảnh hưởng đến kết quả nhận dạng. Vậy nên, việc quy định như trên là cần thiết, bảo đảm sự đúng đắn trong lời khai của người làm chứng, bị hại.

– Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba, trừ trường hợp nhận dạng tử thi (khoản 1 Điều 190). Số người, ảnh hoặc vật đưa ra quá nhiều sẽ làm cho người được nhận dạng mất tập trung, khó khăn trong việc nhận dạng. Ngược lại, nếu  đưa người, ảnh hoặc vật ra quá ít thì việc nhận dạng sẽ không được khách quan.

– Trong quá trình tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Điều tra viên đặt câu hỏi gợi ý rất dễ làm cho người nhận dạng khai báo theo ý của Điều tra viên, làm ảnh hướng đến tính khách quan của kết quả nhận dạng. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.

– Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.

– Kết thúc việc nhận dạng, Điều tra viên phải lập biên bản. Biên bản nhận dạng được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận dạng; đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng; điều kiện ánh sáng khi thực hiện nhận dạng (khoản 5 Điều 190).

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.
Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự (Phần 2)

2.3. Vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện

– Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà các chủ thể có quyền khởi kiện được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động để bảo vệ quyền lợi ích bị xâm phạm. Hết thời hạn đó thì chủ thể khởi kiện mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định tại Điều 185 BLDS năm 2015, riêng đối với yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc sở hữu nhà nước; yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Quy định thời hiệu khởi kiện góp phần quan trọng vào việc ổn định các quan hệ kinh tế – xã hội, hạn chế việc lạm dụng quyền khởi kiện. Tùy thuộc vào tính chất của mỗi loại tranh chấp pháp luật quy định thời hiệu.

– Trên thực tế có nhiều nguyên nhân khách quan mà việc khởi kiện không được thực hiện trong thời hạn quy định. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ, pháp luật quy định không tính vào thời hiệu khởi kiện khoảng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng; trở ngại khách quan; người có quyền khởi kiện chưa thành niên, bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà chưa có người đại diện; người đại diện của họ bị chết mà chưa có người thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện (Điều 186 BLTTDS 2015)

– Thời hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được quy định cụ thể trong BLDS năm 2015, Luật Thương mại năm 2005, BLLĐ năm 2012.

2.4. Sự việc chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật

Nếu sự việc đã được tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không được khởi kiện lại đối với vụ án đó nữa, trừ các trường hợp được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 04/2017 bao gồm:

– Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

– Đã có đủ điều kiện khởi kiện;

Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật khác có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.

Ví dụ: Công ty A là người sử dụng lao động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng ghi rõ ông B sẽ được Công ty cho đi học nghề 01 năm, đồng thời ông B có nghĩa vụ làm việc tại Công ty ít nhất là 05 năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên, sau khi học xong ông B chỉ làm việc ở Công ty A 02 năm. Công ty A khởi kiện ông B ra Tòa án buộc ông B hoàn trả chi phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động. Trường hợp này, theo quy định tại Điều 201 Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Công ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án.

Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.

– Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan (nhưng việc khởi kiện vụ án sau không phải khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp);

– Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy, Tòa án chỉ được thụ lý vụ án chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Điều kiện này nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định, sự ổn định của các quan hệ xã hội, một việc đã được giải quyết thì không giải quyết lại nữa để tránh tình trạng chồng chéo cũng một sự việc mà nhiều cơ quan giải quyết và tránh việc cố tình kéo dài việc khiếu kiện của đương sự.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác anh/chị vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự (Phần 1)

Để tranh chấp có thể được đưa ra giải quyết tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền cần rất nhiều yếu tố khác nhau; đặc biệt là tranh chấp đó phải được Tòa án thụ lý để phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong tố tụng dân sự và quan hệ tranh chấp được lấy lại cân bằng. Tuy nhiên, trên thực tế không phải ai cũng hiểu biết đúng về điều kiện khởi kiện của các vụ án mà mình đang gặp phải. Do đó, dưới dấy Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự đưa ra tư vấn pháp về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự nói chung theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

  1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

– Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC ngày 05 tháng 05 năm 2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

  1. Nội dung tư vấn

2.1. Về chủ thể khởi kiện

– Điều 186 BLTTDS 2015 quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp phá kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể theo quy định của pháp luật được tham giam vào quan hệ pháp luật TTDS. Các chủ thể này bao gồm cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định. Cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải có năng lực hành vi TTDS đồng thời phải có quyền lợi bị xâm phạm.

– Đối với những cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng mà có quyền lợi cần phải được bảo vệ thì họ không thể tự mình khởi kiện vụ án được mà phải do người đại diện thay mặt để thực hiện việc khởi kiện vụ án. Pháp luật cũng đòi hỏi cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 186 BLTTDS 2015). Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt trong TTDS, nó không cho phép người không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật lợi dụng quyền khởi kiện để rồi lại xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Cá nhân khi đã có năng lực chủ thể đầy đủ thì có thể tự mình khởi kiện hoặc làm giấy ủy quyền cho một người khác có năng lực hành vi thay mặt mình khởi kiện, trừ việc ly hôn.

– Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức còn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của pháp luật. Ngoài những trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác được khởi kiện những vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định tại các Điều 119, Điều 102 LHN&GĐ 2015, BLTTDS còn quy định các cơ quan, tổ chức khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách (Điều 187 BLTTDS 2015). Để có nhận thức thống nhất về các loại cơ quan, tổ chức được khởi kiện vụ án dân sự cần có sự phân biệt như sau:

– Các bộ phận, đơn vị, văn phòng đại diện của các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ của cơ quan nhà nước, phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước không phải là pháp nhân, không có quyền khởi kiện vụ án dân sự.

– Các tổ chức quy định trong Điều 1 BLTTDS bao gồm các tổ chức có tư cách pháp nhân và các tổ chức không có tư cách pháp nhân. Các tổ chức không có tư cách pháp nhân được khởi kiện vụ án dân sự phải là những tổ chức được pháp luật quy định có quyền tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

2.2. Vụ án được khởi kiện phải thuộc thẩm quyền Tòa án

Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự đối với những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Việc xác định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt động bình thường và hợp lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời việc phân định thẩm quyền giữa các Tòa án cũng góp phần cho các Tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ của mình và người dân dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền của Tòa án được xác định một cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ của Tòa án với các cơ quan nhà nước khác, giữa các Tòa án và các bộ phận trong một Tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Để vụ án được thụ lý, đơn khởi kiện phải gửi đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết, xét xử. Cụ thể là:

– Vụ án mà chủ thể khởi kiện thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS 2015;

–  Vụ án được khởi kiện phải đúng với cấp tòa án có thẩm quyền quy định tại Điều 35, 36, 37, 38 BLTTDS 2015;

– Vụ việc được khởi kiện đúng thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ quy định tại Điều 39 BLTTDS 2015;

– Trong trường hợp người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa án theo Điều 40 BLTTDS thì yêu cầu đương sự cam kết không khởi kiện tại các tòa án khác. Nếu do thỏa thuận lựa chọn Tòa án giải quyết thì phải kiểm tra tính hợp pháp của thỏa thuận.

– Đối với những việc pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác gaiải quyết trước thì chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện vụ án khi các cơ quan hữu quan đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan đó.

– Khi xác định thẩm quyền, Tòa án cũng phải xác định đó là loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại hay lao động để vào sổ thụ lý loại án đúng với quy định. Việc xác định này có ý nghĩa rất lớn khi xác định các quy phạm pháp luật nội dung để áp dụng. Chẳng hạn nếu đó là tranh chấp về hôn nhân và gia đinh sẽ áp dụng các quy định trong LHNHĐ, BLDS… Nếu là tranh chấp lao động sẽ áp dụng BLLĐ…

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác anh/chị vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Xử lý khi người bị thi hành án không tự nguyện thi hành án

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Xử lý khi người bị thi hành án không tự nguyện thi hành án

Câu hỏi khách hàng:

Kính chào Luật sư! Tôi muốn nhờ Luật sư tư vấn giúp với nội dung như sau: Cách đây hơn 5 năm, tôi định mua 1 mảnh đất và đặt cọc 350 triệu đồng qua 1 người chuyên môi giới, nhưng sau đó, mảnh đất này nằm trong quy hoạch nên không mua được. Tôi có gửi đơn kiện lên Tòa án và Tòa đã xử là người đó phải trả tiền cho tôi. Nhưng đã lâu rồi người đó vẫn không trả. Hiện tôi đã nghỉ hưu được 3 năm và trú tại nơi khác. Vậy nhờ Luật sư tư vấn tôi cần phải làm gì vì tôi không thể đi lại thường xuyên được. Xin cảm ơn.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 7 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 về quyền của người thi được thi hành án thì:

“Điều 7. Quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án

  1. Người được thi hành án có các quyền sau đây:
  2. a) Yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định trong Luật này.

…”

Ngoài ra, Điều 45, 46 Luật thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 quy định:

“Điều 45. Thời hạn tự nguyện thi hành án

  1. Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.
  2. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên áp dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV của Luật này.”

Điều 46. Cưỡng chế thi hành án

  1. Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
  2. Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.”

Kể từ khi có phán quyết của Tòa án thì phía người môi giới phải thực hiện phán quyết của Tòa án, trả lại số tiền đặt cọc đã nhận được từ bạn. Tuy nhiên, hết thời gian tự nguyện thi hành án (10 ngày), phía môi giới lại không thực hiện theo phán quyết của Tòa án, không trả lại số tiền nhận từ bạn, do đó bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế thi hành án. Trường hợp nếu bên phía môi giới có đủ điều kiện để trả lại số tiền cho bạn nhưng lại cố tình không thực hiện thì phía cơ quan thi hành án sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Cụ thể, bạn có thể gửi đơn yêu cầu áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án tại cơ quan thi hành án cấp huyện nơi Tòa án giải quyết vụ việc của bạn. Tuy nhiên, việc yêu cầu thi hành án, cưỡng chế thi hành án chỉ có thời hạn trong thời hạn 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Bạn chỉ có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thực hiện cưỡng chế thi hành án trong thời hạn trên.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Chưa nộp tiền án phí thì có được xóa án tích hay không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Chưa nộp tiền án phí thì có được xóa án tích hay không?

Câu hỏi khách hàng:

Năm 2012 tôi phạm tội đánh bạc và bị xử 3 năm tù. Tôi đã chấp hành xong hình phạt được 4 năm. Tôi liên hệ với Sở tư pháp để xin phiếu lý lịch tư pháp thì họ nói tôi chưa được xóa án tích do chưa nộp tiền án phí. Luật sư cho tôi hỏi chưa nộp tiền án phí thì chưa được xóa án tích có đúng không?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

– Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04 tháng 8 năm 2000 Nghị quyết

của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4 tháng 8 năm 2000 Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo thông tin bạn cung cấp, bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc và bị kết án 3 năm tù giam. Do đó bạn thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích theo Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bạn sẽ được đương nhiên xóa án tích khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không phạm tội mới trong vòng 02 năm kể tư khi chấp hành xong các hình phạt nêu trên.

“Điều 70. Đương nhiên được xóa án tích

  1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
  2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
  3. a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
  4. b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
  5. c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
  6. d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

  1. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.”

Nội dung “chấp hành xong bản án” được hướng dẫn bởi Điểm c Mục 11 Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP như sau:

Được coi là chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết khác của bản án trong các trường hợp sau đây:

+ Người bị kết án tự mình đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án;

+ Người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, còn các quyết định về tài sản trong bản án hình sự đã có người nộp thay cho người bị kết án (người thân của người bị kết án đã bồi thường thay, đã nộp tiền án phí, tiền phạt… thay cho người bị kết án hoặc người cùng người bị kết án phải liên đới bồi thường đã bồi thường đủ toàn bộ theo quyết định của bản án);

+ Người bị xử phạt tù, nhưng được hưởng án treo đã chấp hành xong thời gian thử thách, trong trường hợp đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án (nếu có).

Trường hợp một người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính từ lâu, không phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 64 Bộ luật hình sự 1999 (nay là Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) nhưng chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung hoặc các quyết định khác trong bản án (án phí hình sự, bồi thường thiệt hại v.v…), căn cứ theo quy định tại Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP thì người bị kết án chưa đủ điều kiện để được xem xét xóa án tích.

Trong trường hợp của bạn, từ khi chấp hành xong hình phạt cho đến nay đã được 4 năm,không phạm tội mới; tuy nhiên bạn chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí cho Nhà nước cho nên bạn chưa đủ điều kiện để được xóa án tích.

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định Sở Tư pháp trả lời rằng bạn chưa được xóa án tích là có căn cứ pháp luật.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng